VĂN HỌC VIỆT NAM TRONG MỐI QUAN HỆ
VỚI VĂN HỌC PHƯƠNG TÂY
Đề tài:
Thủ pháp dòng ý thức trong “Chim Én Bay” của Nguyễn Trí Huân
LỚP :CAO HỌC 19.1
NGÀNH :VĂN HỌC VIỆT NAM
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS HÀ MINH CHÂU
NGUYỄN VĂN LỢI
ĐẶNG HOÀNG ANH TAO
HOÀNG HẢI TRIỀU
HOÀNG THỊ KIM DUNG
PHẠM NGUYỄN KIM NGÂN
PHẠM THỊ XUÂN PHƯỚC
Đề tài:
Thủ pháp dòng ý thức trong “Chim Én Bay” của Nguyễn Trí Huân
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ XUNG QUANH VỀ THỦ PHÁP DÒNG Ý THỨC TRONG VĂN HỌC
CHƯƠNG 2
THỦ PHÁP DÒNG Ý THỨC TRONG VIỆC XÂY DỰNG CỐT TRUYỆN, XÂY DỰNG ĐIỂM NHÌN VÀ KẾT CẤU NHÂN VẬT
CHƯƠNG 3
THỦ PHÁP DÒNG Ý THỨC TRONG VIỆC XÂY DỰNG THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT
Đề tài:
Thủ pháp dòng ý thức trong “Chim Én Bay” của Nguyễn Trí Huân
Trắc nghiệm tính cách qua cách bạn bóp kem đánh răng
Các nhà tâm lý học nói rằng 40% hành động của bạn không phải là quyết định có ý thức mà là do thói quen. Những điều tưởng chừng như nhỏ nhặt thực sự đã tạo nên thói quen hàng ngày và trở thành một phần quan trọng trong cuộc sống của mỗi người. Những thói quen này có thể tiết lộ rất nhiều về tính cách và trạng thái tinh thần hiện tại của chúng ta.
1. Bạn bóp và/hoặc cuộn nó từ sau ra trước.

Bạn là một người rất tiết kiệm và ngăn nắp. Bạn vừa quan tâm đến tài sản của mình vừa quan tâm đến những người xung quanh. Bạn là người cầu toàn và bạn không muốn lãng phí bất cứ thứ gì. Bạn sử dụng tất cả các tài nguyên bạn có ở mức tối đa. Bạn thường làm việc chăm chỉ và làm tốt công việc của mình. Điều này có nghĩa là người khác có thể dựa vào bạn. Ngôi nhà của bạn luôn sạch sẽ và cuộc sống của bạn được tổ chức rất tốt.
2. Bạn bóp từ giữa.

Bạn là một người thực tế, năng động và thường có chút vội vàng. Bạn không phải là cá nhân mạnh nhất, không phải là người tổ chức tốt nhất, nhưng nếu phải đối mặt với thử thách, bạn có khả năng kéo mọi người lại với nhau để cùng giải quyết. Bạn rất hòa đồng, có nhiều bạn bè và thích công khai các mối quan hệ. Bạn biết cách cân bằng cuộc sống và ổn định cảm xúc.
3. Bạn bóp từ phía trên.

Bạn rất bướng bỉnh. Bạn có thể làm tất cả để có được những gì bạn muốn và đạt được những mục tiêu của mình. Bạn dễ rơi vào tâm trạng bi quan và thường không quá tin tưởng vào người khác mà chỉ dựa vào bản thân là chính. Bạn yêu bản thân, cho phép mình là trung tâm, điều này là hoàn toàn tốt nếu như bạn đừng trở nên ích kỷ và lợi dụng người khác vì mục đích riêng.
4. Bạn giữ nó nguyên vẹn.

Bạn thích ở một mình, bạn là một người mơ mộng, và là một nghệ sĩ. Đôi khi có vẻ như bạn chỉ sống trong thế giới của riêng mình. Bạn nhạy cảm, dịu dàng, dễ chịu, ân cần và khoan dung. Đồng thời, bạn cũng rất đơn giản và hào phóng.

Bạn luôn có nhiều suy nghĩ cũng như ý tưởng và bạn sẵn sàng chia sẻ chúng với mọi người.
5. Bạn bóp lung tung.

Bạn có khả năng nhìn thế giới dưới một góc nhìn khác. Bạn là người rất nghệ thuật và sáng tạo. Bạn có thể tìm thấy vẻ đẹp ở mọi nơi. Có thể bạn gặp khó khăn trong việc ngăn nắp và đúng giờ cũng như khó lên kế hoạch và hoàn thành tất cả nhiệm vụ, nhưng bạn đang rất phóng khoáng và lạc quan. Tuy nhiên, tâm trạng của bạn cũng dễ bị thay đổi.
Về thủ pháp “dòng ý thức”
Hiện tượng thủ pháp “dòng ý thức” ở Việt Nam
Thủ pháp “dòng ý thức” trong văn học thế giới
Tiểu kết
1.1
1.2
1.3
1.4
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ XUNG QUANH VỀ THỦ PHÁP DÒNG Ý THỨC TRONG VĂN HỌC
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ XUNG QUANH VỀ THỦ PHÁP DÒNG Ý THỨC TRONG VĂN HỌC
Thủ pháp “dòng ý thức” là một thủ pháp, một kĩ thuật sáng tác hiện đại, độc đáo, tạo thành một trào lưu của nền văn học ở thế kỉ XX. Khi xây dựng tác phẩm thủ pháp “dòng ý thức”, các nhà văn cố ý vứt bỏ tính nhất quán và hoàn chỉnh của cốt truyện, không chú ý đến bối cảnh, ngoại cảnh, câu văn không dùng dấu chấm, dấu phẩy. Các nhà văn sáng tạo nhiều thủ pháp nghệ thuật mới như đảo ngược thời gian, thời gian đồng hiện, hòa trộn thực hư, hiện tại, quá khứ, tương lai…
1.1. Về thủ pháp “dòng ý thức”
Thủ pháp “dòng ý thức” xuất hiện và đem đến cho nhà văn một kĩ thuật mới trong sáng tác văn chương và làm nên những thành tựu rực rỡ.
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ XUNG QUANH VỀ THỦ PHÁP DÒNG Ý THỨC TRONG VĂN HỌC
1.1.1. Khái niệm và nguồn gốc phát sinh thủ pháp “dòng ý thức”
“Dòng ý thức” (stream of consciousness) là một dòng văn học của thế kỉ XX, chủ yếu là văn học hiện đại chủ nghĩa hướng tới tái hiện đời sống nội tâm, cảm xúc, liên tưởng. “Dòng ý thức” có nguồn gốc là một thuật ngữ tâm lý, xuất hiện lần đầu tiên trong Nguyên lý tâm lí học (1904) của William James ở cuối thế kỉ XIX.
Chính vì vậy, có thể xem ý thức là một dòng chảy, trong đó các suy nghĩ, cảm giác, liên tưởng bất chợt cứ xen lẫn, đan bện vào nhau tạo thành những khối hỗn độn, rối rắm.
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ XUNG QUANH VỀ THỦ PHÁP DÒNG Ý THỨC TRONG VĂN HỌC
1.1.1. Khái niệm và nguồn gốc phát sinh thủ pháp “dòng ý thức”
1.1. Về thủ pháp “dòng ý thức”
Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì: “Dòng ý thức” là một khái niệm chỉ một xu hướng sáng tạo văn học (chủ yếu văn xuôi nghệ thuật thế kỉ XX), hướng tới tái hiện đời sống nội tâm, cảm xúc, liên tưởng của con người. Ở đó, những tư tưởng, cảm xúc, liên tưởng bất chợt luôn lấn át nhau và đan bện vào nhau một cách lạ lùng. “Dòng ý thức” là trường hợp cực đoan của độc thoại nội tâm, khi mà các mối liên hệ khách quan với môi trường thực tại khó bề khôi phục lại”[…] [18; 93].
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ XUNG QUANH VỀ THỦ PHÁP DÒNG Ý THỨC TRONG VĂN HỌC
1.1.1. Khái niệm và nguồn gốc phát sinh thủ pháp “dòng ý thức”
1.1. Về thủ pháp “dòng ý thức”
“Dòng ý thức” chú ý khai thác chiều sâu trong tâm trạng con người trở thành nguyên tắc nghệ thuật chỉ đạo xuyên suốt tác phẩm. Biểu hiện của “dòng ý thức” là phơi bày các hoạt động bí ẩn trong đời sống nội tâm. Nhà văn khi viết tác phẩm theo “dòng ý thức” thường không chú ý tới cốt truyện, thậm chí cố ý vứt bỏ tính nhất quán và hoàn chỉnh của cốt truyện, nhà văn cũng không quan tâm nhiều đến bối cảnh, ngoại cảnh mà quan trọng là chú ý đến cái chủ quan, cái bí ẩn trong tâm lí con người, dòng ý thức có thể đứt nối.
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ XUNG QUANH VỀ THỦ PHÁP DÒNG Ý THỨC TRONG VĂN HỌC
1.1. Về thủ pháp “dòng ý thức”
1.1.2. Đặc điểm và chức năng của thủ pháp “dòng ý thức”
Thứ nhất, sáng tác văn xuôi theo thủ pháp “dòng ý thức” xác lập nên “trung tâm ý thức”, ra sức khám phá, biểu hiện chiều sâu tâm lí. Nhà tiểu thuyết tâm lí cho rằng, tiểu thuyết chủ nghĩa hiện thực truyền thống chú trọng hiện thực bên ngoài, miêu tả hành vi nhân vật và sắp xếp tình tiết câu chuyện, nhưng lại miêu tả sơ lược cảm nhận và đời sống nội tâm của nhân vật, điều này không phải là sự miêu tả chân thực; sự chân thực thực thụ, chân thực cao nhất là tâm hồn của con người, sáng tác tiểu thuyết nên từ bỏ những nhân tố bên ngoài, lấy chủ quan thay cho khách quan, chỉ cảm nhận chân thành từ cổ chí kim của tâm hồn con người.
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ XUNG QUANH VỀ THỦ PHÁP DÒNG Ý THỨC TRONG VĂN HỌC
1.1. Về thủ pháp “dòng ý thức”
1.1.2. Đặc điểm và chức năng của thủ pháp “dòng ý thức”
Thứ hai, thủ pháp “dòng ý thức” phá vỡ kết cấu trần thuật tuân theo không gian, thời gian tự nhiên, tạo nên kết cấu trần thuật theo “không gian, thời gian tâm lí”. Văn xuôi truyền thống khi sắp xếp tình tiết thường tuân theo không gian, thời gian tự nhiên, phù hợp logic, quá khứ, hiện tại vừa có sự phân biệt, lại vừa có sự kế tiếp nhau, là mô hình kết cấu trần thuật tuyến tính. Thủ pháp “dòng ý thức” lấy dòng ý thức và hoạt động tâm lí của nhân vật làm sợi dây kết cấu xuyên suốt tác phẩm, đảo lộn trật tự không gian, thời gian tự nhiên, quá khứ, hiện tại và tương lai hoặc là đồng hiện, hoặc giao nhau, hoặc đảo nhau, có khi lấy “dòng ý thức” và hoạt động tâm lí nhân vật là một sợi dây từ một điểm tỏa đi nhiều hướng để kết cấu tác phẩm
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ XUNG QUANH VỀ THỦ PHÁP DÒNG Ý THỨC TRONG VĂN HỌC
1.1. Về thủ pháp “dòng ý thức”
1.1.2. Đặc điểm và chức năng của thủ pháp “dòng ý thức”
Thứ ba, biểu hiện nghệ thuật rõ nhất của thủ pháp “dòng ý thức” phần lớn là vận dụng độc thoại nội tâm, và liên tưởng tự do…Độc thoại nội tâm là thủ pháp sáng tác biểu hiện nội tâm, tình cảm, thể nghiệm của nhân vật tiềm tàng trong những tầng thứ mà ngôn ngữ nhiều khi bất lực, có thể là một tầng, có thể là nhiều tầng phức tạp. Liên tưởng tự do là thủ pháp biểu hiện nghệ thuật của từ và tư tưởng trong đó một từ hoặc một tư tưởng làm vật dẫn tạo ra một hệ thống quan hệ có thể có logic hoặc không có logic. Thủ pháp “dòng ý thức” dùng để biểu hiện quá trình ý thức và hoạt động tâm lí của nhân vật, đặc biệt là để biểu hiện tiềm thức nhân vật, phần lớn dùng thủ pháp biểu hiện nghệ thuật là độc thoại nội tâm và liên tưởng tự do…biểu hiện ra tình cảm nội tâm, thể nghiệm, liên tưởng của nhân vật.
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ XUNG QUANH VỀ THỦ PHÁP DÒNG Ý THỨC TRONG VĂN HỌC
1.1. Về thủ pháp “dòng ý thức”
1.1.2. Đặc điểm và chức năng của thủ pháp “dòng ý thức”
Thứ tư, thủ pháp “dòng ý thức” cũng có nét đặc sắc trong việc vận dụng ngôn ngữ. Thông thường, ngôn ngữ văn xuôi truyền thống đại đa số phù hợp với quy tắc ngữ pháp và logic lí tính, thông qua sự chỉnh lí, tổ chức hành vi con người, nhưng văn xuôi sáng tác theo thủ pháp “dòng ý thức” hướng tới biểu hiện chiều sâu ý thức nhân vật, biểu hiện tinh thần cảm xúc phiêu hốt, bấn loạn, biểu hiện một cách sinh động, chân thực ý thức, đặc biệt đặc điểm của tiềm thức, nên khi vận dụng ngôn ngữ cũng thường là không phù hợp với quy phạm ngữ pháp, thiếu logic lí tính, thậm chí hỗn loạn, đảo lộn.
1.2.2
1.2.1
Một số thành tựu của văn học “dòng ý thức” ở phương Tây
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ XUNG QUANH VỀ THỦ PHÁP DÒNG Ý THỨC TRONG VĂN HỌC
1.2. Thủ pháp “dòng ý thức” trong văn học thế giới
Một số thành tựu của văn học “dòng ý thức” ở phương Đông
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ XUNG QUANH VỀ THỦ PHÁP DÒNG Ý THỨC TRONG VĂN HỌC
1.3. Hiện tượng thủ pháp “dòng ý thức” ở Việt Nam
Thủ pháp “dòng ý thức” được tiếp thu từ bên ngoài được xem như một công cụ hữu hiệu giúp nhà văn dễ dàng viết lên những trang văn sống động về thế giới nội tâm con người. Một số thành tựu có thể kể Phiên chợ Giát đến như: (Nguyễn Minh Châu), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Chinatown (Thuận), Thế giới xô lệch (Bích Ngân).
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ XUNG QUANH VỀ THỦ PHÁP DÒNG Ý THỨC TRONG VĂN HỌC
1.3. Hiện tượng thủ pháp “dòng ý thức” ở Việt Nam
1.3.1. Văn xuôi nghệ thuật Việt Nam từ 1975 đến nay
Ở nửa cuối thập kỉ 70, những năm liền ngay sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, khuynh hướng sử thi vẫn được tiếp tục nhưng mờ nhạt dần với những tiểu thuyết, kí sự, hồi kí về chiến tranh, tiêu biểu như: Họ cùng thời với những ai (Thái Bá Lợi), Tháng Ba ở Tây Nguyên (Nguyễn Khải), Năm 75 họ đã sống như thế nào (Nguyễn Trí Huân), Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Miền cháy (Nguyễn Minh Châu),…
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ XUNG QUANH VỀ THỦ PHÁP DÒNG Ý THỨC TRONG VĂN HỌC
1.3. Hiện tượng thủ pháp “dòng ý thức” ở Việt Nam
1.3.1. Văn xuôi nghệ thuật Việt Nam từ 1975 đến nay
Từ đầu 1986 đến đầu những năm 90 là giai đoạn văn học đổi mới, tập trung vào mô tả hiện thực với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật. Khuynh hướng nhận thức lại hiện thực với cảm hứng phê phán mạnh mẽ trên tinh thần nhân bản chiếm ưu thế chủ đạo. Trong giai đoạn này, tiểu thuyết đã thực sự đổi mới về tư duy nghệ thuật, bộc lộ khả năng vượt trội của mình trong cách “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, bao quát được các vấn đề cơ bản của đời sống xã hội và con người.
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ XUNG QUANH VỀ THỦ PHÁP DÒNG Ý THỨC TRONG VĂN HỌC
1.3. Hiện tượng thủ pháp “dòng ý thức” ở Việt Nam
1.3.1. Văn xuôi nghệ thuật Việt Nam từ 1975 đến nay
Tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu được coi là tác phẩm khơi dòng cho khuynh hướng này và đã trở thành một sự kiện văn học nổi bật của những năm 1986 – 1987. Tiếp đó là một loạt các tiểu thuyết và truyện ngắn xuất hiện cuối thấp kỉ 80 và 90 như: Mùa là rụng trong vườn, Ngược dòng nước lũ (Ma Văn Kháng), Gặp gỡ cuối năm, Một cõi nhân gian bé tí (Nguyễn Khải), Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Đứng trước biển vắng, Phố, Cuộc đời dài lắm (Chu Lai), Đời thường (Phùng Khắc Bắc), Bến không chồng (Dương Hướng), Những thiên đường mù (Dương Thu Hương), Lạc rừng (Trung Trung Đỉnh), Hồ Quý Ly (Nguyễn Xuân Khánh), Đi tìm nhân vật, Thiên thần sám hối (Tạ Duy Anh),…
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ XUNG QUANH VỀ THỦ PHÁP DÒNG Ý THỨC TRONG VĂN HỌC
1.3. Hiện tượng thủ pháp “dòng ý thức” ở Việt Nam
1.3.1. Văn xuôi nghệ thuật Việt Nam từ 1975 đến nay
Từ cuối những năm 90 đến nay, trong xu thế ổn định của xã hội, văn học về cơ bản cũng trở lại với những quy luật mang tính bình thường nhưng vẫn kiên trì đi theo định hướng đổi mới đã hình thành từ những năm 80.
Trong thơ, những cách tân theo hướng hiện đại đã thu hút được nhiều cây bút thuộc các thế hệ khác nhau: Lê Đạt (Bóng chữ), Trần Dần (Cổng tỉnh, Mùa sạch), Dương Tường (36 bài tình), Nguyễn Quang Thiều (Sự mất ngủ của lửa),...Gần đây một số cây bút trẻ đã can đảm dấn thân tìm tòi những thể nghiệm mới từ hình thức đến nội dung, nhiều khi đầy táo bạo trong hướng đi sâu vào những khát vọng thầm kín, mãnh liệt, thành thực phơi bày trên trang giấy (Đồng Đức Bốn, Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh, Nguyễn Hữu Hồng Minh,….).
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ XUNG QUANH VỀ THỦ PHÁP DÒNG Ý THỨC TRONG VĂN HỌC
1.3. Hiện tượng thủ pháp “dòng ý thức” ở Việt Nam
1.3.1. Văn xuôi nghệ thuật Việt Nam từ 1975 đến nay
Những thể nghiệm mạnh bạo để cách tân tiểu thuyết được các tác giả thực hiện trong hàng loạt tiểu thuyết gần đây: Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), Hồ Quý Ly (Nguyễn Xuân Khánh), Lạc rừng (Trung Trung Đỉnh), Cơ hội của Chúa (Nguyễn Việt Hà), Người đi vắng, Trí nhớ suy tàn, Thoạt kì thủy, Ngồi (Nguyễn Bình Phương), Người sông Mê (Châu Diên), Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Cõi người rung chuông tận thế, Mười lẻ một đêm (Hồ Anh Thái), Chinatown, T mất tích (Thuận).
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ XUNG QUANH VỀ THỦ PHÁP DÒNG Ý THỨC TRONG VĂN HỌC
1.3. Hiện tượng thủ pháp “dòng ý thức” ở Việt Nam
Trên cơ sở những sáng tác đi chệch quỹ đạo “phản ánh hiện thực” vốn quen thuộc như trước đây đã có nhiều ý kiên đánh giá về những đổi mới trong bút pháp nghệ thuật được các nhà văn sử dụng, đặc biệt là thủ pháp “dòng ý thức”.
PGS. TS Nguyễn Bích Thu cho rằng: “Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại đã vận dụng thủ pháp dòng ý thức như một phương tiện đi vào thế giới tâm linh một cách có hiệu quả. Kĩ thuật dòng ý thức sử dụng thời gian đồng hiện, hồi ức, hoài niệm, dòng suy tưởng, những giấc chiêm bao, nhằm để nhân vật bộc lộ những niềm sâu kín của tâm hồn nằm ngoài vòng kiểm soát của ý thức con người” [26; 235]
1.3.2. Sự tiếp thu thủ pháp “dòng ý thức”
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ XUNG QUANH VỀ THỦ PHÁP DÒNG Ý THỨC TRONG VĂN HỌC
1.3. Hiện tượng thủ pháp “dòng ý thức” ở Việt Nam
1.3.3. Một số tác phẩm tiêu biểu cho thủ pháp “dòng ý thức”
Ở lĩnh vực truyện ngắn, tác phẩm viết theo thủ pháp “dòng ý thức” có thể kể đến trong một loạt những sáng tác của nhà văn Nguyễn Minh Châu, “người mở đường tinh anh và tài năng cho nền văn học thời kì đổi mới” (Nguyên Ngọc). Những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Minh Châu như: Bức tranh, Phiên chợ Giát, Khách ở quê ra…Bên cạnh đó là nhà văn Nguyễn Ngọc Tư với một số truyện ngắn.
Ở lĩnh vực tiểu thuyết, tác phẩm viết theo thủ pháp “dòng ý thức” có thể nói là đồ sộ nhất với nhiều tên tuổi nổi tiếng của văn đàn Việt Nam như: Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai), Chinatown (Thuận), Tấm ván phóng dao (Mạc Can), Thế giới xô lệch (Bích Ngân), Trí nhớ suy tàn (Nguyễn Bình Phương), Và khi tro bụi (Đoàn Minh Phượng), Người sông Mê (Chu Diên)…
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ XUNG QUANH VỀ THỦ PHÁP DÒNG Ý THỨC TRONG VĂN HỌC
1.4. Tiểu kết
Như vậy, chúng ta có thể thấy thủ pháp “dòng ý thức” thật sự là một kĩ thuật đắc dụng để cho nhà văn có thể chuyển tải những tâm tư của mình qua nội tâm đầy biến động của nhân vật, qua kết cấu cốt truyện đặc biệt cùng với những thay đổi về hình tượng nghệ thuật… Thủ pháp “dòng ý thức” tuy mới xuất hiện một khoảng thời gian không lâu những với những hiệu quả mang lại như thế chắc chắn rằng thủ pháp “dòng ý thức” sẽ còn phát triển rực rỡ hơn nữa ở các nền văn học trên thế giới.
2.1
Thủ pháp “dòng ý thức” trong việc xây dựng cốt truyện
2.2
2.3
CHƯƠNG 2:
THỦ PHÁP DÒNG Ý THỨC TRONG VIỆC XÂY DỰNG CỐT TRUYỆN,
XÂY DỰNG ĐIỂM NHÌN VÀ KẾT CẤU NHÂN VẬT
Thủ pháp “dòng ý thức” trong việc xây dựng điểm nhìn trần thuật
Thủ pháp “dòng ý thức” trong việc xây dựng kết cấu nhân vật
CHƯƠNG 2:
THỦ PHÁP DÒNG Ý THỨC TRONG VIỆC XÂY DỰNG CỐT TRUYỆN,
XÂY DỰNG ĐIỂM NHÌN VÀ KẾT CẤU NHÂN VẬT
2.1. Thủ pháp “dòng ý thức” trong việc xây dựng cốt truyện
Cốt truyện là một hệ thống những sự kiện cụ thể, được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hành động của các tác phẩm văn học. Cốt truyện có một tầm quan trọng đối với tác phẩm và trong nền văn học đương đại Việt Nam cốt truyện biến tấu rất phức tạp, đặc biệt là sự thay đổi kết cấu cốt truyện theo thủ pháp “dòng ý thức”.
Cốt truyện có hiện tượng “phân rã” rời rạc không theo một quy định nào mà chủ yếu dựa vào nội tâm nhân vật. Hiện tượng phân rã cốt truyện thể hiện rõ nét trong nhiều tác phẩm, tiêu biểu là “Chim én bay” của Nguyễn Trí Huân.
2.1. Thủ pháp “dòng ý thức” trong việc xây dựng cốt truyện
Truyện “Chim én bay” được mở đầu qua lời kể của Quy về gia đình của mình. Nhà văn đã để nhân vật hồi tưởng lại quá khứ trước nhằm làm cơ sở lí giải mong muốn của Quy ở hiện tại có phần trái khoáy: “Có thể nói không quá rằng, chiến tranh đã cướp đi tất cả những gì cần thiết cho một đời sống bình thường của chị. Lẽ ra chị có thể hoàn toàn thanh thản trước quá khứ. Nhưng lại không hiểu sao chị lại trăn trở, bức xúc muốn tìm lại nhà những thằng ác ôn bị chị giết chết hơn mười năm trước? Cái gì đã thúc đẩy chị? Chị không giải thích được”.
2.1. Thủ pháp “dòng ý thức” trong việc xây dựng cốt truyện
Hướng mạch truyện thứ nhất đã được khơi mở: Lòng quyết tâm giết giám Tuân để trả thù cho những người thân trong gia đình (QK) và ý định tìm lại nhà của những tên ác ôn chị đã giết để xem vợ con chúng sống như thế nào (HT). Kế tiếp, nhà văn để nhân vật tự thuật về hoàn cảnh của mình ở hiện tại. Cuộc sống của Quy rất cô đơn, chị không còn người thân ở bên để chia sẻ mọi vui buồn trong cuộc sống. Người duy nhất chị nghĩ đến trong những giây phút trống vắng là anh Cường nhưng anh đã êm ấm với cuộc sống gia đình mới của mình. Đến đây, những kỉ niệm trong quá khứ ùa về, đó là ngày đầu tiên chị đến với đội Chim én và được gặp anh Cường. Nhà văn đã chầm chậm vẽ nên hướng phân nhánh thứ hai của câu chuyện: tình yêu của Quy với Cường (QK) và mối quan hệ giữa hai người (HT).
 Kết cấu tác phẩm có hai hướng chính như trên, dựa trên cơ sở mạch ngầm này dòng ý thức của nhân vật bắt đầu xoay trở liên tục từ quá khứ về hiện tại và theo hướng ngược lại. Quá khứ và hiện tại đan xen, nối tiếp, đồng hiện, giải thích cho nhau, dần dắt mạch truyện xuôi chảy đến cuối cùng.
2.1. Thủ pháp “dòng ý thức” trong việc xây dựng cốt truyện
Khi cốt truyện bị chi phối bởi thủ pháp dòng ý thức, cốt truyện có hiện tượng phân rã, người đọc cảm giác các sự việc không ăn khớp, xa rời nhau nhưng thật ra mạch truyện đã tái hiện chân thực thế giới cảm xúc, nội tâm đa tầng của nhân vật.
Trong lần Quy quyết định vào nhà giám Tuân, chị đã gặp con trai của hắn. Tưởng chừng như cuộc nói chuyện giữa hai người sẽ diễn ra ngay sau đó nhưng ngược lại nhà văn lại hướng câu chuyện trở về quá khứ. Tiếp nối sự việc dang dở ở phần trước, nhân vật nhớ lại thời gian sau buổi sáng nghiệt ngã ấy, chị bị giám Tuân bắt ở chợ Bồng trong lúc đi trinh sát. Chúng nhốt bị ở nhà giam tại hội đồng xã. Giám Tuân đã giở nhiều thủ đoạn đe dọa, tra tấn, làm nhục để buộc chị khai báo sự thật: Mày không chịu nói, giết mày tao sẽ giết bằng hai cách: chặt đầu bêu ngoài chợ, hoặc cột đá thả mày xuống giếng. Nhưng trước khi giết, tao sẽ tàn phá đời mày, để lỡ mày còn sống, cũng không bao giờ thành người được.
2.1. Thủ pháp “dòng ý thức” trong việc xây dựng cốt truyện
Cắt đứt mạch hồi tưởng ở quá khứ, truyện tiếp tục trở về sự việc ở hiện tại. Nhìn chung hai sự việc trên không có mối quan hệ giải thích cho nhau, người đọc có thể sẽ cảm thấy cốt truyện trở nên rời rạc, tính liên quan của tình tiết bị thủ tiêu. Thế nhưng trong trường hợp này lại đặc biệt, nhà văn dẫn dắt hai sự việc không có mối liên hệ mật thiết nhằm nhấn mạnh tâm trạng của Quy ở hiện tại. Đó là tâm trạng nhập nhằng, khó quyết đoán khi Quy đến nhà giám Tuân.
Chị đã bước chân đến nhà của kẻ thù nhưng trong lòng chị vẫn nhớ, vẫn đau nỗi đau bị kẻ thù làm nhục. Mãi đến tận bây giờ chị vẫn không thôi ám ảnh, đó cũng là một trong những nguyên do khiến chị không thể có được thiên chức làm mẹ. Mọi tội lỗi mà kẻ thù đã gây ra cho chị chị đã trừng phạt chúng trong quá khứ, bằng tình cảm của những người bà con lối xóm với nhau, Quy rất mong muốn tìm được cách giúp đỡ vợ con giám Tuân về những khó khăn kinh tế họ gặp phải. Nhân vật Quy hiện lên là một người phụ nữ có trái tim bao dung, ấm áp, giàu tình yêu thương mọi người.
2.1. Thủ pháp “dòng ý thức” trong việc xây dựng cốt truyện
Tiểu thuyết “Chim én bay” đã thể hiện rất thành công vẻ đẹp tâm hồn cũng như phẩm chất của nữ chính qua dòng liên tưởng nhạy cảm của nhân vật. Bằng cách xử lí tài hoa, nhà văn đôi lúc đã để cho suy tư của nhân vật liên tưởng không dứt về những việc đã trải qua. Từ một sự việc trong quá khứ nhân vật nhớ đến một việc khác tương tự, chính những nút thắt đó đã vẽ nên chân thật thế giới nội tâm của nhân vật.
Nguyễn Trí Huân đã dụng ý sắp đặt dòng liên tưởng của nhân vật, từ sự việc Quy mất Dũng, người mà chị yêu thương. Sau này nỗi đau đó lại đến với chị, chị buộc lòng nhìn người mình yêu đến với người khác: anh Cường thông báo với chị sắp kết hôn. Ở đây, từ một sự việc trong quá khứ dòng liên tưởng của nhân vật tự nhiên nhớ đến một sự việc cách đó không lâu trong hiện tại, đây là trong những thủ pháp miêu tả tâm lí chắc tay của nhà văn.
2.1. Thủ pháp “dòng ý thức” trong việc xây dựng cốt truyện
Vào đêm trước ngày cưới, anh Cường đột ngột dến thăm chị. Nhưng lần gặp gỡ ấy chỉ để lại vết thương nơi trái tim Quy: “Bên ngoài tời vẫn đổ mưa. Sấm rền rĩ trên mái nhà và chớp rạch liên tục trên mặt biển. Chị kéo anh lại phía chiến giường đơn ở góc phòng điên cuồng và mạnh mẽ. Nhưng đúng vào lúc mà dục vọng sắp sửa bị thiêu hủy, sắp được thỏa mãn đến tận cùng thì anh vụt đứng dậy, vội vã gỡ tay chị ra. “Đừng, đừng, Tư tha thứ cho anh”. Anh lắp bắp một cách máy móc và tầm thường rồi chạy lao ra ngoài. Khi đó, sâm vẫn rền vang và chợp vẫn rạch lên từng lằn sáng như roi quất ngoài khung cửa…”. Kỉ niệm cay đắng ấy khiến chị chỉ cảm thấy bơ vơ, lạc lòng, cô độc ở hiện tại. Rốt cuộc Quy cảm thấy mình chỉ mong được sống hạnh phúc trong tưởng tượng với Dũng: “Hàu hết những đêm thao thức bưởi những khát vọng bình thường của người phụ nữ chưa hề được làm vợ, làm mẹ, chị đã sống bằng mộng mị với Dũng. Chị tưởng tượng Dũng lúc này là một sĩ quan quân đội. Chị và Dũng vẫn sẽ ở căn nhà này… Rôt cuộc, chị chỉ còn lại có Dũng.”
2.1. Thủ pháp “dòng ý thức” trong việc xây dựng cốt truyện
 Hệ quả của sự phân mảnh trong cốt truyện là sự dồn nén, chồng chéo các vấn đề của hiện thực trong thế giới nội tâm nhân vật vào một đơn vị thời gian trần thuật nhất định: cuộc chiến đấu vừa anh hùng vừa bi thảm, mối tình đầu vừa trong sáng vừa đau đớn của Quy ... tất cả là sự phản chiếu tính phức tạp của cuộc chiến đấu vào sự đa chiều của đời sống tâm hồn, tình cảm của con người.
CHƯƠNG 2:
THỦ PHÁP DÒNG Ý THỨC TRONG VIỆC XÂY DỰNG CỐT TRUYỆN,
XÂY DỰNG ĐIỂM NHÌN VÀ KẾT CẤU NHÂN VẬT
2.2. Thủ pháp “dòng ý thức” trong việc xây dựng điểm nhìn trần thuật
Theo “Từ điển thuật ngữ văn học”, “điểm nhìn” là “vị trí từ đó người trần thuật nhìn ra và miêu tả sự vật trong tác phẩm. Không thể có nghệ thuật nếu không có điểm nhìn bởi nó thể hiện sự chú ý quan tâm và đặc điểm của chủ thể trong việc tạo ra cái nhìn nghệ thuật. Giá trị của sáng tạo nghệ thuật một phần không nhỏ là do đem lại cho người thưởng thức một cái nhìn mới đối với cuộc sống. Sự đổi thay của nghệ thuật bắt đầu từ đổi thay điểm nhìn”.
Điểm nhìn cũng được đa dạng hóa, trao cho nhiều đối tượng, tạo ra một cục diện đa chiều, đa âm, phức tạp hơn trước. Có điểm nhìn bên trong, điểm nhìn bên ngoài và sự dịch chuyển cũng như gấp bội điểm nhìn. Và thủ pháp “dòng ý thức” đã giúp cho điểm nhìn trần thuật trở nên linh hoạt hơn.
2.2. Thủ pháp “dòng ý thức” trong việc xây dựng điểm nhìn trần thuật
Câu chuyện trong “Chim én bay” được kể ở ngôi thứ ba. Theo lí thuyết, khi đó, điểm nhìn trần thuật phải được tiến hành theo phương thức trần thuật khách quan, từ điểm nhìn bên ngoài. Nhưng trong tiểu thuyết lại có sự đan xen, luân chuyển độc đáo. Người kể chuyện tuy đứng ở ngôi thứ ba nhưng lại hiểu một cách cặn kẽ nhưng diễn biến trong tâm hồn nhân vật. Đó thường là những lúc Quy suy tư về những nỗi đau tinh thần mà vĩnh viễn chị phải mang sau những tháng năm sống trong chiến tranh: “Hình như chiến tranh buộc con người phải sống nhanh hơn, gấp hơn những gì còn lâu họ mới có. Hình như chính bọn ác ôn trong nhà giam hội đồng xã đã biến chị từ một co bé thành một cô gái quá sớm, để vĩnh viễn không bao giờ chị được làm một người phụ nữ bình thường nữa”.
2.2. Thủ pháp “dòng ý thức” trong việc xây dựng điểm nhìn trần thuật
Bên cạnh đó, trong tiểu thuyết này có hiện tượng di chuyển điểm nhìn từ ngôi thứ ba sang ngôi thứ nhất. Chính lúc đó, người đọc nhận ra tác giả cũng là nhân vật. Nhưng suy tư của Quy về những cuộc đời chị: “Những ngày này không hiểu sao chị nằm nhớ lại những gì đã xảy ra trong cuộc đời mình. Nhưng trở qua trở lại nhiều nhất vẫn là ấn tượng về những cái chết. Những cái chết kẻ thù mang đến cho gia đình chị và những cái chết chị gieo cấy cho chúng. Chị đã giết những tên ác ôn khét tiếng bởi cách mạng đòi hỏi chị làm như vậy. Vậy mà, bây giờ không hiểu sao, chị cứ thấy mình không yên… Có một cái gì đó ngoài lí trí bắt chị phải suy nghĩ, trăn trở. Cái gì? Hình như nó ở đâu đó trong con người chị, trong mọi con người hằng ngày chị tiếp xúc. Hình như nó ở trong đất, trong nước…”.
2.2. Thủ pháp “dòng ý thức” trong việc xây dựng điểm nhìn trần thuật
Cách di chuyển điểm nhìn vào bên trong này được tiến hành hết sức linh hoạt. Khoảng cách giữa người kể chuyện và nhân vật thu hẹp đến mức gần như không còn gì. Hai điểm nhìn nhập làm một, chính điều này đã giúp người đọc có thể tiếp cận được với từng dòng suy nghĩ, ý thức, cảm nhận được từng xúc cảm tinh vi trong cõi lòng nhân vật Quy.
 Qua sự di chuyển điểm nhìn này, tác giả đã phơi bày được mọi ngóc ngách của tâm hồn nhân vật, thấu hiểu được những nỗi đau mà nhân vật trải qua. Đây chính là một trong những thành công của tác phẩm trong việc vận dụng kĩ thuật dòng ý thức, thủ pháp này cho phép tâm tư chảy trôi một cách chân thật, sinh động, tự nhiên.
A
B
CHƯƠNG 2:
THỦ PHÁP DÒNG Ý THỨC TRONG VIỆC XÂY DỰNG CỐT TRUYỆN,
XÂY DỰNG ĐIỂM NHÌN VÀ KẾT CẤU NHÂN VẬT
2.3. Thủ pháp “dòng ý thức” trong việc xây dựng kết cấu nhân vật
A
B
CHƯƠNG 2:
THỦ PHÁP DÒNG Ý THỨC TRONG VIỆC XÂY DỰNG CỐT TRUYỆN,
XÂY DỰNG ĐIỂM NHÌN VÀ KẾT CẤU NHÂN VẬT
2.3. Thủ pháp “dòng ý thức” trong việc xây dựng kết cấu nhân vật
Nhân vật văn học được xây dựng theo thủ pháp “dòng ý thức” có đặc điểm nổi bật đó là thông qua dòng ý thức của nhân vật có thể phản chiếu để người đọc nhìn thấy những nhân vật xung quanh, những vấn đề xã hội, thời đại. Chính vì nhân vật được xây dựng chủ yếu dựa trên dòng ý thức miên man nên xác định bản chất con người có phần phức tạp.
A
B
CHƯƠNG 2:
THỦ PHÁP DÒNG Ý THỨC TRONG VIỆC XÂY DỰNG CỐT TRUYỆN,
XÂY DỰNG ĐIỂM NHÌN VÀ KẾT CẤU NHÂN VẬT
2.3. Thủ pháp “dòng ý thức” trong việc xây dựng kết cấu nhân vật
Trong nhân vật, việc nhà văn để những hồi tưởng đan xen trọng tâm với dòng tâm tư hiện tại luôn ở những đường ranh giới hết sức mờ nhòe, khó nhận biết. Những mảng kí ức cứ nhập nhòa, đan xen với thực tại, tạo nên những dòng chảy hỗn độn của ý thức chứ không diễn tiến theo một trật tự nào. Không có quan hệ nhân quả, không theo trật tự thời gian, từng mảnh đời nhân vật bị chia cắt ra, bị phân tán vào ký ức lộn xộn, chắp nối và rời rạc của nhân vật chính.
2.3. Thủ pháp “dòng ý thức” trong việc xây dựng kết cấu nhân vật
Ở tiểu thuyết “Chim én bay”, hệ thống các nhân vật trong tác phẩm đều được tái hiện thông qua hồi tưởng của nhân vật Quy. Người đọc bàng hoàng trước cái chết khốc liệt của những người thân trong gia đình Quy: họ là nạn nhân có số phận bi thảm trong chiến tranh. Mẹ chị chết do quả pháo hạm bắn vu vơ ngoài biển, mẹ mất cuộc sống gia đình chị đảo lộn. Anh Dương vô bộ đội du kích xã, chị Hảo buộc phải thôi học ở một trường tư thục. Sau ngày anh Dương bị tên giám Tuân giết, chị Hảo đã gia nhập đội Chim én tiếp tục sự nghiệp của anh nhưng cuối cùng chị cũng bị giặc bắt giết. Người đọc cảm nhận được hiện thực khốc liệt đầy ám ảnh về chiến tranh.
2.3. Thủ pháp “dòng ý thức” trong việc xây dựng kết cấu nhân vật
Đối với Quy, anh Cường luôn là người chị tin tưởng, khi có việc không thể tự mình giải quyết thì Quy luôn hỏi ý kiến anh. Cả anh, mặc dù đã lập gia đình nhưng vẫn luôn quan tâm, giúp đỡ Quy như một người anh cả. Đến lúc Quy biết mình bệnh nặng, anh Cường lo lắng và tìm cách động viên chị lạc quan vui sống. Tình yêu giữa Quy và Cường đã để lại nhiều xót xa trong lòng người đọc, chiến tranh đã cướp đi cơ hội hạnh phúc của hai người; mỗi người có những lựa chọn riêng ở hiện tại nhưng không hạnh phúc. Người lính giờ đây không còn là những con người vĩ đại có thể thay đổi lịch sử mà đôi khi họ còn yếu đuối, bất lực, rơi vào bi kịch cô đơn, lạc lõng trong cuộc sống.
2.3. Thủ pháp “dòng ý thức” trong việc xây dựng kết cấu nhân vật
Những kỉ niệm về Dũng đã sưởi ấm cõi lòng chị khi Quy sống độc thân trong khu tập thể đông người. Số phận con người trong chiến tranh thật nhỏ bé, cái chết rình rập họ mỗi ngày, mỗi giờ. Người ta có thể chết vì bom nổ, đạn bay lạc hướng không biết trước và cái chết của Dũng cũng là một nỗi đau quá bất ngờ với Quy.
Dũng hi sinh, Quy nén đau thương một mình lên đường tìm diệt Hai Đích. Phải đến lúc ấy, chị mới nhận thấy Dũng cần thiết với chị đến mức nào. Dũng là cậu bé hiện thân cho vẻ đẹp trong sáng, ý chí chiến đấu cao đẹp, một tinh thần sống quyết liệt, cống hiến hết mình.
2.3. Thủ pháp “dòng ý thức” trong việc xây dựng kết cấu nhân vật
Một nhân vật nữ góp phần thể hiên tư tưởng trong tiểu thuyết đó chính là chị Năm, vợ tên giám Tuân. Mỗi lần xuất hiện, người phụ nữ ấy đã để lại trong lòng đọc giả bao suy tư về hậu quả và số phận đáng thương của con người trong chiến tranh. Lúc sống và khi cận kề cái chết họ vẫn không có lấy một phút giây thanh thản, hạnh phúc.
2.3. Thủ pháp “dòng ý thức” trong việc xây dựng kết cấu nhân vật
Lần thứ nhất Quy định bắn chết tên giám Tuân nhưng cô gái không thể vì đứa nhỏ tên ác ôn bế trên tay hoàn toàn là đứa bé vô tội, cô không muốn nó phải chết khi cha nó mới là người mang tội. Tình huống bỗng trở nên bất ngờ và nghiệt ngã, làm cô gái lâm vào lúng túng và đứng trước mối hiểm họa. Đúng vào lúc đó, vợ tên ác ôn, chị Năm đã giải thoát cứu sống cô gái. Đây là tình huống quan trọng nhất đối với toàn bộ sự phát triển không ngờ của các biến cố sau đó đưa toàn bộ câu chuyện vượt khỏi một cuộc trả thù thuần túy, tạo ra sự phong phú của tâm lí trong các mối quan hệ của nhân vật chính.
2.3. Thủ pháp “dòng ý thức” trong việc xây dựng kết cấu nhân vật
Vào lúc túng quẫn và cả nhục nhã nữa đã lên đến tột đỉnh, bà vợ giám Tuân uống bả chuột. Khi lâm chung trên giường bệnh, bà nhắn xin gặp Quy để gửi lại đứa con mà hiện không biết bà đã mang giấu nó ở đâu. Chi tiết gửi con cho người đã bắn chết cha nó quả chứa đựng những trăn trở. Nó, cùng với việc bà vợ giám Tuân trực diện với Quy ở cơ quan chị lần trước, nói những lời lẽ thấu đáo rằng mẹ con bà vô tội, thậm chí là nạn nhân của cuộc chiến do người Mĩ bày ra - những lời lẽ không cầu xin mà là đòi hỏi sự công bằng - đã chứng tỏ rằng không những bà ta là người mẫn tuệ khẳng khái mà còn hóa ra bà ta biết cả, biết rất rõ con người thiên lương của Quy, mặc dù giữa họ chỉ duy nhất có một lần gặp.
2.3. Thủ pháp “dòng ý thức” trong việc xây dựng kết cấu nhân vật
Ý nghĩa nhân văn của câu chuyện còn được Nguyễn Trí Huân thể hiện sâu sắc qua cuộc nói chuyện giữa Quy và người hiệu trưởng. Đó là người mà năm xưa đã mời chị - người Anh hùng đến nói chuyện chiến đấu để bồi dưỡng truyền thống anh hùng cho lớp trẻ. Chị đã nhận lời, nhưng sực nhận thấy một hoàn cảnh oái oăm: Trong những lớp trẻ ấy, nhỡ có con của kẻ ác thì sao, nó sẽ nghĩ như thế nào về câu chuyện truyền thống? Và chị đã xin hoãn. Ở đây, người Anh hùng đã xứng đáng là anh hùng, khi hiểu rất rõ sự việc, biết nhìn xa hơn cái sự vụ trước mắt để điều khiển sự việc sao cho tốt nhất, đúng hơn là đỡ xấu nhất cho tương lai. Còn người bình thường như anh hiệu trưởng thì không thể tự mình cắt nghĩa được vì sao chị lại đến để xin học tiếp cho con trai út của kẻ thù.
2.3. Thủ pháp “dòng ý thức” trong việc xây dựng kết cấu nhân vật
“Chim én bay” nhiều trang thấm đẫm nhân bản. Đây là giọt tinh dầu khả dĩ xoa dịu hẳn những vết thương chiến tranh với tất cả tính khốc liệt của nó: “Được một quãng, quay lại nhìn, chị vẫ
nguon VI OLET