HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

VIỆN LỊCH SỬ ĐẢNG

 

( Nguồn: http://www.amo.gov.vn/content/a114/listfileen.asp  )

 

 

 

 

 

 

ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG

ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI

                                           (TỪ NĂM 1986 đến nay)

 

Người biên soạn: TS NGUYỄN DANH TIÊN

 

 

 

 

 

HÀ NỘI 11-2011

1

 


 

A. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU

1. Mục đích

- Hiểu sâu sắc những nội dung bản của đường lối đổi mới do Đại hội VI của Đảng (12-1986) đề ra và quá trình bổ sung, phát triển đường lối đổi mới qua thực tiễn hơn 25 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới.

- Nắm vững những nội dung Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới từ 1986 đến nay và thành tựu, kinh nghiệm của Đảng trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới.

2. Yêu cầu

- Nhận thức có hệ thống quá trình tìm tòi, khảo nghiệm và từng bước hoàn chỉnh đường lối đổi mới; nội dung cơ bản của đường lối đổi mới được đề ra tại Đại hội Đảng lần thứ VI (12-1986) và sự phát triển đường lối đổi mới qua các kỳ Đại hội và Hội nghị Trung ương từ khóa VI đến khóa XI.

- Làm rõ tính đúng đắn và những giá trị lý luận - thực tiễn của quá trình đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cũng như sự phát triển về lý luận của Đảng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng, an ninh, hệ thống chính trị và công tác xây dựng Đảng. Khẳng định sự tìm tòi, phát triển sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.

Góp phần củng cố niềm tin, sự thống nhất trong toàn Đảng, toàn dân về con đường tất yếu đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; bác bỏ những luận điệu phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, góp phần quan trọng vào công tác tư tưởng, lý luận của Đảng.

1

 


B. NỘI DUNG

1. Đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam

1.1. Yêu cầu khách quan của sự nghiệp đổi mới

1.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội đất nước những năm cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 lâm vào tình trạng khủng hoảng

- Sản xuất kém phát triển. Tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 1976-1980 đạt 1,6%, trong khi, đó dân số tăng 4,5 triệu người. Những năm 1981-1985, mặc dù tổng sản phẩm xã hội tăng bình quân 6,4% nhưng do dân số tăng hằng năm 2,3% nên sản xuất vẫn không đủ tiêu dùng. Các chỉ tiêu cơ bản như lương thực, thực phẩm, điện, than, xi măng, phân bón, gỗ, vải, hàng xuất khẩu không đạt hiệu quả sản xuất tư thấp..

- Phân phối lưu thông rối ren do Nhà nước áp dụng chính sách ngăn sông, cấm chợ.

Các công cụ đòn bẩy kinh tế như: chính sách giá cả, tiền tệ, tài chính, tiền lương... đều không phát huy tác dụng dẫn đến lạm phát gia tăng (trên 300% năm 1985 và 774% năm 1986).

Những khó khăn về sản xuất và phân phối lưu thông dẫn đến mất cân đối lớn trong nền kinh tế giữa cung và cầu về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, nông lương, nguyên vật liệu, giữa thu và chi, giữa xuất khẩu và nhập khẩu.

- Trong xã hội xuất hiện nhiều tiêu cực, công bằng xã hội bị vi phạm, pháp luật, kỷ cương không nghiêm. Một số cán bộ, công nhân viên nhà nước lộng quyền, tham nhũng.

- Đời sống của nhân dân, nhất là nông dân, công nhân viên chức gặp nhiều khó khăn. Nhiều nhu cầu chính đáng của người dân như: ăn, nhà ở, thuốc men, sinh hoạt văn hóa tinh thần nghèo nàn, thiếu thốn.

- Niềm tin của các tầng lớp nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước giảm sút nghiêm trọng. Bởi Đảng và Nhà nước không đảm bảo được những vấn đề thiết yếu của cuộc sống.

1

 


Về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Người dân chỉ hiểu đúng nghĩa của độc lập tự khi được ăn no mặc ấm". Người chỉ rõ: "chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ" [1].

            - Lợi dụng những khó khăn của Việt Nam, các thế lực thù địch tích cực kích động, lôi kéo người vượt biên trái phép. Trong xã hội xuất hiện làn sóng người vượt biên trái phép đến Hồng Kông.

Nền kinh tế - xã hội rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng.

* Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội.

- Về khách quan

+ Hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh.

+ Điểm xuất phát của nền kinh tế thấp: mặc dù đã tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc song kinh tế đất nước chủ yếu là kinh tế tiểu nông, công nghiệp hầu như không có, các ngành dịch vụ không phát triển.

+ Các thế lực thù địch tiến hành bao vây cấm vận về kinh tế. Viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa: Liên Xô, Trung Quốc giảm sút. Năm 1978, Trung Quốc và Liên Xô chính thức cắt viện trợ.

+ Xảy ra chiến tranh biên giới phía Tây Nam và chiến tranh biên giới phía Bắc.

- Về chủ quan

+ Do Đảng và Nhà nước duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu hành chính bao cấp.

 -Do những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện.

+ Quản lý kinh tế, quản lý xã hội nhiều yếu kém.

Trong thực tế, Đảng chủ quan, duy ý chí, nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa và đề ra đường lối phát triển kinh tế - xã hội.

1.1.2. Đổi mới để nhận thức rõ hơn về CNXH và thời kỳ quá độ

Những năm 1975-1985, Đảng chưa nhận thức đúng về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ

1

 


- Không nhận thức rõ đặc trưng (đặc biệt là đặc trưng kinh tế của thời kỳ quá độ). Về vấn đề này, trong bài viết "Về bệnh ấu trĩ tả khuynh" và "Bàn về thuế lương thực", Lênin đã chỉ rõ 4 đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, trong đó có 2 đặc trưng kinh tế cơ bản là sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế và còn nhiều hình thức sở hữu. Đồng thời, Lênin chỉ rõ: Thời kỳ quá độ là một thời kỳ lịch sử lâu dài và trải qua những chặng đường và bước đi cụ thể:

“Trong một nước tiểu nông, trước hết các đồng chí phải bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội, không phải bằng cách trực tiếp dựa vào nhiệt tình, mà là với nhiệt tình do cuộc cách mạng vĩ đại sinh ra, bằng cách khuyến khích lợi ích cá nhân, bằng sự quan tâm thiết thân của cá nhân, bằng cách áp dụng chế độ hạch toán kinh tế"[2].

Về vấn đề này Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: Đi lên CNXH không thể làm nhanh được,mà phải tiến lên từng bước, tiến bước nào chắc bước ấy.

Trong khi đó, trong nhận thức và hành động, Đảng nóng vội muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội bằng cách xoá bỏ các thành phần phi xã hội chủ nghĩa, đồng thời không thấy sự tồn tại và phát triển kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan. Theo Lênin, đây "là một sự dại dột và tự sát"[3].

- Tuyệt đối hóa kế hoạch hóa: Đảng quan niệm đó là sự ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Vì thế, đã thực hiện cơ chế tập trung quan liêu hành chính bao cấp. Điều đó chứng tỏ Đảng chưa nhận thức đúng đắn và hành động phù hợp với quy luật khách quan.Vì thế: “ Mọi chủ trương, chính sách gây tác động ngược lại là biểu hiện sự vận dụng không đúng quy luật khách quan phải được sửa đổi hoặc bãi bỏ".[4]

Tất cả những điều đó làm cho sản xuất chậm phát triển, mâu thuẫn giữa cung và cầu ngày càng gay gắt, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, đổi mới trở thành vấn đề bức thiết của cuộc sống.

1

 


1.1.3.  Xu hướng cải cách, mở cửa, cải tổ của các nước XHCN

- Cuối những năm 70, Trung Quốc tiến hành cải cách, mở cửa.

- Đầu những năm 80, Liên Xô tiến hành công cuộc cải tổ.

Như vậy: Đứng trước những đòi hỏi bức xúc của cuộc sống, với xu thế phát triển của thời đại, lại chịu ảnh hưởng của các nước trong khu vực và trên thế giới... đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đổi mới - nhất là đổi mới tư duy của Đảng. Khi bàn đến những động lực dẫn đến những đổi mới ở Việt Nam, D.H.Pêkin cho rằng cải tổ ở Liên Xô, Đông Âu, cải cách ở Trung Quốc và những thành công của các nước phi xã hội chủ nghĩa ở Đông Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông... "rất có thể đã ảnh hưởng đến các quyết định cải cách ở Việt Nam"[5].

1.2. Nội dung đường lối đổi mới

* Đổi mới cơ cấu kinh tế. Có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác ngoài kinh tế xã hội chủ nghĩa theo quan điểm của Lênin "coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ"[6]. Các thành phần đó là: kinh tế xã hội chủ nghĩa (quốc doanh, tập thể); kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế tự nhiên tự túc tự cấp. Nhận thức và vận dụng đúng quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.

Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư, tập trung thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn.

* Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Kiên quyết xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu hành chính bao cấp; đổi mới kế hoạch hóa, kết hợp kế hoạch hóa với thị trường, từng bước đưa nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Phương hướng đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là "xóa bỏ tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách quan và với trình độ phát triển của nền kinh tế. Trong cơ chế quản lý đó, tính kế hoạch là đặc trưng số 1 và sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa - tiền tệ là đặc trưng thứ hai. Thực chất của cơ chế mới về quản lý kinh tế là cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ

1

 


[7].

* Đổi mới và tăng cường vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước về kinh tế. Tăng cường bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương thành một thể thống nhất, có sự phân biệt rành mach nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm tùy cấp theo nguyên tắc tập trung dân chủ: "Phân biệt rõ chức năng quản lý hành chính - kinh tế của các cơ quan nhà nước Trung ương và địa phương với chức năng với quản lý sản xuất - kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở"[8]. Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội, thực hiện cơ chế "Quản lý đất nước bằng pháp luật, chứ không chỉ bằng đạo lý"[9].

* Đổi mới hoạt động kinh tế đối ngoại trên cơ sở mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối. Mở rộng hợp tác đầu tư với nước ngoài thông qua việc công bố chính sách khuyến khích đầu tư vói nhiều hình thức, nhất là những ngành đòi hỏi kỹ thuật cao và làm hàng xuất khẩu. Bên cạnh đó, tạo điều kiện cho người nước ngoài và Việt kiều về nước đầu tư, họp tác kinh doanh,

* Đổi mới chính sách văn hóa- xã hội: Ban hành các chính sách xã hội cơ bản, lâu dài và xác định những nhiệm vụ, mục tiêu phù họp vói yêu cầu, khả năng trong chặng đường đầu tiên. Chú trọng phát huy yếu tố con người và lấy việc phục vụ con người là mục đích cao cả nhất.

* Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng trên cơ sở nâng cao nhận thức lý luận, vận dụng đúng quy luật khách quan, khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí hoặc bảo thủ trì trệ. Đổi mới bắt đầu từ đổi mới tư duy, trước tiên là đổi mới tư duy kinh tế trên cơ sở nắm vững bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, kế thừa tư tưởng cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. "Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc", phải nắ

1

 


m vững thực tiễn và không ngừng nâng cao trình độ trí tuệ và đổi mới phong cách, phương pháp làm việc

* sở hoạch định đường lối

- Cơ sở thực tiễn

+ Tổng kết thực tiễn ( khoán sản phẩm trong nông nghiệp ở Đồ Sơn Hải Phòng; bù giá vào lương ở Long An và phát tiển kinh tế nhiều thành phần ở thành phố Hồ Chí Minh).

+ Lắng nghe ý kiến, nguyện vọng và tổng kết những sáng kiến của nhân dân.

+ Đúc kết kinh nghiệm từ những bài học thành công và không thành công của các nước XHCN: Trung Quốc, Đông Âu và các nước trong khu vực.

- Cơ sở lý luận

Không ngừng đổi mới tư duy lý luận, nhận thức rõ hơn về CNXH, về thời kỳ quá đô (qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, qui luật giá trị, qui luật cung cầu) trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Qua tổng kết thực tiễn và nhận thức rõ hơn về lý luận, Đại hội VI của Đảng đã hoạch định đường lối đổi mới. Đường lối đổi mới là sản phẩm của tư duy khoa học và thể hiện quyết tâm sửa chữa sai lầm trong nhận thức qui luật khách quan và cả trong vận dụng và hành động trong thực tiễn.

Từ sau Đại hội VI của Đảng, nhất là từ khi có Cương lĩnh 1991, trong quá trình lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng bổ sung, phát triển đường lối đổi mới, cụ thể hóa và thể chế hóa đường lối, từng bước thực hiện có hiệu quả đường lối đổi mới.

2. Quá trình bổ sung, phát triển đường lối đổi mới

        Thực hiện đường lối đổi mới, các kỳ Đại hội Đảng và Hội nghị Trung ương không ngừng bổ sung, phát triển đường lối đổi mới.

        *Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6-1991)

          Đại hội khẳng định:

1

 


  - Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.

  - Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là một phương hướng chiến lược lớn.

    - Cùng với phát triển kinh tế, phải chú trọng chính sách xã hội vì con người, kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.    

     Đại hội thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH xác định  mô hình xã hội XHCN ở Việt Nam với 6 đặc trưng và 7 phương hướng để xây dựng xã hội XHCN ở Việt Nam. Chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng.

* Đại hội VIII ( 6-1996)

  Đại hội khẳng định: Sau 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội. Những nhiệm vụ đề ra trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ về cơ bản hoàn thành, cho phép nước ta chuyển sang thời kỳ mới- thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Đại hội khẳng định, cùng với những thành tựu của công cuộc đổi mới, con đường đi lên CNXH ngày càng được xác định rõ hơn. Đại hội tiếp tục bổ sung, phát triển đường lối đổi mới, thể hiện ở những điểm sau:

- Làm rõ hơn quan niệm về chặng đường đầu tiên và chặng đường tiếp theo trong thời kỳ quá độ.

  - Chỉ rõ mục tiêu đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước là phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020.

  - Coi đổi mới kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.

   - Làm rõ hơn định hướng XHCN trong xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.

1

 


    - Khẳng định tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân.

     - Xác định phát triển giáo dục đào tạo và khoa học- công nghệ là quốc sách hàng đầu.

Đại hội IX ( 4-2001)

- Đại hội đánh giá tổng quát về thế kỷ XX và khẳng định những thành tựu mà cách mạng Việt Nam đã giành được, đồng thời nêu triển vọng của thế kỷ XXI.

- Đại hội chủ trương phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh sự nghiệp CNH,HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, nhằm xây dựng một nước Việt Nam: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.    

     - Đại hội xác định con đường đi lên CNXH ở nước ta là xây dựng đất nước theo con đường XHCN trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lê nin  và tư tưởng Hồ Chí Minh. Xác định mô hình kinh tế tổng quát thời kỳ quá độ là kinh tế thị trường định hướng XHCN.

  - Đại hội đề ra Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm 2001-2010 nhằm đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp.

Đai hội X ( 4-2006)

   - Tổng kết 20 đổi mới, Đại hội khẳng định: Nhận thức về CNXH và  con đường đi lên CNXH ngày càng sáng tỏ; hệ thống luận điểm về công cuộc đổi mới, về xã hội XHCN và con đường đi lên CNXH Ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản.

    - Đại hội tiếp tục khẳng định chủ trương: Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, đưa nước ta sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển, vươn lên trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

    - Đại hội bổ sung thêm 2 đặc trưng của xã hội XHCN. Đó là, xây dựng xã hội :dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minhxây dựng  nhà

1

 


nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dan, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.

      Đại hội XI ( 1-2011)

 - Tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH 10 năm thực hiện Chiến lược kinh tế- xã hội 10 năm ( 2001- 2010), Đại hội khẳng định: Công cuộc đổi mới, CNH,HĐH đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Việt Nam đã ra khỏi tình trạng nước nghèo kém phát triển, trở thành nước có thu nhập trung bình.

- Đại hội xác định mục tiêu tổng quát: Xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Đại hội thảo luận và đưa ra những quyết sách quan trọng, trong đó có các văn kiện: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ( bổ sung và phát triển 2011), Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2011- 2020, Báo cáo Chính trị và Điều lệ Đảng (sửa đổi ).

           *Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ( bổ sung và phát triển năm 2011) đã bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991 ở những điểm sau:

            - Bổ sung đặc trưng về mục tiêu tổng quát: Dân giàu, nước mạnh , dân chủ, công bằng, văn minh.

             - Bổ sung đặc trưng về Nhà nước: có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

               Hai đặc trưng này đã được Đại hội X bổ sung, song điểm mới là đưa cụm từ “ dân chủ” lên trước cụm từ “ công bằng”. Đồng thời, thay từ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản bằng từ do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

             - Điều chỉnh đặc trưng kinh tế

1

 


[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.152.

[2] V.I.Lênin: Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1978, tr.189.

[3] V.I.Lênin: Toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1978, tr.267.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1986, tr.30.

[5] D.H.Pêkin: Những thách thức trên con đường cải cách ở Đông Dương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.36-39.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.390.

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1986, tr.63.

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tập 47, tr.398.

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tập 47, tr.455.

nguon VI OLET