Bầu cử Tổng thống Mỹ
Cách thức bầu cử Tổng thống Mỹ
Giai đoạn vận động trở thành ứng viên của đảng.
Giai đoạn tổ chức đại hội đảng.
Giai đoạn vận động tranh cử.
Ngày bầu cử.

1. Giai đoạn vận động trở thành ứng viên của đảng.
Đây là giai đoạn các ứng viên (thuộc cùng một đảng) cạnh tranh trong nội bộ đảng để được chọn là ứng viên duy nhất ra tranh chức tổng thống với đảng khác.
2. Giai đoạn tổ chức đại hội đảng.
Đại hội đảng tổ chức vài tháng trước cuộc bầy cử Tổng thống để chọn ứng vien ra tranh chức Tổng thống. Thường thì khi diễn ra đại hội người ta đã biết ứng viên nào được tuyển chọn vào các cuộc vận động của các ứng viên tại các tiểu bang.
Sau đại hội đảng, ứng viên duy nhất của đảng Cộng hòa và Dân chủ mới bắt đầu trực tiếp đối đầu trong cuộc chạy đua. Họ sẽ chi những khoản tiền khổng lồ cho hoạt động quảng bá và cho một loạt các cuộc vận động ở các bang. Thời điểm này, một trong những hoạt động gây chú ý nhiều nhất là các cuộc tranh luận trên truyền hình giữa các ứng viên.
3. Giai đoạn vận động tranh cử.
Bầu cử tổng thống ở Mỹ thường được tổ chức vào ngày thứ ba sau ngày thứ hai đầu tiên trong tháng 11. Về mặt kỹ thuật thì cá nhân các cử tri Mỹ (voter) không trực tiếp bầu tổng thống. Lá phiếu của họ gọi là phiếu phổ thông và việc của họ là chọn ra đại diện cử tri hay còn gọi là đại cử tri (Elector), tức những người đã tuyên bố rõ ủng hộ ứng viên này hay ứng viên kia.
4. Ngày bầu cử.
Bầu cử Tổng thống Mỹ thường là cuộc chạy đua  giữa đảng chính: đảnh con Voi (Cộng hòa) và đảng con Lừa (Dân chủ)
I. Ưu điểm.
1. Dễ nắm bắt.
- Nói một cách đơn giản, hệ thống lưỡng đảng giúp người dân dễ nắm bắt vấn đề. Khi chỉ có hai đảng lớn có quan điểm mâu thuẫn, việc chọn bên này hay bên kia sẽ trở nên dễ dàng hơn. Ngoài ra, vì đường lối của các đảng đi theo những ý thức hệ tương ứng, nên mọi người có thể dễ dàng đồng tình và đứng về một trong hai đảng.

Với hệ thống lưỡng đảng, mỗi đảng phải tìm ra những lập trường phổ biến, nói thay cho mong muốn của đông đảo người dân. Do đó, các đảng sẽ có nhiều khả năng định hướng mình theo quan điểm trung lập – thể hiện phổ quan điểm chung và được nhiều người dân đồng tình, thay vì những quan điểm cực đoan có thể đẩy đảng vào thế nguy xa rời quần chúng. Khi một đảng trở nên cực đoan trong một vấn đề, nhiều người sẽ chuyển sang bỏ phiếu cho đảng còn lại, gửi đi thông điệp rõ ràng rằng những quan điểm như vậy không được lòng người.
2. Lập trường phổ biến.

Khi chỉ có hai đảng hoạt động nhận được sự quan tâm của phần đông dân chúng, việc tổ chức các cuộc tranh luận và các sự kiện bầu cử trở nên dễ dàng hơn nhiều. Các sự kiện có thể được lên lịch từ sớm, và người dân cũng có thể nhận được những cảnh báo chính trị sớm hơn. Ngoài ra, việc có ít đảng cũng mở ra khả năng có nhiều cuộc tranh luận trực tiếp, từ đó giúp nâng cao nhận thức của người dân về vấn đề chính trị.

3. Thuận tiện cho hoạt động tổ chức bầu cử.

Trong 50 bang của Mỹ thì có 48 bang, các cuộc bỏ phiếu bầu cử được tiến hành dựa trên cơ sở “được ăn cả ngã về không” (“Winner takes it all”). Chẳng hạn, nếu bạn giành được 51% phiếu bầu của bang Florida, thì coi như bạn đã nắm toàn bộ số phiếu của bang này. Hệ thống này giúp xác định một cách dễ dàng và nhanh chóng xu hướng chính yếu của phần đông cử tri.

4. Những đảng phái thành công đại diện cho số lượng lớn cử tri tại một địa phương.
II. Nhược điểm.
1. Khó thay thế quyền lực lưỡng đảng.
Tuy nhiên, ưu điểm số bốn cũng có những nhược điểm nhất định. Như đã nói ở trên, với cơ chế “được ăn cả”, đảng muốn chiến thắng cần một sức mạnh tập trung tại bất kỳ một khu vực địa lý bầu cử nào. Điều này không phản ánh được cơ sở ủng hộ của một số đảng phái rải rác trên toàn quốc gia. Ít được biết đến trong cuộc bầu cử, các ứng viên đảng thứ ba có thể chẳng bao giờ nhận được sự chú ý cần thiết để chạy đua với ứng viên của hai đảng chính.
2. Hạn chế bản chất tranh luận.

Với một sự việc, luôn có nhiều cách nhìn nhận khác nhau. Tuy nhiên, với hệ thống lưỡng đảng, một số chi tiết nhỏ trong các chủ đề sẽ bị che lấp bởi sự đồng thuận của số đông trong đảng. Điều này làm hạn chế bản chất tự nhiên của các cuộc tranh luận, tập trung hoàn toàn vào ý kiến của đúng hai người. Những hệ thống cho phép nhiều hơn hai đảng phái tồn tại sẽ có nhiều ý kiến về các chủ đề hơn, từ đó cho phép người bỏ phiếu bầu có nhiều cơ hội lựa chọn hơn.

Ở Mỹ, rất hiếm có chuyện chính phủ liên minh. Lý do là vì với hệ thống lưỡng đảng, người thắng và kẻ thua rất rõ ràng. Với những hệ thống có nhiều đảng phái hơn, người giành chiến thắng sẽ phải liên minh với các đối thủ để điều hành đất nước hiệu quả hơn (hoặc cũng có thể gây ra tình trạng hỗn loạn hơn). Đảng thắng cử phải làm việc với đảng đối lập để phê duyệt những điều luật hay chương trình cải cách có ý nghĩa. Trong khi đó, với hệ thống lưỡng đảng, các đảng không phải lo làm sao làm việc được với nhau. Phần lớn thời gian sẽ được họ dùng để tìm cách đấu đá nhau.
3. Tư duy phân biệt đảng phái.
Lần cuối bạn bỏ phiếu cho một đảng thuộc bên thứ ba là khi nào? Bạn có tin rằng khi bạn bỏ phiếu cho một bên thứ ba tức là bạn đang ném đi lá phiếu của mình không? Đây không phải là cảm giác hiếm gặp với những hệ thống lưỡng đảng. Ở Mỹ, bỏ phiếu cho bên thứ ba, người không thể chiến thắng, thường được cho là hành động tách mình ra khỏi hoạt động chính trị. Với hệ thống lưỡng đảng, người ta không hy vọng một đảng bất kỳ nào khác có thể nổi lên soán vị trí nổi bật và quan trọng của hai đảng hiện tại.
4. Cảm giác không có lựa chọn
The End
nguon VI OLET