KỸ THUẬT CHẠY NGẮN LỚP 10
KỸ THUẬT CHẠY CỰ LY NGẮN KHỐI 10

Chạy cự ly ngắn được chia một cách quy ước thành 4 giai đoạn: xuất phát, chạy lao sau xuất phát, chạy giữa quãng và về đích.
I/XUẤT PHÁT:
Trong chạy ngắn người ta áp dụng cách xuất phát thấp vì kỹ thuật này giúp vận động viên bắt đầu chạy nhanh hơn và sớm đạt được tốc độ cực đại trong khoảng thời gian ngắn. Để xuất phát nhanh, người ta sử dụng bàn đạp xuất phát, bàn đạp xuất phát bảo đảm cho vận động viên có điểm tỳ vững chắc để đạp sau, sự ổn định khi đặt chân.
Có 3 cách bố trí bàn đạp xuất phát cơ bản:
- Cách “thông thường”: bàn đạp trước đặt cách vạch xuất phát 1 – 1.5 bàn chân, còn bàn đạp sau cách bàn đạp trước một khoảng bằng độ dài cẳng chân (gần 2 bàn chân).
- Cách “kéo dãn”: vận động viên rút ngắn khoảng cách giữa hai bàn đạp xuống còn một bàn chân hoặc ít hơn. Khoảng cách từ bàn đạp trước đến vạch xuất phát gần 2 bàn chân (khoảng cách này được kéo dãn).
- Cách “làm gần”: khoảng cách giữa 2 bàn đạp được rút ngắn lại còn một bàn chân hoặc nhỏ hơn, song khoảng cách từ vạch xuất phát đến bàn đạp trước chỉ còn khoảng 1 – 1.5 bàn chân (như vậy khoảng cách từ bàn đạp sau đến vạch xuất phát được làm gần lại).
Việc đặt bàn đạp xuất phát gần nhau bảo đảm sự nổ lực đồng thời của cả hai chân khi bắt đầu chạy và tạo cho người chạy gia tốc lớn hơn ở những bước đầu. Song vị trí gần nhau của hai bàn chân và việc hầu như đạp sau đồng thời của chúng gây trở ngại cho việc chuyển đến đạp sau luân phiên của từng chân ở những bước tiếp theo.
Mặt tựa của bàn chân trước nghiêng dưới góc 45 - 500 ; mặt tựa của bàn đạp sau từ 60 – 800 . Góc nghiêng của mặt tựa bàn đạp thay đổi tùy thuộc vào khoảng cách đến vạch xuất phát. Khi bàn đạp được đặt gần vạch xuất phát thì góc nghiêng mặt tựa bàn đạp giảm đi, còn khi kéo xa khỏi vạch xuất phát thì góc nghiêng tăng lên. Khoảng cách giữa hai bàn đạp và việc đặt bàn đạp xa hay gần vạch xuất phát tùy thuộc vào đặc điểm cơ thể vận động viên, trình độ phát triển các tố chất nhanh, mạnh và những tố chất khác của họ.
Theo hiệu lệnh “vào chỗ”, vận động viên chạy tiến ra trước hai bàn đạp, ngồi xuống và chống tay về phía trước vạch xuất phát. Từ thư thế này, vận động viên chuyển chân từ phía trước ra phía sau, lần lượt tỳ bàn chân lên mặt tựa bàn đạp trước rồi đến bàn đạp sau. Hai mũi giầy chạy chạm mặt đường hoặc hai đinh đầu tiên tỳ xuống mặt đường. Sau khi hạ gối sau xuống, vận động viên thu hai tay về và đặt xuống sát sau vạch xuất phát. Lúc này giữa ngón cái và các ngón còn lại để sát nhau tạo thành vòm. Hai tay duỗi thẳng tự nhiên, chống tỳ trên đất ở độ rộng bằng vai. Thân trên thẳng, đầu duỗi thẳng so với thân trên và trọng lượng cơ thể được phân đều giữa hai tay, chân chống trước và đầu gối chân sau.
Theo lệnh “sẵn sàng”, vận động viên hơi duỗi chân, gối chân đặt sau tách khỏi mặt đường làm trọng tâm hơi chuyển lên trên và ra trước. Lúc này, trọng lượng cơ thể dồn trên hai tay và chân chống trước, hình chiếu của trọng tâm cơ thể trên đất phải cách vạch xuất phát từ 15 – 20 cm. Hai đế giầy tỳ sát vào mặt tựa bàn đạp, vùng hông nâng cao hơn vai 10 – 20 cm và lúc này hai cẳng chân gần như song
song với nhau. Trong tư thế “sẵn sàng”, điều cần lưu ý là không nên dồn trọng lượng cơ thể quá nhiều xuống hai tay vì điều này làm ảnh hưởng xấu đến thời gian hoàn thành xuất phát thấp
Trong tư thế “sẵn sàng”, góc gấp chân ở khớp gối có vai trò quan trọng. Việc tăng góc này (trong giới hạn nào đó) tạo điều kiện cho đạp sau nhanh hơn. Trong tư thế sẵn sàng xuất phát, góc tối ưu giữa đùi và cẳng chân của chân tỳ trên bàn đạp sau khoảng 115 - 1380. Góc giữa thân trên và đùi chân trước khoảng 19 – 230 .
Trong tư thế “sẵn sàng”, vận động viên không nên quá căng thẳng, gò bó. Điều quan trọng lúc này là tập trung chú ý đợi hiệu xuất phát. Khi nghe súng nổ (hay những tín hiệu xuất phát khác), vận động viên phải đột ngột lao nhanh về trước. Động tác này được bắt đầu bằng đạp mạnh hai chân và đánh tay nhanh. Đạp sau vào mặt tựa bàn đạp xuất phát được thực hiện đồng thời bằng cả hai chân nhằm tạo áp lực lớn trên mặt tựa để đẩy cơ thể lao nhanh về trước, song thời gian đạp bằng cả hai chân rất ngắn. Chân sau chỉ hơi duỗi và sau đó nhanh chóng đưa đùi về phía trước, trong khi đó, chân trước đột ngột duỗi thẳng trong tất cả các khớp.
Trong bước đầu tiên, góc đạp sau từ bàn đạp của những vận động viên chạy ngắn cấp cao khoảng 42 - 500, đùi chân lăng tạo với thân trên một góc gần . Tư thế nêu trên giúp cho lực đạp đẩy cơ thể về trước nhiều hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho đạp sau mạnh và giữ được độ nghiêng nói chung của cơ thể trong những bước chạy đầu tiên.
II/ CHẠY LAO SAU XUẤT PHÁT


Để đạt được thành tích trong chạy ngắn, điều rất quan trọng trong xuất phát là nhanh chóng đạt tốc độ gần cực đại trong giai đoạn chạy lao.
Thực hiện đúng và nhanh các bước chạy từ lúc xuất phát phụ thuộc vào độ lao của cơ thể dưới một góc nhọn so với mặt đường, cũng như vào sức mạnh, sức nhanh của vận động viên. Bước đầu tiên được kết thúc bằng việc duỗi thẳng hoàn toàn của chân đạp sau khỏi bàn đạp trước và việc nâng đùi đồng thời của chân kia lên, độ nghiêng lớn khi xuất phát và việc nâng đùi chân lăng tới mức tối ưu tạo thuận lợi cho việc chuyển sang bước tiếp theo. Bước đầu tiên được kết thúc bằng việc tích cực hạ chân xuống dưới – ra sau và chuyển thành đạp sau mạnh. Động tác này thực hiện càng nhanh thì việc đạp sau tiếp theo xảy ra càng nhanh và mạnh. Trong một vài bước chạy đầu tiên, vận động viên đặt chân trên đường ở phía sau hình chiếu của tổng trọng tâm thân thể. Ở những bước tiếp theo, chân đặt trên hình chiếu của tổng trọng tâm và sau đó thì đặt chân ở phía trước hình chiếu của tổng trọng tâm. Cùng với việc tăng tốc độ, độ nghiêng thân trên về trước của vận động viên giảm đi và kỹ thuật chạy lao dần chuyển sang kỹ thuật chạy giữa quãng. Chạy giữa quãng thường bắt đầu từ mét thứ 25 – 30 (sau khoảng 13 – 15 bước chạy), khi đạt 90 – 95% tốc độ chạy tối đa, song không có giới hạn chính xác giữa chạy lao sau xuất phát và chạy giữa quãng. Các vận động viên cấp cao cần tính toán để đạt được tốc độ cực đại ở mét thứ 50 – 60, còn ở trẻ em lứa tuổi 10 – 12 thì ở mét thứ 25 – 30. Các vận động viên chạy ngắn ở bất kỳ đẳng cấp và lứa tuổi nào, trong giây đầu tiên sau xuất phát cần đạt được 55% tốc độ tối đa; trong giây thứ hai 76%; trong giây thứ ba 91%; trong giây thứ tư 95% và giây thứ năm là 99%. 16 Tốc độ chạy lao sau xuất phát được tăng lên chủ yếu do tăng độ dài bước chạy và một phần không nhiều do tăng tần số bước. Việc tăng độ dài bước chủ yếu đến bước thứ tám – thứ mười (bước sau dài hơn bước trước từ 10 – 15cm), sau đó thì độ dài bước được tăng ít hơn (4 – 8cm).

Việc thay đổi độ dài bước đột ngột dưới hình thức nhảy là không tốt vì làm mất đi nhịp điệu chạy. Cùng với việc tăng tốc độ di chuyển của cơ thể, thời gian bay trên không tăng lên và thời gian tiếp đất giảm đi .Tay đánh mạnh về trước cũng có ý nghĩa đáng kể. Trong chạy lao sau xuất phát, về cơ bản việc đánh tay cũng tương tự như trong chạy giữa quãng song với biên độ lớn hơn. Ở những bước đầu tiên sau xuất phát, hai bàn chân đặt xuống đường hơi tách rộng so với chạy giữa quãng. Sau đó cùng với việc tăng tốc độ, hai chân được đặt gần hơn đến đường giữa. Nếu so sánh thành tích chạy 30m xuất phát với chạy 30m tốc độ cao của cùng một vận động viên thì dễ dàng xác định được thời gian tiêu phí lúc xuất phát và tăng tốc độ sau xuất phát. Ở những vận động viên chạy giỏi, mức tiêu phí trong giới hạn từ 0.8 – 1.0 giây.
III/ CHẠY GIỮA QUÃNG

Khi đạt được tốc độ cao nhất, thân trên của vận động viên chạy hơi đổ về phía trước (72 - ). Trong một bước chạy, độ nghiêng của thân trên có thể thay đổi. Lúc đạp sau, độ nghiêng thân trên tăng lên còn trong pha bay thì lại giảm đi. 0 78 Chân đặt trên đường có đàn tính và tiếp xúc với đường từ phần trước bàn chân và cách hình chiếu khớp chậu – đùi trên đường khoảng 33 – 43 cm. Tiếp đó chân được gập lại ở khớp gối và cổ chân. Góc gấp ở khớp gối lớn nhất khoảng 140 - . 0 148 Khi chân chống chuyển vào tư thế đạp sau, chân lăng được đưa mạnh về trước – lên trên. Việc duỗi thẳng chân đạp sau diễn ra khi đùi chân lăng nâng đủ cao và tốc độ nâng cao của nó được giảm đi. Đạp sau được thực hiện do việc duỗi chân chống ở khớp gối và khớp cổ chân. Trong lúc bay, đùi hoạt động càng nhanh càng tốt. Chân chống tựa khi kết thúc đạp sau, theo quán tính hơi đưa ra sau – lên trên, sau đó chân được gấp lại ở khớp gối 17 và bắt đầu chuyển nhanh đùi về trước. Để giảm tác động kìm hãm tốc độ khi đặt chân trên đường, chân tiếp xúc đất ở phần trước bàn chân, khi chân chống chuyển vào tư thế đạp sau, chân lăng được đưa mạnh về trước – lên trên. Việc duỗi thẳng chân đạp sau diễn ra khi đùi chân lăng nâng đủ cao và tốc độ nâng cao của nó được giảm đi. Đạp sau được thực hiện do việc duỗi chân chống ở khớp gối và khớp cổ chân. Khi chạy giữa quãng, các bước chạy được thực hiện thường không bằng nhau, do bước của chân khỏe thường dài hơn. Để chạy có nhịp điệu và tốc độ đều hơn, nên tập để có được độ dài bước như nhau của mỗi chân bằng cách lưu ý phát triển sức mạnh 18 cơ chân yếu. Khi chạy trên đường thẳng cần đặt mũi bàn chân thẳng về trước
Việc xoay mũi chân ra ngoài gây ảnh hưởng xấu tới hiệu quả đạp sau. Cả trong chạy lao sau xuất phát cũng như chạy giữa quãng, tay gấp ở khớp khuỷu được đánh mạnh về trước – ra sau phù hợp với nhịp điệu hoạt động của chân. Tay đánh về trước hơi đưa vào trong còn khi ra sau thì hơi ra ngoài. Góc gấp của tay ở khớp khuỷu không cố định, khi đánh ra trước tay gấp lại nhiều nhất, khi đưa xuống dưới – ra sau thì hơi duỗi ra (Hình 12.2). Hình 12.2 Các ngón tay trong khi chạy nên nắm hờ hay duỗi. Không nên duỗi thật thẳng các ngón tay hay nắm chúng lại thật chặt. Động tác đánh tay tích cực không được làm nâng vai lên hoặc gò vai vì đó là những dấu hiệu đầu tiên của căng thẳng quá mức. Kỹ thuật chạy ngắn sẽ bị ảnh hưởng xấu nếu như vận động viên không biết thả lỏng những nhóm cơ khi nó không cần tham gia tích cực vào hoạt động. Kết quả phát triển tốc độ chạy đáng kể phụ thuộc vào việc biết chạy nhẹ nhàng, thả lỏng và không có những căng thẳng thừa của vận động viên.
IV/ VỀ ĐÍCH:

IV/ VỀ ĐÍCH:

Tốc độ chạy cực đại trong cự ly 100 – 200 m cần cố duy trì cho tới cuối cự ly, song ở khoảng 15 – 20 m cuối cùng, tốc độ thường bị giảm đi từ 3 – 8%. Chạy được kết thúc khi vận động viên dùng thân trên chạm vào mặt phẳng thẳng đứng đi qua đường đích. Để nhanh chóng chạm vào dây đích được kéo căng ở độ cao ngang ngực, ở bước chạy cuối cùng, vận động viện cần thực hiện động tác gập thân trên đột ngột về trước để chạm ngực vào dây đích. Cách này được gọi là “đánh ngực” Người ta còn áp dụng cả phương pháp vừa gập thân trên vừa xoay để một bên vai chạm vào dây đích. Sau khi chạm dây đích, để khỏi ngã, vận động viên cần đặt nhanh chân lăng xa về phía trước để giữ thăng bằng .Kỹ thuật chạm đích tốt giúp vận động viên chạm dây đích sớm hơn khi có hai hoặc nhiều đối thủ ngang nhau muốn tranh thứ hạng nhất. Song, nếu không quen hoặc kỹ thuật chưa thuần thục thì nên chạy qua đích với toàn bộ tốc độ mà không cần nghĩ tới việc thực hiện động tác về đích.
Video về một số kỷ lục chạy 100m
Kỷ lục việt nam-2020
Kỷ lục olympic tokyo 2020
nguon VI OLET