Văn bản:
HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ (NGÔ GIA VĂN PHÁI)-HỒI THỨ 14
(Đánh Ngọc Hồi, quân Thanh bị thua trận.
Bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài)

1/ Tỏc gi?:Ngụ Gia Van Phỏi:

- Dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai – Hà Tây (cũ). Đó là dòng họ lớn nổi tiếng đỗ cao có tài văn học. Một số người trong gia đình đó đã viết chung tác phẩm Hoàng Lê Nhất Thống Chí.
- Trong đó có hai tác giả chính là:
+Ngô Thì Chí (1753 - 1788) - em ruột Ngô Thì Nhậm làm quan dưới thời Lê Chiêu Thống, tuyệt đối trung thành với nhà Lê, từng chạy theo Lê Chiêu Tống khi Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh.Dâng “Trung hưng sách” bàn kế khôi phục nhà Lê.Sau đó, được Lê Chiêu Thống cử đi Lạng Sơn chiêu tập những kẻ lưu vong lập nghĩa binh chống lại Tây Sơn. Trên đường đi, ông bị bệnh mất tại Bắc Ninh, viết 7 hồi đầu tiên.
+Ngô Thì Du (1772 - 1840) làm quan dưới triều nhà Nguyễn, là tác giả của 7 hồi tiếp theo ( trong đó có hồi thứ 14), ) anh em chú bác ruột với Ngô Thì Chí,học giỏi nhưng không đỗ đạt. Dưới triều Tây Sơn, ông sống ẩn ở Hà Nam.Thời nhà Nguyễn ông làm quan đến năm 1827 thì về nghỉ.
+Ngoài ra còn 3 hồi cuối có thể do một số người khác trong dòng họ Ngô Thì viết vào khoảng đầu triều Nguyễn.
- Họ là những người rất trung thành với nhà Lê

2.Tác phẩm

Là tác phẩm văn xuôi chữ Hán viết về những sự kiện lịch sử viết theo lối chương hồi tái hiện chân thực bối cảnh lịch sử cuối thế kỉ XVIII đầu XIX.
2.Tìm hiểu văn bản

1. Đọc
2. Giải thích từ khó
Hịch
Chiếu
Cáo
Tấu
Chí: Ghi chép lại sự vật, sự việc.
Tiểu thuyết lịch sử:
b.Thể loại:
*Thể loại
*Ý nghĩa nhan đề
Hoàng Lê nhất thống chí (An Nam thống nhất chí): ghi chép về sự thống nhất của vương triều nhà Lê vào thời điểm Tây Sơn diệt Trịnh, trả lại Bắc Hà cho vua Lê.
* Đại ý:
Miêu tả chiến thắng lẫy lừng của vua Quang Trung và sự thất bại thảm hại của quân tướng nhà Thanh cùng số phận của bọn vua quan phản nước hại dân.
-Tác dụng:
+ Tạo tính chân thực
+ Không gian truyện được mở rộng
+ Người kể dễ dàng đan xen những suy nghĩ, bình luận làm câu chuyện thêm sinh động…
* Ngôi kể:
Thứ 3
Bố cục: 3 phần


Phần1
Từ đầu -> Năm Mậu Thân 1788:
Quang Trung chuẩn bị tiến quân ra Bắc.



Phần2
Tiếp ->kéo vào thành:
Cuộc hành quân thần tốc và những chiến thắng lẫy lừng.
Phần3
Còn lại:
Sự thảm bại của bè lũ bán nước, cướp nước.
- Quõn Thanh kộo v�o Thang Long, tu?ng Tõy Son l� Ngụ Van S? lui quõn v? vựng nỳi Tam Di?p.
Bảng liệt kê các sự việc chính
- Nhận tin báo, Nguyễn Huệ rất tức giận, định đi đánh giặc ngay.
- Lên ngôi hoàng đế,
- Đốc suất đại binh tiến quân ra Bắc
Đến Nghệ An:
- Gặp Nguyễn Thiếp,
-Tuyển thêm lính
- Tổ chức cuộc duyệt binh lớn,
- Ra lời phủ dụ tướng sĩ.

Đến Tam Điệp:
- Xử trí hai tướng Sở và Lân,
- Mở tiệc khao quân,
- Tối 30 Tết lên đường ra Bắc…
- Cụng phỏ d?n H� H?i.
- Mờ sáng đánh chiếm đồn Ngọc Hồi,
- Trưa tiến quân vào chiếm kinh thành Thăng Long.
Quân Thanh kéo vào chiếm thành Thăng Long, tướng Tây Sơn là Ngô Văn Sở lui quân về vùng núi Tam Điệp. Nhận được tin đó,Nguyễn Huệ rất tức giận, định thân chinh cầm quân đi đánh giặc ngay. Nhưng nghe lời khuyên can của các tướng lĩnh, Ngày 25, ông lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Quang Trung,tự mình đốc suất đại binh tiến quân ra Bắc để dẹp Thanh. Ngày 29 đến Nghệ An, vua gặp La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp để hỏi cơ mưu đánh giặc. Dọc đường đi, vua cho kén thêm lính, mở một cuộc duyệt binh lớn, rồi ra lời phủ dụ tướng sĩ. Ngày 30, đến Tam Điệp hội ngộ với cánh quân của tướng Sở, và Lân.Tại đây vua mở tiệc khao quân và hẹn đến mồng 7 Tết thắng giặc sẽ mở tiệc ăn mừng ở Thăng Long. Tối 30 Tết, Quang Trung chia quân làm 5 đạo kéo quân ra Bắc. Ngày 3 Tết, đánh chiếm đồn Hà Hồi. Mờ sáng 5 Tết đánh đồn Ngọc Hồi, tướng giặc là Sầm Nghi Đống tự thắt cổ chết. Trưa mồng 5 Tết tiến quân vào Thăng Long. Trước khí thế như vũ bão của nghĩa quân Tây Sơn, tướng nhà Thanh là Tôn Sĩ Nghị vội vã tháo chạy về nước, Vua Lê Chiêu Thống cùng gia quyến chạy trốn theo trong sự nhục nhã kinh hoàng .
Tóm tắt
1.Hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ- Quang Trung.
Khi Bắc Bình Vương đư­ợc tin cấp báo quân Thanh đã đến Thăng Long, Ông đã có phản ứng như thế nào ?
Nghe tin: Giận lắm, họp tướng sĩ, định thân chinh cầm quân đi ngay.
Khi mọi người đến họp đã khuyên Ông điều gì ? Ông đã hành động như thế nào ?
Nghe lời tướng sĩ lên ngôi Hoàng đế, sau đó hạ lệnh xuất quân (25/12/1788 )
Khi nghe mọi người đến họp khuyên Quang Trung đã có nghe lời tướng sĩ, lên ngôi Hoàng đế... Việc làm đó chứng tỏ Ông là con người như thế nào ?
Thấu hiểu lẽ phải, có ý chí quyết tâm đánh đuổi quân xâm lược
* Ngày 29 tháng 12 đến Nghệ An:
Ngày 29 tháng 12 Quang Trung đó đến địa danh nào ? ở đây Ông đó có những việc làm gì ?
Gặp ngưu?i cống sĩ ở La Sơn hỏi việc đánh giặc.
Kén lính ở Nghệ An và mở cuộc duyệt binh lớn.
Sắp xếp đội ngũ và truyền cho quân sĩ ngồi nghe lệnh và dụ họ.
Chỉ trong vòng ngày 29 Quang Trung làm được bao nhiêu là việc lớn. Những việc làm đó cho thấy Ông là một ngu?i luôn hành động nhuư thế nào ?
Hành động mạnh mẽ, quyết đoán.
… “Quân Thanh sang xâm lấn nước ta, hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị. Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân, đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc. Ở các thời ấy, Bắc, Nam riêng phận, bờ cõi lặng yên, các vua truyền ngôi lâu dài. Từ đời nhà Đinh tới đây, dân ta không đến nỗi khổ như hồi nội thuộc xưa kia. Mọi việc lợi, hại, được, mất ấy đều là chuyện cũ rành rành của các triều đại trước. Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết trông gương đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng. Các ngươi đều là những kẻ có lương tri, lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn. Chớ có quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo là ta không nói trước!”.

… “ Quân Thanh sang xâm lấn nước ta, hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị. Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân, đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc. Ở các thời ấy, Bắc, Nam riêng phận, bờ cõi lặng yên, các vua truyền ngôi lâu dài. Từ đời nhà Đinh tới đây, dân ta không đến nỗi khổ như hồi nội thuộc xưa kia. Mọi việc lợi, hại, được, mất ấy đều là chuyện cũ rành rành của các triều đại trước. Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết trông gương đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng. Các ngươi đều là những kẻ có lương tri, lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn. Chớ có quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo là ta không nói trước!”.

Thông báo đất nước lâm nguy có giặc Thanh sang xâm lược.
… “Quân Thanh sang xâm lấn nước ta, hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị. Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân, đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc. Ở các thời ấy, Bắc, Nam riêng phận, bờ cõi lặng yên, các vua truyền ngôi lâu dài. Từ đời nhà Đinh tới đây, dân ta không đến nỗi khổ như hồi nội thuộc xưa kia. Mọi việc lợi, hại, được, mất ấy đều là chuyện cũ rành rành của các triều đại trước. Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết trông gương đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng. Các ngươi đều là những kẻ có lương tri, lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn. Chớ có quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo là ta không nói trước!”.

NAM QUỐC SƠN HÀ
Khẳng định chủ quyền của đất nước.
… “Quân Thanh sang xâm lấn nước ta, hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị. Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân, đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc. Ở các thời ấy, Bắc, Nam riêng phận, bờ cõi lặng yên, các vua truyền ngôi lâu dài. Từ đời nhà Đinh tới đây, dân ta không đến nỗi khổ như hồi nội thuộc xưa kia. Mọi việc lợi, hại, được, mất ấy đều là chuyện cũ rành rành của các triều đại trước. Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết trông gương đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng. Các ngươi đều là những kẻ có lương tri, lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn. Chớ có quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo là ta không nói trước!”.

Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
NAM QUỐC SƠN HÀ
… “Quân Thanh sang xâm lấn nước ta, hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị. Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân, đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc. Ở các thời ấy, Bắc, Nam riêng phận, bờ cõi lặng yên, các vua truyền ngôi lâu dài. Từ đời nhà Đinh tới đây, dân ta không đến nỗi khổ như hồi nội thuộc xưa kia. Mọi việc lợi, hại, được, mất ấy đều là chuyện cũ rành rành của các triều đại trước. Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết trông gương đời Tống, Nguyên, Mimh ngày xưa. Vì vậy ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng. Các ngươi đều là những kẻ có lương tri, lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn. Chớ có quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo là ta không nói trước!”.

Nêu bật dã tâm xâm lược của giặc đã có từ lâu,
Lên án hành động xâm lược phi nghĩa của giặc là trái với đạo trời.
… “Quân Thanh sang xâm lấn nước ta, hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị. Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân, đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc. Ở các thời ấy, Bắc, Nam riêng phận, bờ cõi lặng yên, các vua truyền ngôi lâu dài. Từ đời nhà Đinh tới đây, dân ta không đến nỗi khổ như hồi nội thuộc xưa kia. Mọi việc lợi, hại, được, mất ấy đều là chuyện cũ rành rành của các triều đại trước. Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết trông gương đời Tống, Nguyên, Mimh ngày xưa. Vì vậy ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng. Các ngươi đều là những kẻ có lương tri, lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn. Chớ có quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo là ta không nói trước!”.



Tự hào về truyền thống đánh giặc cứu nước của ông cha ta.
Tin tưởng vào cuộc kháng chiến chính nghĩa sẽ tất thắng.
… “Quân Thanh sang xâm lấn nước ta, hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị. Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân, đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc. Ở các thời ấy, Bắc, Nam riêng phận, bờ cõi lặng yên, các vua truyền ngôi lâu dài. Từ đời nhà Đinh tới đây, dân ta không đến nỗi khổ như hồi nội thuộc xưa kia. Mọi việc lợi, hại, được, mất ấy đều là chuyện cũ rành rành của các triều đại trước. Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết trông gương đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng. Các ngươi đều là những kẻ có lương tri, lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn. Chớ có quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo là ta không nói trước!”.

Kêu gọi tướng sĩ đoàn kết một lòng đánh giặc cứu nước.
… “Quân Thanh sang xâm lấn nước ta, hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị. Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân, đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc. Ở các thời ấy, Bắc, Nam riêng phận, bờ cõi lặng yên, các vua truyền ngôi lâu dài. Từ đời nhà Đinh tới đây, dân ta không đến nỗi khổ như hồi nội thuộc xưa kia. Mọi việc lợi, hại, được, mất ấy đều là chuyện cũ rành rành của các triều đại trước. Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết trông gương đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng. Các ngươi đều là những kẻ có lương tri, lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn. Chớ có quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo là ta không nói trước!”.

Ra kỷ luật nghiêm với quân sĩ.
… “Quân Thanh sang xâm lấn nước ta, hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị. Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân, đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc. Ở các thời ấy, Bắc, Nam riêng phận, bờ cõi lặng yên, các vua truyền ngôi lâu dài. Từ đời nhà Đinh tới đây, dân ta không đến nỗi khổ như hồi nội thuộc xưa kia. Mọi việc lợi, hại, được, mất ấy đều là chuyện cũ rành rành của các triều đại trước. Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết trông gương đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng. Các ngươi đều là những kẻ có lương tri, lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn. Chớ có quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo là ta không nói trước!”.

* Ý nghĩa của lời phủ dụ:
Lời phủ dụ thấu tình đạt lý như lời hịch, khích lệ, động viên
tinh thần binh sĩ phấn khởi đánh giặc cứu nước.
Quan sát lời chỉ dụ của vua Quang Trung với quân sĩ trong SGK trang 66 em thấy nội dung lời chỉ dụ nêu lên những gì ?
Khẳng định chủ quyền đất nưuớc.
Nêu lên dó tâm của giặc phưuong Bắc.
Tự hào về công lao đánh giặc ngoại xâm của cha ông.
Tin tuưởng vào chính nghĩa của cuộc hành binh diệt Thanh và kêu gọi quân sĩ đánh giặc.
Ra kỷ luật đối với quân sĩ.
Từ lời dụ quân sĩ trên em thấy tài năng nào của Nguyễn Huệ đưu?c bộc lộ ?
Trí tuệ, sáng suốt và nhạy bén.
Lời chỉ dụ của Quang Trung_Nguyễn Huệ
* Ngày 30 tháng 12 năm 1788
Sau khi mở cuộc duyệt binh vào ngày 29 ở Nghệ An. Ngày hôm sau ( 30 Tết ) Quang Trung đó có quyết định gì ?
Hạ lệnh xuất quân đến Tam Điệp.
Mở tiệc khao quân.
Xử trí hai tưu?ng Sở và Lân
Hoạch định kế sách đánh giặc và tính kế hoạch ngoại giao sau chiến tranh.
Tại Tam Điệp, Quang Trung đó có những việc làm nào ?
Tối 30 Tết thì lên đưu?ng tiến quân ra Thăng Long.
-> Sáng suốt trong việc dùng người.
-> Có tầm nhìn xa trông rộng
-> Ý chí quyết chiến, quyết thắng
*Đến Tam Điệp:
Cách xử trí với các tướng lĩnh ở Tam Điệp:
+ Phân tích rõ phải –trái, ông rất hiểu các tướng sĩ, khen chê đúng người, đúng việc, ân uy rạch ròi.
=> Sáng suốt, nhạy bén trong việc xét đoán và dùng người
Phương hướng chiến lược:
+Hoạch định kế sách đánh giặc đã tính sẵn,
+ Tính kế ngoại giao sau chiến tranh
« Chờ 10 năm cho ta yên ổn nuôi dưỡng lực lượng...
nước giàu quân mạnh thì sợ gì chúng?»
-> Chiến lược đánh lâu dài, tránh việc binh đao để phúc cho dân.
=> Ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng của một nhà chính trị có tư tưởng chuộng hòa bình…
- Mở tiệc khao quân: hẹn ngày 7 tháng giêng vào Thăng Long mở tiệc ăn mừng...
* Tối 30 Tết kéo quân ra Thăng Long.
=> Năng lực tiên đoán chính xác của một nhà quân sự đại tài…


*Đến Tam Điệp:
- Xử trí các tướng lĩnh
- Phương hướng chiến lược
- Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc, cầu viện hoàng đế nhà Thanh là Càn Long. Cuối năm 1788, Càn Long sai Tổng đốcLưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị chỉ huy 20 vạn quân Thanh hộ tống Lê Chiêu Thống về Đại Việt với danh nghĩa "phù Lê", vào chiếm đóng Thăng Long.
- Ngày 29 tháng 11 năm Mậu Thân (26 tháng 12 năm 1788), đại quân của hoàng đế Quang Trung tới Nghệ An, dừng quân tại đó hơn 10 ngày để tuyển quân và củng cố lực lượng, nâng quân số lên tới 10 vạn, tổ chức thành 5 đạo quân: tiền, hậu, tả, hữu và trung quân.
Đạo quân do Quang Trung chỉ huy có Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân làm tiên phong, có cả tượng binh và kỵ binh đánh vào chính mặt nam Thăng Long.
Đạo quân do đô đốc Tuyết chỉ huy theo đường thuỷ tiến vào sông Lục Đầu, đánh đồn quân cần vương của Lê Duy Kỳ ở Hải Dương, chặn đường rút của quân Thanh bên kia sông Hồng.
Đạo quân đô đốc Lộc chỉ huy cùng đạo quân đô đốc Tuyết theo đường thuỷ tiến vào sông Lục Đầu, tới đây tách ra đi gấp lên Phượng Nhãn, Lạng Giang chặn đường rút của quân Thanh phía bắc.
Đạo quân đô đốc Bảo chỉ huy, cũng có tượng binh và kỵ binh theo đường Ứng Hoà (Hà Tây) ra làng Đại Áng, phối hợp với cánh quân Quang Trung đánh đồn Ngọc Hồicủa Hứa Thế Hanh.
Đạo quân đô đốc Long chỉ huy, cũng có tượng binh và kỵ binh theo đường Chương Đức, hướng lên Sơn Tây nhưng sẽ rẽ quặt sang làng Nhân Mục tập kích đồn Khương Thượng của Sầm Nghi Đống và tiến vào Thăng Long từ hướng tây.
Ngày 30 tháng chạp, Quang Trung cho quân ăn tết trước rồi hạ lệnh tiến quân. Ông hẹn với ba quân mồng 7 tháng Giêng âm lịch sẽ vào ăn tết ở Thăng Long.
Quang Trung đại phá quân Thanh:
* Trong việc dùng binh:
- 25 tháng chạp xuất quân ở Phú Xuân (Huế)
- Một tuần sau đã ra đến Tam Điệp cách Huế 500 km mà tất cả chỉ đi bộ.
- 30 tháng chạp tổ chức khao quân, hẹn 7 tháng giêng sẽ vào ăn Tết ở Thăng Long
- Thực tế chiều mùng 5 tháng giêng năm Kỉ Dậu, đoàn quân đã tiến vào chiếm được kinh thành Thăng Long
=> Vị tướng mưu lược, kì tài.
* Cách đánh giặc:
+Phú Xuyên:
- Bắt sống toàn bộ bọn nghĩa binh cùng quân Thah đi do thám mà vẫn giữ được bí mật.

+ Hà Hồi:
- Đánh nghi binh: bí mật bao vây kín làng, bắc loa truyền gọi
-> địch sợ hãi xin hàng.
 Đánh bí mật, bất ngờ với kế sách «Tướng ở trên trời xuống, quân chui dưới đất lên», đảm bảo thắng lợi mà không hao binh tổn tướng.
* Cách đánh giặc:
+Phú Xuyên:
+ Hà Hồi:
+ Ngọc Hồi:

+ Mũi chính:
- Quang Trung trực tiếp chỉ huy
- Vua cưỡi voi đi đốc thúc, quân dàn trận chữ nhất, đánh giap lá cà.
+ Mũi phụ:
- Bao vây đường rút lui của giặc, cho voi giày đạp.
+ Kết quả: - Quân Thanh bỏ chạy tán loạn, giầy xéo lên nhau mà chết, Sầm Nghi Đống thắt cổ tự tự.


 Quang Trung là bậc kỳ tài trong việc dùng binh
LÍNH TÂY SƠN
Ngoài "xe tăng voi lửa" kể trên, binh lính Tây Sơn còn được trang bị một loại vũ khí cá nhân là Hỏa hổ. Hỏa hổ là một loại vũ khí hình ống, một loại súng phun lửa có thể biến địch thành "cây đuốc sống". Khi lâm trận, trong ống Hỏa hổ bắn nhựa thông ra, trúng phải đâu là lập tức bốc cháy. Loại vũ khí đặc biệt này được trang bị cho cả quân chủng lục quân và thủy quân của nhà Tây Sơn.
Nguyễn Huệ đã biến voi thành những "cỗ xe tăng“ có sức mạnh áp đảo, trang bị đại bác và hỏa pháo trên lưng. Trên lưng mỗi quân voi có ba, bốn người lính chít khăn đỏ, ngồi ném tung hỏa cầu lưu hoàng ra khắp nơi, đốt cháy quân địch.
Đội quân "voi lửa" của vua Quang Trung, người thiên tài quân sự cả đời cầm quân không hề biết thua trận là gì, đã hội đủ cả 3 yếu tố chiến thuật: Cơ động, đột kích và hỏa lực. Đây thật sự là một cuộc cách mạng voi chiến so với các thời kỳ trước đó.
Hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ:
Yêu nước, căm thù giặc, mạnh mẽ quyết đoán trước những biến cố lớn.
Sáng suốt trong việc phân tích tình hình thời cuộc và thế tương quan chiến lược giữa ta và địch
- Sáng suốt, nhạy bén trong việc xét đoán và dùng người
Ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng của một nhà chính trị có tư tưởng chuộng hòa bình…
Năng lực tiên đoán chính xác của một nhà quân sự đại tài…
- Vị tướng mưu lược, kì tài.
=> Quang Trung là vị vua yêu nước, sáng suốt có tài cầm quân. Là người tổ chức và là linh hồn của chiến công vĩ đại.

LỄ HỘI ĐỐNG ĐA
2. Số phận thảm bại của bọn cướp nước và lũ bán nước.
Hình ảnh bọn cướp nước:
* Khi tiến vào nước ta:
-Vào Thăng Long như vào chỗ
không người.
-Quân lính thả sức cướp bóc,
ức hiếp dân ta.
* Khi quân Tây Sơn đánh :
- Rụng rời sợ hãi, xin hàng.
- Bỏ chạy tán loạn.
- Sầm Nghi Đống thắt cổ chết.
- Tôn Sĩ Nghị không kịp mặc
giáp, cưỡi ngựa không yên
cương chạy trốn.
=> Thất bại thảm hại
Hình ảnh quân nhà Thanh vượt sông Hồng
hoảng sợ bỏ chạy về nước
b.Hình ảnh vua quan nhà Lê:
*Cầu viện quân Thanh:
-Thấy quân Thanh không đề
phòng , vua Lê rất lo sợ.
-Ra vào chầu với giặc.
*Khi quân Thanh bỏ chạy :
-Vua quan cùng đưa Thái hậu
chạy trốn theo.
-Nhờ viên thổ hào cho ăn, ở.
-Đến cửa ải : nhìn nhau chảy
nước mắt
* Nghệ thuật: Kể chuyện xen kẽ miêu tả một cách sinh động.
- Cả 2 cuộc tháo chạy đều tả thực, với những chi tiết cụ thể, những âm hưởng khác nhau.
- Đoạn miêu tả quân Thanh: nhịp điệu nhanh, mạnh, hối hả - thể hiện sự hả hê sung sướng của người thắng trận.
- Đoạn miêu tả vua Lê Chiêu Thống: nhịp điệu chậm hơn, âm hưởng có phần ngậm ngùi chua xót.
III.Tổng kết :
1)Nghệ thuật :
-Cách trần thuật đặc sắc
-Ghi lại những sự kiện lịch sử diễn biến gấp gáp, khẩn trương qua từng mốc thời gian
-Miêu tả cụ thể từng hành động, lời nói của nhân vật chính, từng trận đánh và những mưu lược tính toán, thế đối lập giữa hai đội quân ( một bên thì xộc xệc, trễ nải, nhát gan >< một bên thì xông pha, dung mãnh, nghiêm chỉnh)
-Hình ảnh người anh hùng QT được khắc họa rõ nét, có tính cách quả cảm, mạnh mẽ, trí tuệ sáng suốt, có tài dụng binh như thần, là người có tổ chức và là linh hồn của những chiến công vĩ đại.
- Một sự mâu thuẫn: Nhan đề mang ý nghĩa ca ngợi nhà Lê,nhưng nội dung tác phẩm lại vạch rõ sự thối nát, mục ruỗng của triều đình nhà Lê, và ca ngợi người anh hùng áo vải Tây Sơn Nguyễn Huệ.
2) Nội dung :
Với quan điểm lịch sử đúng đắn và niềm tự hào dân tộc, các tác giả “Hoàng Lê nhất thống chí” đã tái hiện chân thực hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá quân Thanh, sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống.
IV.Luyện tập :
*Thảo luận :
-Tại sao các tác
giả là quan lại nhà
Lê, mà lại viết về
Nguyễn Huệ một
cách sinh động, lẫm
liệt như vậy?
-Các tác giả tôn trọng sự thật
lịch sử.
-Họ có ý thức tự hào dân tộc.
-Tính cách của các nhà viết sử
thời phong kiến.

=>Đó là điểm tiến bộ của các giả Ngô gia văn phái.
Bài tập 1:
Câu 1: Hoàng Lê nhất thống trí là tác phẩm văn xuôi chữ Hán có quy mô lớn nhất và đạt những thành công xuất sắc về mặt nghệ thuật, đặc biệt trong lĩnh vực tiểu thuyết của Văn học Việt Nam thời trung đại.
Trình bày ngắn gọn hiểu biết của em về tác giả bằng đoạn văn ngắn (5 - 7 câu).
Câu 2: Giải thích ý nghĩa nhan đề tác phẩm.
Câu 3: Tóm tắt hồi thứ 14 của tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí.
Câu 4: Tại sao gọi Hoàng Lê nhất thống chí là tiểu thuyết lịch sử.
Câu 5: Nêu cảm nghĩ của em về nhân vật vua Quang Trung trong hồi thứ 14 của tác phẩm.
Câu 6: Em có nhận xét gì về thái độ của tác giả trong đoạn trích trên.
Câu 7: Nhận xét về bút pháp tái hiện sự thực lịch sử của các tác giả Hoàng Lê nhất thống chí qua đoạn trích hồi thứ mười bốn.

BÀI TẬP VỀ NHÀ
Bài tập 2: Sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống được miêu tả như thế nào? Cùng là miêu tả hai cuộc tháo chạy nhưng cách miêu tả khác nhau ra sao?
Bài tập 3: Có ý kiến nhận xét: Đọc lời dụ tướng sĩ của vua Quang Trung – Nguyễn Huệ, ta nghe như âm vang của Nam quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt), Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn), Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi).
Em hãy phân tích lời dụ tướng sĩ của vua Quang Trung -Nguyễn Huệ và làm sáng tỏ nhận xét trên.
QUANG TRUNG
i
m
d
o
t
t
y
h
i
o
n
n
a
e
i
s
a
c
o
k
t
n
a
u
q
g
n
u
r
t
g
h
u
i
y
o
o
d
g
h
a
o
d
d
n
y
g
n
t
h
n
h
a
o
m
h
c
g
o
d
s
a
n
o
n
y
s
a
d
h
o
. Nghĩa quân nào đã giành thắng lợi trong trận đại phá quân Thanh?
Trong trận Ngọc Hồi, quân ta ghép các mảnh ván và lấy cái gì quấn ở bên ngoài để làm lá chắn?
Tên tướng giặc đã thắt cổ tự tử ở đồn Đống Đa?
Năm 1789 theo âm lịch được gọi là năm gì?
Mờ sáng mồng 5 tết năm Kỷ Dậu(1789), quân ta cùng một lúc đánh vào những đồn nào của địch?
Tên một đô đốc chỉ huy quân ta vượt biển tiến vào Hải Dương?
Đêm mồng ba tết năm Kỷ Dậu(1789), quân ta tấn công đồn nào?
6.Đây là tên tướng giặc đã chỉ huy quân Thanh sang xâm lược nước ta năm 1788.
Cuối năm 1788, hai mươi chín vạn quân nào kéo vào nước ta?
1
2
3
4
8
7
5
10
9
GIẢI Ô CHỮ
6


HOÀNG ÐẾ QUANG TRUNG: MỘT ÐẠI ANH HÙNG DÂN TỘC


Quang Trung nhà Nguyễn Tây Sơn là ông vua anh dũng ,lấy võ lược mà dựng nghiệp, nhưng ngài có độ lượng, rất am hiểu việc trị nước, biết trọng những người hiền tài văn học. Khi ngài ra lấy Bắc Hà, những người như Ngô Thì Nhiệm, Phan Huy Ích đều được trọng dụng .. .
Là đại anh hùng dân tộc, vì những phẩm chất và công trạng phi thường của vua Qung Trung như đã được lịch sử ghi nhận và đánh giá, đã là niềm kiêu hãnh và tự hào chung cho dân tộc Việt Nam qua nhiều thế hệ. Vì tất cả công trạng và phẩm chất ấy của vua Quang Trung đã tận hiến cho dân, cho nước, cho dân tộc và cho Tổ quốc Việt nam. Tiếc thay nhân tài bạc mệnh, vua Quang Trung mới trị vì được bốn năm thì băng hà, ở vào tuổi đời 40 (1752-1792). Vua Quang Trung mất sớm là một mất mát lớn lao cho dân, cho nước, và cho lịch sử Việt nam. Bởi vì, những cải cách sáng tạo về nội trị có tính cách mạng đầy triển vọng mới bắt đầu, và ý định đánh Tàu đòi đất (Lưỡng Quảng) chưa kịp thực hiện, thì vua Quang Trung đã mất. Vì vậy, đã có giả định rằng, nếu vua Quang Trung sống lâu hơn, chắc chắn lịch sử Việt nam đã ghi được nhiều điểm son rất đáng tự hào trong triều đại Nhà Tây sơn... Giả định này có cơ sở, vì Nguyễn Huệ - Quang Trung đã chứng tỏ những tư chất hiếm hoi: nhà cách mạng thời đại, thiên tài quân sự và chính trị, và là một đại anh hùng dân tộc.


1753�-�1792
Tượng đài Quang Trung ở Bình Định
HƯỚNG DẪN VỀ NHÀ :
-Học bài, ghi nhớ (SGK)
-Đọc lại truyện.
-Giải thích nghĩa các từ Hán Việt.
-Cảm nhận được hình ảnh Nguyễn Huệ -
Quang Trung.
-Soạn : “Truyện Kiều”- Nguyễn Du
Bùi Thị Xuân  tỉnh Bình Định
Sinh trưởng trong một gia đình khá giả, Bùi Thị Xuân sớm được học văn và học võ, người có nhan sắc, khéo tay và viết chữ đẹp. Đến khi theo học võ với Đô thống Ngô Mạnh, bà cũng nhanh chóng thành thạo, nhất là môn song kiếm.
Với tài nghệ (ngoài tài kiếm thuật, bà còn giỏi bắn cung, cưỡi ngựa và luyện voi) cộng với lòng dũng cảm, Bùi Thị Xuân cùng chồng nhanh chóng trở thành những tướng lĩnh trụ cột, góp công lớn trong công cuộc dựng nghiệp của nhà Tây Sơn ngay từ buổi đầu, trận đại phá quân Mãn Thanh vào đầu xuân Kỷ Dậu (1789), bà chỉ huy đội tượng binh của đạo Trung quân do vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) chỉ huy
nguon VI OLET