1

 

Họ và tên :        Trần Văn Thuận

Năm sinh :               1975

Giới tính :                Nam

Đơn vị :  GV Trường THCS Thuận Hòa 2

 

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh – Lãnh tự thiên tài, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới đã đi xa nhưng để lại cho chúng ta di sản tinh thần to lớn, những tư tưởng vô giá, những giá trị nhân văn cao cả, trong đó đặc biệt là tư tưởng đạo đức cách mạng. Cả cuộc đời và sự nghiệp của Người là tấm gương sáng ngời cho toàn Đảng, toàn dân ta nguyện phấn đấu suốt đời học tập và noi theo. Hiện nay đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, tích cực và chủ động hội nhập kinh tế, quốc tế, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, thì việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức cách mạng của Người trở nên hết sức quan trọng. Bởi vì tư tưởng Hồ Chí Minh luôn là bộ phận quan trọng của nền tảng tinh thần xã hội, là động lực, nguồn sức mạnh to lớn để nhân dân ta phát huy nội lực, vượt qua thử thách, khó khăn để tiến lên. Đặc biệt, học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người là một biện pháp quan trọng để mọi cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng sửa chữa, khắc phục tình trạng suy thoái “có tính nghiêm trọng” về đạo đức, lối sống, giữ vững niềm tinh của nhân dân về sự lãnh đạo của Đảng.

Để hưởng ứng cuộc thi “Tìm hiểu cuộc đời, thanh thế và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, tôi xin tham gia cuộc thi với những nội dung như sau:

Câu 1:

Bạn hãy nêu 5 điều Bác Hồ dạy Thanh niên?

Trả lời

Ngày 2/9/1965, Hồ Chủ tịch có "Thư gửi thanh niên", trong thư Người căn dặn thanh niên 5 điều.

1. Phải luôn luôn nâng cao chí khí cách mạng, "trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng". không sợ gian khổ, hy sinh, hăng hái thi đua tăng gia sản xuất và anh dũng chiến đấu, xung phong đi đầu trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước.

2. Phải tin tưởng sâu sắc ở lực lượng và trí tuệ của tập thể, của nhân dân. Tăng cường đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau. Nâng cao ý thức tổ chức và kỷ luật, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tự do.

3. Luôn trau dồi đạo đức cách mạng, khiêm tốn, giản dị. Chống kêu căng, tự mãn, chống lãng phí xa hoa. Thực hành tự phê bình và phê bình nghiêm chỉnh để giúp nhau cùng tiến bộ mãi.

4. Ra sức học tập nâng cao trình độ chính trị, văn hoá, khoa học, kỹ thuật và quân sự để cống hiến ngày càng nhiều cho Tổ quốc, cho nhân dân.


1

 

5. Luôn luôn chú ý dìu dắt và giáo dục thiếu niên và nhi đồng, làm gương tốt về mọi mặt cho đàn em noi theo.

Ngày 26 và 28/2/1966, Hồ Chủ tịch họp Hội nghị Bộ Chính trị, thông qua báo cáo quân uỷ Trung ương về kế hoạch năm 1966. Người chỉ thị một số vấn đề về Cách mạng miền Nam như Nghị quyết quân sự phải có thêm nội dung chính trị và kinh tế, cần phát triển chiến tranh du kích và xây dựng lực lượng đặc công mạnh cả về số lượng và chất lượng, vấn đề sản xuất trong vùng giải phóng và sử dụng lao động phải chú trọng đến dân sinh, cần đánh vào lực lượng hậu cần của địch, khoét sâu mâu thuẫn của Mỹ nguỵ và phải giải quyết tốt công tác thương binh.

Ngày 12/3/1966, Hồ Chủ tịch họp Bộ Chính trị nghe báo cáo tình hình chiến sự miền Nam. Phát biểu kết luận phiên họp, Người đồng ý tuyển 50.000 quân đợt 3 và đợt 4 năm 1966, không tuyển người đứng tuổi, con em những gia đình đã có nhiều con vào bộ đội và cho tuyển 5.000 nữ (hoặc hơn) nhập ngũ đợt này…

 

Câu 2:

Nêu khái quát những sự kiện chính trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác Hồ? Qua các sự kiện chính, theo bạn sự kiện nào bạn cho là tâm đắc nhất?

Trả lời

I. Nguyễn Sinh Cung - Mười năm đầu cuộc đời (1890 - 1900)

Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 với tên gọi là Nguyễn Sinh Cung, ở làng Hoàng Trù, nay thuộc xã Kim liên, huyện Nam Đàn, tỉnh nghệ An.

Thân phụ của Người là Nguyễn Sinh Sắc, tức Nguyễn Sinh Huy (1862) và thân mẫu là Hoàng Thị Loan (1868). Nguyễn Sinh Cung là con thứ ba trong gia đình: Chị là Nguyễn Thị Thanh, còn có tên là Nguyễn Thị Bạch Liên (1884), Anh là Nguyễn Sinh Khiêm, còn có tên là Nguyễn Tất Đạt (1888).

Nguyễn Sinh Cung sốngở làng Chùa (Hoàng Trù) với cha mẹ và ông bà ngoại là thầy đồ Hoàng Đường và bà Nguyễn Thị Kép. Cuối năm 1895, Nguyễn Sinh Cung theo cha mẹ vào Huế ở tạm một gian nhà của trại lính gần Viện đô sát (ngày nay là số nhà 114 đường Mai Thúc Loan).

Năm 1898, nguyễn Sinh Cung theo lớp học chữ Hán tại làng Dương Nỗ, xã Phú Dương, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên do cha là ông Nguyễn Sinh Sắc dạy.

II. Nguyễn Tất Thành - Mười năm tuổi nhỏ chí lớn (1901 - 1910)

Đây là khoảng thời gian Nguyễn Sinh Cung bước qua tuổi thiếu niên, thời kỳ đã ghi dấu ấn của Người với quê hương, gia đình và việc học hành. Tuổi thiếu niên gian khó qua đi, đã sớm bộc lộ trí lớn của một con người mà sau này trở thành anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới. Năm 1901, Nguyễn Sinh Cung chịu tang lớn trong tuổi thiếu niên: Bà Hoàng Thị Loan, thân mẫu qua đời tại Huế. Sau khi mẹ mất, Nguyễn Sinh Cung được cha đưa về Nghệ An gửi bà ngoại chăm sóc. Khoảng tháng 9 năm đó, ông Nguyễn Sinh Sắc đỗ phó bảng, được dân làng Kim Liên (quê nội) đón về, cấp đất công và làm nhà cho ông (đó là ngôi nhà và khoảnh vườn hiện nay còn được bảo tồn ở Kim Liên).


1

 

Từ năm 1901 đến 1905, Nguyễn Tất Thành đã học chữ Hán với các thầy đồ nổi tiếng hay chữ và giàu lòng yêu nước ở vùng Nghệ Tĩnh như Trần Thân, Hoàng Phan Quỳnh, Vương Thúc Quý.

Tháng 9 năm 1905, Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Tất Đạt theo học lớp dự bị (préparatoire) trường tiểu học Pháp bản xứ ở Thành phố Vinh. Ở đây, lần đầu tiên Nguyễn Tất Thành tiếp xúc với khẩu hiệu: Tự do, bình đẳng, bác ái.

Tháng 5 năm 1906, Nguyễn Tất Thành cùng anh theo cha vào Huế nhân dịp ông Nguyễn Sinh Huy vào kinh đô nhận chức thừa biện bộ lệ.

Tháng 9 năm 1907, Nguyễn Tất Thành vào học lớp trung đẳng (moyen) tại Quốc học Huế.

Tháng 5 năm 1908, Nguyễn Tất Thành tham gia biểu tình chống thuế của nông dân Thừa Thiên và đã bị thực dân Pháp theo dõi. Ông Nguyễn Sinh Sắc đã bị chúng khiển trách vì "đã để cho con trai có những hoạt động chống Pháp".

Tháng 9 năm 1909, Nguyễn Tất Thành theo học chữ Pháp với Thầy Phạm Ngọc Thọ (thân sinh cố Bộ trưởng Bộ y tế Phạm Ngọc Thạch) ở Quy Nhơn.

Năm 1910, trên đường từ Quy Nhơn đi Sài Gòn, do hết tiền, Nguyễn Tất Thành đã đến dạy học tại Trường Dục Thanh (từ tháng 9/1910 đến tháng 2/1911).

III. Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc 10 năm ra đi tìm đường cứu nước, là một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp (1911 - 1920)

Sau mấy tháng dạy học ở trường Dục Thanh, Nguyễn Tất Thành rời trường vào Sài Gòn để thực hiện hoài bão: Ra đi tìm đường cứu nước.

Tháng 6 năm 1911, Nguyễn Tất Thành nói với bạn thân về chuyến ra đi nước ngoài của mình: "Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào của chúng ta".

Với cái tên Văn Ba ghi trên thẻ nhân viên của tàu Amiran Latutsow Tơrêvin (Amiral Latouche Tréville), một tàu lớn chở hàng, vừa chở khách của hãng Năm Sao, ngày 5 tháng 6 năm 1911, Nguyễn Tất Thành từ cảng Nhà rồng, thành phố Sài Gòn (nay là thành phố Hồ Chí Minh) rời Tổ quốc sang Pháp.

Về mục đích chuyến đi này, hơn 10 năm sau, Nguyễn Tất Thành đã trả lời nhà thơ, nhà báo Nga Ôxíp Manđenxtam rằng: "Vào trạc tuổi mười ba, lần đầu tiên tôi được nghe những từ Tự do, Bình đẳng, Bác ái… Người Pháp đã nói thế và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy".

Ngày 15 tháng 9 năm 1911, Nguyễn Tất Thành làm đơn gửi Tổng thống Pháp xin vào học trường thuộc địa (Ecole Coloniale).


1

 

Trong năm 1912, Nguyễn Tất Thành làm thuê cho tàu buôn Sác-giơ Rêuyni đi vòng quanh Châu Phi, có dừng lại ở một số nước như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Angiêri, Tuynidi, Cônggô, Đahômây, Xênêgan, Rêuyniông.

Cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành trở lại nước Pháp. Bắt đầu từ đây, Nguyễn Tất Thành có rất nhiều cuộc tiếp xúc với các nhà văn hoá, trí thức, tham gia các sinh hoạt chính trị tích cực, sôi nổi.

Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành vào đảng xã hội Pháp với cái tên mới là Nguyễn Ái Quốc. Ở đây, Người đã có quan niệm về một Đảng cách mạng chân chính một cách rõ ràng, chính xác. Có thể coi đây là lập trường xuất phát của Người về Đảng.

Ngày 18 tháng 6 năm 1919, thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc gửi đến hội nghị Véc -xây bản yêu sách của nhân dân An Nam đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Đồng thời, Nguyễn Ái Quốc gửi thư riêng kèm theo bản Yêu sách… cho các đoàn đại biểu dự hội nghị và tất cả các nghị viên của Quốc hội Pháp.

Đây có thể coi là cái mốc quan trọng đầu tiên phản ảnh sự chuyển biến cả trong tư tưởng lẫn hành động của Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa xã hội khoa học; đánh dấu sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người; về đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế; về phương pháp cách mạng…

Tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc tác phẩm của V.I.Lênin đã giải đáp cho Nguyễn Ái Quốc con đường giành độc lập, tự do cho đồng bào. Sau này, trong bài viết cho tạp chí các vấn đề phương Đông (Liên Xô) nhân kỷ niệm lần thứ 90 ngày sinh lênin, Người đã kể lại sự kiện quan trọng đó: "Luận cương của lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta".

Ngày 25 tháng 12 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đại hội đại biểu lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp (đại hội Tour) với tư cách là đại biểu Đông Dương. Đây là lần đầu tiên có một người Việt Nam  tham gia một Đại hội đại biểu của một chính đảng Pháp. Nguyễn Ái Quốc cũng là người bản xứ duy nhất trong số đại biểu các thuộc địa có mặt trong Đại hội. trong phiên họp buổi chiều ngày 26/12/1920, sau lời mời của chủ tịch Đại hội Gutđơ (Goude), Nguyễn Ái Quốc với tư cách là đại biểu Đông Dương đã phát biểu lên án chủ nghĩa thực dân Pháp. Bằng những sự thật, Người đã tố cáo sự tàn bạo mà bọn thực dân Pháp đã gây ra ở Đông Dương, và cho rằng "Đảng Xã hội cần phải hoạt động một cách thiết thực để ủng hộ những người bản xứ bị áp bức", rằng "Đảng phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong tất cả các thuộc địa… đánh giá đúng tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa". Nguyễn Ái Quốc đã kết thúc bài phát biểu được đại hội đặc biệt hoan nghênh bằng lời kêu gọi thống thiết: "Nhân danh toàn thể loài người, nhân danh tất cả các đảng viên xã hội, cả phái tả lẫn phái hữu, chúng tôi kêu gọi: Các đồng chí, hãy cứu lấy chúng tôi!".


1

 

22 giờ ngày 29 tháng 12 năm 1920, tại Đại hội Tuor, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành tham gia Quốc tế III.

Đến 14h30 phút cùng ngày, Nguyễn Ái Quốc cùng những người chủ trương gia nhập Quốc tế III tuyên bố thành lập Phân bộ Pháp của Quốc tế cộng sản (Section francaise de L'internationale communiste).

Từ giờ phút ấy, Nguyễn Ái Quốc trở thành người Cộng sản. Là một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc đồng thời cũng là người cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam.

IV. Nguyễn Ái Quốc - 10 năm hoạt động sôi nổi, người sáng lập Đảng cộng sản Việt Nam (1921-1930)

Ngày 1 tháng 6 năm 1921, họp bàn thành lập Ban nghiên cứu thuộc địa; ngày 13/6 họp bàn về Tuyên ngôn của Ban nghiên cứu thuộc địa; ngày 26/6, họp với một số đồng chí người Angiêri, Marốc, Tuynidi, Madagatxca… để bàn về chương trình, Điều lệ và Ban chấp hành của Hội Liên hiệp thuộc địa. Theo dự kiến, Nguyễn Ái Quốc được cử vào Ban chấp hành và Ủy viên thường trực của Ban chấp hành hội.

Năm 1922, Nguyễn Ái Quốc tập trung cho các hoạt động của Hội Liên hiệp thuộc địa và sáng lập tờ báo Le Paria. Với tư cách là Ủy viên thường trực Ban chấp hành Hội cùng với Xtêphani hội viên của Hội, Người đã viết Lời kêu gọi hô hào mọi người sẽ gia nhập Hội và mau dài hạn báo Le Paria - một tờ báo có tiêu đề là Diễn đàn của các dân tộc thuộc địa và mục đích là đấu tranh "vì lợi ích của công lý, sự thật và tiến bộ".

Ngày 24 tháng 5 năm 1922, có thể coi là một cái mốc son chói lọi trong quan điểm lý luận và tư tưởng chính trị của Nguyễn Ái Quốc. Đó là ngày Hội đồng nghiên cứu vấn đề thuộc địa của Hội Liên hiệp thuộc địa thông qua Tuyên ngôn của Hội Liên hiệp thuộc địa do Nguyễn Ái Quốc thảo.

Trong năm 1923, trên các báo Le Paria, L'Humanité, La Vie Ouvrière đa in gần khoảng 30 bài viết của Nguyễn Ái Quốc. Những bài báo này đều tập trung lên án chủ nghĩa thực dân; sự tàn bạo của nó đối với các thuộc địa; kêu gọi đoàn kết giữa những người lao động không phân biệt màu da, sắc tộc, biên giới, chính quốc hay thuộc địa… trên toàn thế giới.

Buổi tối ngày 13 tháng 6 năm 1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật rời Pari đi Liên Xô, đất nước mà từ lâu Người mơ ước đặt chân tới.

Ngày 30 tháng 6 năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đến cảng Petơrôgrát. Đây là lần đầu tiên Người đặt chân lên mãnh đất của Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô Viết.

Ngày 10 tháng 10 năm 1923, Nguyễn Ái Quốc dự Hội nghị lần thứ nhất Quốc tế nông dân tại điện Kremlin (Matxcơva) với tư cách đại biểu chính thức của nông dân Đông Dương. Người đã phát biểu trước đại hội 2 lần. Trong lời phát biểu chiểu 13/10/1923, Người đã nói: "Quốc tế của chúng ta chỉ trở thành quốc tế chân chính khi trong Quốc tế này có những người nông dân Phương Đông tham gia, đặc biệt là nông dân  các nước thuộc địa, những người bị áp bức và bóc lột tệ hại nhất".


1

 

Cuối năm 1923, Nguyễn Ái Quốc tranh thủ vào học lớp ngắn hạn của trường Đại học Cộng sản của những người lao động Phương Đông tại Matxcơva.

Ngày 18/12/1924, Nguyễn Ái Quốc đã có báo cáo với Đoàn Chủ tịch của Quốc tế cộng sản về những công việc bước đầu đã làm được ở Quảng Châu và đề nghị Đoàn Chủ tịch Quốc tế Cộng sản chỉ thị cho các đại diện ở Quảng Châu phải chăm lo đến Đông Dương, quan tâm vấn đề tuyên truyền trong phụ nữ và thiếu nhi. Cuối cùng, Người lưu ý các đồng chí "Trong lúc này, tôi là một người Trung Quốc chứ không phải là một người Việt Nam và tên tôi là Lý Thụy chứ không phải là Nguyễn Ái Quốc".

Năm 1925, công việc đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc là mở lớp huấn luyện chính trị cho thanh niên Việt Nam. Lớp học được tổ chức tại số nhà 13/1 phố Văn Minh (Quảng Châu). Học viên phần lớn là những thanh niên học sinh, trsi thức và một vài người là tú tài nho học có lòng yêu nước. Chương trình học rất phong phú và thiết thực, có thể chia làm 3 loại vấn đề: Cách mạng thế giới, cách mạng Việt Nam và phương pháp vận động cách mạng.

Tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc sáng lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội.

Cơ quan ngôn luận của Việt Nam thanh niên cách mạng Đồng Chí Hội là Báo Thanh niên. Nguyễn Ái Quốc là người sáng lập và là cây bút chủ chốt của tờ báo.

Đầu tháng 5/1927, Nguyễn Ái Quốc bí mật đi Hương Cảng, từ Hương Cảng đi Thượng hải rồi từ đó đi Vlađivôxtốc (Liên Xô)

Tháng 11/1927, Nguyễn Ái Quốc được Quốc tế Cộng sản cử đi Pháp công tác. đầu tháng 12, nhận sự phân công của Quốc tế Cộng sản, từ Pháp, Người đi dự cuộc họp của Đại hội đồng của Liên đoàn chống đế quốc ở Brucsen (Bỉ). Tại cuộc họp này, Người gặp gỡ và làm quen với Môtilan Nêru (Thân phụ của Môhadat Nêru).

Tháng 7/1928, Người xuất hiện ở Bản Đông thuộc huyện Phichít tỉnh Phixanulốc miền Trung nước Xiêm. Đây là một làng Việt kiều với chừng 20 gia đình từ năm 1926 đã có những tổ chức cách mạng như Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội, Hội hợp tác, hội Việt kiều thân ái…

Đầu năm 1929, Nguyễn Ái Quốc từ Uđon đến Sacôn, nơi có đông Việt kiều hơn ở Uđon và các tổ chức cách mạng cũng ra đời từ lâu. Ở Sacôn, Người tiếp tục củng cố và xây dựng cơ sở cách mạng để mở rộng phong trào. Ngoài việc dịch sách và huấn luyện thanh niên, hàng ngày Người còn tổ chức cho cán bộ cốt cán học tập lý luận chính trị và phương pháp công tác.

Tháng 11/1929, Nguyễn Ái Quốc rời Xiêm đi Trung Quốc. Hai việc quan trọng làm cho Người từ giã nước Xiêm là muốn bàn lại với anh em Quốc dân Đảng về cuộc bạo động đang chuẩn bị. Theo Người thì cuộc bạo động quá sớm, khó thành công; Và vấn đề thống nhất các tổ chức cộng sản ở trong nước đang trong tình trạng phấn tán, chia rẽ.


1

 

Đầu tháng 1/1930, Nguyễn Ái Quốc đến Thượng Hải (Trung Quốc) hẹn gặp Nguyễn Lương Bằng. Người liên lạc được với cơ quan của Đảng Cộng sản trung Quốc ở Hồng Công và được sự giúp đỡ của các đồng chí Trung Quốc. Khoảng giữa tháng 1/1930, Người tiếp Nhiêu Vệ Hoa (đảng viên Đảng Cộng sản trung Quốc, công tác ở tỉnh uỷ Quảng Đông, được cử đến giúp đỡ đại hội thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam). Người thông báo về mục đích chuyến công tác này là để thống nhất các tổ chức cộng sản của Việt Nam, thành lập Đảng Cộng sản.

Từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 2 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam. Buổi đầu tổ chức tại một căn buồng của một công nhân nghèo, sau đó chuyển quan một số địa điểm khác ở Cửu Long (Hồng Công, Trung Quốc).

Đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, chi bộ của những người Cộng sản Việt Nam ở nước ngoài, đã tham dự Hội nghị.

Tại Hội nghị, Nguyễn Ái Quốc đề nghị xoá bỏ mọi thành kiến, xung đột cũ giữa các nhóm Cộng sản, thành thật hợp tức để thống nhất thành lập một Đảng mới, định kế hoạch thực hiện việc thống nhất, cử Ban Trung ương lâm thời.

Hội nghị dã nhất trí về việc hợp nhất Đảng, tán thành lấy tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã chấp nhận và thông qua những văn kiện chính thức của Đảng: Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo. Sau Hội nghị thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam viết lời kêu gọi gửi công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và tất cả đồng bào bị áp bức bóc lột.

V. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh "mười lăm ấy biết bao nhiêu tình" (1931 - 1945)

Nửa đầu năm 1931, Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở Hồng Công (trung Quốc). Người viết các báo cáo gửi Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản, viết thư gửi Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương phê bình, góp ý về công tác Đảng, về chấp hành chỉ thị của Quốc tế thứ Ba.

Khoảng  từ ngày 7 đến ngày 10 tháng 6 năm 1931, Nguyễn Ái Quốc bị giam trong nhà tù của thực dân Anh ở Hồng Công. Được một người Việt nam báo tin Người bị bắt và nhờ giúp đỡ, Lôdơbai (Loseby), luật sư người Anh, Chủ tịch Hội luật gia Hồng Công (Russ), đến thăm Người. Khi Nguyễn Ái Quốc nói không có tiền để nhờ cãi, ông Lôdơbai đã hứa sẽ giúp "vì danh dự chứ không nhất thiết vì tiền". Người đã cung cấp những thông tin cần thiết cho luật sư và cùng luật sư thống nhất về phương hướng bào chữa.

Mùa xuân năm 1934, Nguyễn Ái Quốc bước lên một chiếc tàu hàng Xô Viết ở Thượng Hải đi Liên Xô. Sau mấy ngày, tàu cập cảng Vlađivôxtốc.


1

 

Đến Matxcơva, Nguyễn Ái Quốc gặp gỡ nhiều Ủy viên Đoàn chủ tịch Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản. Người cũng đã gặp G.Đimitơrốp.

Khoảng tháng 10/1934, Nguyễn Ái Quốc được nhận vào học Trường Quốc tế Lênin năm học 1934-1935.

Mùa đông năm 1938, nhờ mối liên hệ giữa Đảng Cộng sản Liên Xô và Đảng Cộng sản Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc đến văn phòng Lan Châu của giải phóng quân Trung Quốc để từ đó đi Tây An.

Tháng 2/1940, với biệt danh "ông Trần" đến liên hệ với Trịnh Đông Hải (tức đồng chí Vũ Anh) tại hiệu dầu Cù là Vĩnh An Đường ở Côn Minh. Người bắt liên lạc được với Ban hải ngoại của Đảng (các đồng chí Phùng Chí Kiên, Vũ Anh…)

Tháng 5/1940, Nguyễn Ái Quốc trở lại Côn Minh, cuối tháng 5 đồng chí Phùng Chí Kiên dẫn đồng chí Đặng Văn Cáp đến gặp Người. đầu tháng 6, với bí danh đồng chí Vương, Người gặp các đồng chí Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp (vừa ở trong nước sang) bên bờ Thuý Hồ.

Với bí danh Hồ Quang, Người giới thiệu Phạm Văn Đồng (bí danh Lâm Bá Kiệt), Võ Nguyên Giáp (bí danh Dương Hoài Nam) đi học trường Quân chính của Đảng Cộng sản Trung Quốc (đến Quý Dương để từ đó đi Diên An).

Ngày 22/9/1940, Người đưa ra nhận định: "Đồng minh sẽ thắng. Nhật, Pháp ở Đông Dương chóng chày sẽ bắn nhau. Việt Nam sẽ giành được độc lập".

Ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc lên đường về nước ở cột mốc 108 trên biên giới Việt - Trung (thuộc xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng).

Ngày 19/5/1941, tại Pác Bó, Cao Bằng, Hội nghị Trung ương Đảng lần  đầu tiên họp ở trong nước, do Nguyễn Ái Quốc chủ trì với tư cách đại diện Quốc tế Cộng sản. Hội nghị đã khẳng định: Nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng là giải phóng dân tộc. "Pháp - Nhật ngày nay không phải chỉ là kẻ thù của công nông mà là kẻ thù của dân tộc Đông Dương. Trong lúc này, khẩu hiệu của Đảng ta là trước hết phải làm sao giải phóng cho được các dân tộc Đông Dương ra khỏi ách của giặc Pháp - Nhật…".

Theo sáng kiến của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị đã quyết định thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi mang tên Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh).

Ngày 13/8/1942, với tên mới là Hồ Chí Minh, Nguyễn Ái Quốc lên đường đi Trung Quốc để liên lạc với các lực lượng cách mạng của Người Việt Nam và lực lượng Đồng Minh.

Sáng ngày 27/8/1942, Hồ Chí Minh cùng Dương Đào đến xã Túc Vinh, huyện Đức Bảo, tỉnh Quảng Tây thì bị tuần canh ở trụ sở xã của Quốc Dân đảng bắt giữ.

Hơn hai tháng bị giam ở tỉnh Tây, Người đã viết nhiều bài thơ. Sau đó, Người lại bị giải đi nhiều nhà lao như Thiên Bảo, Đồng Chính, Nam Ninh, Phủ Minh… (đều thuộc tỉnh Quảng Tây). Trong suốt thời gian bị giam cầm cũng như lúc đi đường, Người đều tức cảnh, làm thơ bằng chữ Hán. Sau này tất cả những bài thơ đó và những bài thơ viết tiếp trong nhà tù từ tháng 1/1943 đến giữa tháng 9/1943 đã được sưu tầm, xuất bản trong cuốn Ngục trung nhật ký.


1

 

Trong khoảng từ tháng 2 đến tháng 9 năm 1944, Hồ Chí Minh đã hoạt động trong phong trào các đoàn thể cách mạng hải ngoại của Việt Nam, cách mạng đồng minh Hội với ý định tập hợp, lôi kéo, giác ngộ các tầng lớp, các phe phái cùng nhau đánh đuổi Pháp - Nhật, giành độc lập cho Tổ quốc. Người đã tranh thủ tuyên truyền, giác ngộ cho thanh niên Việt Nam ở hải ngoại để học xác định được mục tiêu đấu tranh, hướng họ đi vào con đường cách mạng đúng đắn. Người cũng luôn khẳng định: Việt Minh và Đảng Cộng sản Đông Dương là những tổ chức cách nmạng luôn có vai trò to lớn và đang có ảnh hưởng sâu rộng trong dân chúng trong công cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do của Việt Nam.

Cối tháng 8 và đầu tháng 9/1944, Sau khi vượt qua những khó khăn, rắc rối do phía Quốc dân đảng Trung Quốc gây ra, Hồ Chí Minh đã qua được biên giới Việt - Trung để về nước. Cuối tháng 9/1944, Người trở về Pác Bó (Cao Bằng). Người đã chỉ thị hoãn cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở địa phương của Liên tỉnh uỷ Cao - Bắc - Lạng để tránh những khó khăn tổn thất khi việc chuẩn bị ở các nơi chưa đầy đủ.

Đầu tháng 12/1944, Hồ Chí Minh triệu tập Võ Nguyên Giáp và Vũ Anh đến Pác Bó. Người chỉ định Võ Nguyên Giáp đảm nhiệm việc thành lập lực lượng vũ trang tập trung. Chiều hôm sau, Người gặp Võ Nguyên Giáp và Lê Quảng Ba thông qua kế hoạch thành lập đội. Người thêm hai chữ "tuyên truyền" vào tên Đội Việt Nam giải phóng quân.

Khoảng từ ngày 6 đến ngày 10/8/1945, Hồ Chí Minh ráo riết thúc giục triệu tập Hội nghị toàn quốc của Đảng ở Tân Trào. Khi Thường vụ Trung ương Đảng chưa ấn định ngày,  Người nói: "Nên họp ngay và cũng không nên kéo dài Hội nghị. Chúng ta cần tranh thủ từng giây, từng phút. Tình hình sẽ chuyển biến nhanh chóng. Không thể để lỡ cơ hội".

Ngày 13/8/1945, theo đề nghị của Hồ Chí Minh, Hội nghị toàn quốc của Đảng được triệu tập tại tân Trào (Tuyên Quang). Hội nghị nhận định: "Cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới". Hội nghị quyết định mục đích của cuộc chiến đấu là giành quyền độc lập hoàn toàn cho đất nước, thành lập chính quyền nhân dân, thi hành mười chính sách của Việt Minh, định chính sách ngoại giao đối với Đồng Minh. Hội nghị định ra nhiệm vụ quân sự cần kíp, những nguyên tắc của kế hoạch tác chiến, thống nhất các lực lượng vũ trang thành giải phóng quân Việt Nam.

Theo quyết định của Hồ Chí Minh, Ban Thường vụ Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh, ủy ban khởi nghĩa toàn quốc được thành lập gồm 5 người, do Trường Chinh Tổng Bí thư Đảng, trực tiếp phụ trách.

Ngày 16/8/1945, Hồ Chí Minh dự đại hội quốc dân tại Tân Trào. Đại hội đã nhiệt liệt tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng và Tổng bộ Việt Minh; bầu ra Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam (tức Chính phủ lâm thời) do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ban thường trực của Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt


1

 

Nam gồm 5 người: Hồ Chí Minh, Trần Huy Liệu, Phạm văn Đồng, Nguyễn Lương Bằng, Dương Đức Hiền.

Ngày 22/8/1945, rời Tân Trào về Hà Nội, Người chưa khỏi bệnh, còn mệt nhiều, có lúc phải nằm cáng. Sáng hôm sau (23/8), tại làng Gạ, Người nghe các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Trần Đăng Ninh từ nội thành ra báo cáo tình hình.

Chiều, Người đi ô tô vào nội thành, xe qua Nhật Tân, yên Phụ, Hàng Đậu, Hàng Giấy, Hàng Đường, Hàng Ngang vòng đến số nhà 35 Hàng Cân. Cùng đi, có đồng chí Trường - Chinh đã đến làng Gạ đón Người từ buổi sáng.

Theo thang gác, Người lên tầng 2 nhà số 48 Hàng Ngang. Tại đây, sáng ngày 26/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì cuộc họp của Thường vụ Trung ương Đảng. Người nhất trí với Thường vụ Trung ương Đảng về chủ trương đối nội, đối ngoại, về việc sớm công bố danh sách thành viên Chính phủ lâm thời, chuẩn bị ra Tuyên ngôn Độc lập và tổ chức mit tinh lớn ở Hà Nội để Chính phủ ra mắt nhân dân, ngày ra mắt của Chính phủ lâm thời cũng là ngày nước Việt Nam chính thức công bố quyền độc lập và thiết lập chính thể dân chủ cộng hoà. Người nhấ mạnh những việc cần làm ngay trước khi quân tưởng và Đông Dương tước vũ khí của quân đội Nhật.

Từ ngày 28 đến ngày 31/8/1945, hàng ngày Người từ 48 Hàng Ngang đến làm việc tại số nhà 12 phố Ngô Quyền - trụ sở của Chính phủ lâm thời. Người dành phần lớn thì giờ soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập, mời một số đồng chí đến trao đổi, góp ý kiến cho bản dự thảo Tuyên ngôn Độc lập, rồi Người lại tiếp tục bổ sung, sửa chữa. Người nói: Trong đời, Người đã viết nhiều nhưng đến bây giờ mới viết được một bản Tuyên ngôn như vậy.

Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tại vườn hoa Ba Đình trước hàng chục vạn đồng bào Thủ Đô.

Có thể coi đây là một tác phẩm "thiên cổ hùng văn" tiếp sau bài "Nam quốc sơn hà" của Lý Thường Kiệt và "Cáo Bình Ngô" của Nguyễn Trãi.

Sau khi Chính phủ lâm thời làm lễ tuyên thệ và nhân dân thề một lòng ủng hộ Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, Người nói: "Độc lập, tự do là của quý báu, quý giá vô ngần, ta đã khổ sở trong bao nhiêu năm mới giành được, cần phải cố gắng giữ gìn, bảo vệ".

Có thể khẳn định rằng, chính thời điểm lịch sử cực kỳ quan trọng và thử thách ngặt nghèo từ sau cuộc Tổng khởi nghĩa tháng 8/1945, việc thành lập chính quyền nhân dân tuyên bố độc lập, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời… đã bộc lộ đầy đủ và sinh động nhất thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

VI. Hồ Chí Minh - Lãnh đạo xây dựng NHà nước dân chủ kiểu mới và kháng chiến chống Pháp thắng lợi (1946 - 1954).

Ngày 1/1/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập Chính phủ Liên hiệp lâm thời, cùng Chính phủ ra mắt đồng bào ở Quảng trường Nhà hát thành phố Hà Nội.


1

 

Ngày 10/1/1946, nói chuyện tại phiên họp đầu tiên của Ủy ban nghiên cứu kế hoạch kiến thiết, Hồ Chí Minh chỉ rõ: "chúng ta tranh thủ tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân ăn no, mặc đủ… Tôi mong rằng, các ngài sẽ đem hết tài năng và tri thức giúp cho Chính phủ về mặt kiến thiết để đạt cho được mục đích làm cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở và có học hành".

Ngày 12/1/1946, phát biểu cảm ơn khi trúng cử Quốc hội khoá I, trước cuộc mit tinh của hơn 5 vạn đồng bào Hà Nội tổ chức tại Việt Nam học xá, Chủ tịch Hồ Chí Minh hứa: "Trước sự nguy hiểm khó khăn của nước nhà, chúng tôi đi trước. Với việc giữ vững nền độc lập, chúng tôi xin đi trước".

Ngày 21/1/1946, trả lời các nhà báo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bật, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ nơi có non xanh nước biếc, để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dích líu gì với còng danh lợi".

Sáng sớm ngày 31/5/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh gởi thư cho đồng bào Nam Bộ. Người khẳng định: "Đồng bào Nam Bộ là dân Việt Nam, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi".

6 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Phái đoàn Việt Nam đến sân bay Gia Lâm, Người duyệt đội quân danh dự của Việt Nam và Pháp. Cùng đi theo Người có tướng Pháp Raun Xalăng và các ông Phạm Văn Đồng, Vũ Đình Huỳnh, Dương Bạch Mai, Phan Anh, Nguyễn Văn Huyên, Đỗ Đình Thiện, Hoàng Minh Giám, Phạm Khắc Hoè.

Lúc sắp lên máy bay đi Pháp, nắm tay cụ Huỳnh Thúc Kháng, Người nói: "Tôi vì nhiệm vụ quốc dân giao phó phải đi xa ít lâu, ở nhà trăm sự khó khăn nhờ cậy ở cụ cùng anh em giải quyết cho. Mong cụ "dĩ bất biến ứng vạn biến". Sau đó, Người nói với các thành viên trong đoàn công tác sang Pháp trước những đại biểu đưa tiễn: "Anh em chúng ta mang trọng trách quốc gia, trước mặt quốc dân đồng bào, chúng ta phải thề dù gặp gian lao thế nào, chúng ta phải nhất tâm đoàn kết để làm tròn nhiệm vụ đối với Tổ quốc". Tất cả mọi người trong Đoàn đồng thanh hô: "Xin thề".

Ngày 28/10 đến ngày 3/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự kỳ họp thứ hai Quốc hội khoá I. Tại kỳ họp này, Người được Quốc hội tặng danh hiệu NGƯỜI CÔNG DÂN THỨ NHẤT và được uỷ quyền thành lập Chính phủ mới.

Sau khi Chính phủ mới được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc lời tuyên bố, khẳng định: "Tôi có thể tuyên bố trước Quốc hội rằng, Chính phủ này tỏ rõ cái tinh thần Quốc dân liên hiệp, là một Chính phủ chú trọng thực tế và sẽ nỗ lực làm việc, để tranh thủ quyền độc lập và thống nhất lãnh thổ cùng xây dựng một nước Việt Nam mới.

Ngày 7/1/11947, viết thư chia buồn với Bác sĩ giám đốc Y tế Bắc Bộ Vũ Đình Tụng, có con trai hy sinh anh dũng cho Tổ quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết "Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt

nguon VI OLET