BƠI
LỘI
Giáo viên THPT Hải Đông
Đông Hải – Tiên Yên – Quảng Ninh
Sdt: 0945356119

Lê Hồng Quân
Phần I: Lí thuyết
TRI THỨC CƠ BẢN VỀ BƠI LỘI (4 tiết)
Chủ đề 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ MÔN BƠI LỘI (2 TIẾT)
MỤC TIÊU
Sau khi học xong chủ đề này sinh viên phải mô tả được:
- Nguồn gốc ra đời môn Bơi lội,
- Lịch sử phát triển môn Bơi lội ở trong và ngoài nước.
- Phân loại bơi lội, ý nghĩa, tác dụng của môn Bơi lội.
Các nội dung này nhằm giúp sinh viên có được cách nhìn khái quát về môn
Bơi lội, đồng thời qua đó tăng thêm sự yêu thích tập luyện bơi và có được
các kiến thức để giáo dục học sinh và mọi người yêu thích Bơi lội.
THÔNG TIN CƠ BẢN
1. Tìm hiểu sơ lược về môn Bơi lội
Bơi lội là một là một môn thể thao dưới nước, do tác động của sự vận động toàn thân, đặc biệt là đạp chân, quạt tay trong nước mà con người có thể chuyển động vượt được quãng đường dưới nước với tốc độ khác nhau.
Bơi lội được ra đời trong quá trình lao động sản xuất và chống lại thiên tai, địch hoạ của loài người. Nó luôn có mối quan hệ chặt chẽ với sự sinh tồn, sản xuất và sinh hoạt của loài người, phát triển và đổi mới cùng với sự hình thành và phát triển của xã hội loài người.
Môn Bơi lội có nội dung rất rộng. Hiện nay Bơi lội trong các cuộc thi đấu ở
Đại hội Olympic và giải vô địch Bơi lội thế giới bao gồm bốn phần: bơi thể
thao, nhảy cầu, bóng nước và bơi nghệ thuật. Bốn phần này trên thực tế đã
sớm trở thành bốn môn thi đấu độc lập.
Hình thức bơi trong môn Bơi lội rất đa dạng, phong phú. Các hình thức bơi
lội lưu truyền trong dân gian có: bơi tô tô, bơi chải, bơi đứng, bơi nghiêng
và một số cách bơi không có luật lệ khác. Do kĩ thuật của các kiểu bơi trên
không hợp lí, tạo ra tốc độ chậm lại tốn sức nên trong thi đấu bơi dần dần
đã bị thải loại.
Hiện nay các loại hình hoạt động bơi lội đang được phát triển rộng rãi, gồm
các loại sau:
1.1. Bơi thể thao
Bơi thể thao chính là các kiểu bơi hiện đại được sử dụng trong thi đấu bơi ở
các Đại hội Thể dục Thể thao trong nước và quốc tế. Trong số các kiểu bơi
thể thao có kiểu do bắt chước cách bơi của một động vật nào đó mà được
đặt theo tên của động vật đó. Ví dụ như bơi ếch, bơi bướm, bơi đen - phin.
Có kiểu bơi lại được đặt tên dựa vào tư thế khi bơi như bơi ngửa, bơi trườn
sấp.
Cùng với sự phát triển của bơi thể thao, nội dung thi đấu bơi thể thao hiện
nay cũng rất phong phú, bao gồm: bơi trườn sấp, trườn ngửa, bơi ếch và bơi
bướm. Đồng thời tổ hợp cả bốn kiểu bơi (bơi hỗn hợp cá nhân và tiếp sức
hỗn hợp) cũng đã trở thành các môn thi đấu chính thức.
Hiện nay, luật thi đấu bơi chỉ công nhận kỉ lục thi đấu ở bể bơi 50m tiêu
chuẩn. Để thích ứng với yêu cầu thi đấu và huấn luyện, mỗi năm về mùa
đông còn thi đấu bơi Quốc tế ở bể 25m. Do thi đấu ở bể bơi ngắn có lợi cho
việc kiểm tra hiệu quả huấn luyện mùa đông, nâng cao kĩ thuật quay vòng
nên năng lực thi đấu này ngày càng được nhiều nước trong khu vực và thế
giới coi trọng.
Bảng 1. Các môn thi đấu bơi lội

Kiểu bơi

Cự li thi đấu

Ghi chú

Nam

Nữ

Bơi tự do (trườn sấp)

50m, 100m
200m, 400m
800m, 1500m

50m, 100m
200m, 400m
800m, 1500m

Đại hội Olympic không thi đấu
800m tự do nam và 1500m tự
do nữ.

Bơi trườn ngửa

100m, 200m

100m, 200m

Các nhóm tuổi (thanh thiếu
niên, nhi đồng có thi đấu cự li
50m)

Bơi ếch

100m, 200m

100m, 200m

Nội dung thi đấu như trên

Bơi bướm

100m, 200m

100m, 200m

Nội dung thi đấu như trên

Bơi hỗn hợp cá nhân

200m, 400m

200m, 400m

Bướm, ngửa, ếch, trườn

Tiếp sức bơi tự do

4 x 100m,
4 x 200m

4 x 100m,
4 x 200m

Đại hội Olympic không thi đấu
tiếp sức 4 x 200m nữ.

Tiếp sức hỗn hợp
(Bốn kiểu bơi)

4 x 100m

4 x 100m

Bướm, ngửa, ếch, trườn
1.2. Bơi thực dụng
Bơi thực dụng bao gồm bơi đứng, bơi nghiêng, bơi ếch, bơi ngửa, lặn, kĩ
thuật cứu đuối trong nước, bơi vũ trang, bơi vượt sông, biển… Sự phân biệt
bơi thể thao với bơi thực dụng chỉ là tương đối. Bơi thực dụng là các hoạt
động bơi trực tiếp phục vụ cho lao động sản xuất, quân sự và sinh hoạt
hàng ngày. Ví dụ như trong bơi thực dụng cũng có lúc sử dụng bơi trườn
ngửa để cứu đuối hoặc trong bơi thư giãn cũng có lúc người ta dùng kiểu
bơi ngửa, mặc dù các kiểu bơi đó không nằm trong bơi thực dụng.
1.3. Bơi thể thao loại đặc biệt (đặc chủng)
- Bơi cự li dài: Mục đích kiểu bơi này nhằm lập ra các kỉ lục về thời gian và
độ dài. Ví dụ vận động viên người Ý đã lập kỉ lục bơi 225km với thời gian
100 giờ. Ở Anh còn lập thành Liên đoàn bơi dài.
- Bơi vượt eo biển: Năm 1875, vận động viên M.Weibe của Anh Quốc đã
bơi vượt qua eo biển Măng xơ có độ rộng (chiếu theo đường thẳng) 20,51
hải lí, hết 21 giờ 45 phút. Từ những 1950 trở lại đây, bơi vượt eo biển đã
thu hút đông đảo các vận động viên tham gia, trong đó có cả các nữ vận
động viên.
- Môn lặn tốc độ: Môn lặn tốc độ còn gọi là môn thể thao dưới nước,
thường tiến hành thi đấu các môn: lặn vòi hơi mắt kính chân vịt cự li 100m,
200m, 400m, 800m, 1500m, 1850m và tiếp sức 4 x 100m, 4 x 200m, cho cả
nam và nữ, lặn nín thở (đội mũ bịt mặt mang chân vịt) thi đấu cự li 50m,
lặn khí tài (mang bình lặn, mắt kính chân vịt, thi đấu cự li 100m, 400m,
800m)….
1.4. Bơi lội quần chúng
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người và sự nâng cao sức sản xuất,
của cải vật chất của xã hội ngày càng phong phú, nhu cầu của loài người về
sinh hoạt vật chất, văn hoá, vui chơi giải trí cũng không ngừng thay đổi.
Hoạt động bơi lội quần chúng lấy tiêu chí là tăng cường thể chất nhằm làm
phong phú cuộc sống tinh thần như bơi hồi phục sức khoẻ, bơi thư giãn, trò
chơi dưới nước, bơi tăng cường sức khoẻ, bơi giảm béo… đã phát triển
mạnh mẽ ở nhiều nơi trên thế giới và đã trở thành một bộ phận cấu thành
của môn Bơi lội hiện đại.
Do loại hình bơi lội này không đòi hỏi kĩ thuật cao, tốc độ nhanh, đồng thời
lại có hình thức hoạt động đơn giản, đa dạng, do vậy loại bơi này đã ngày
càng được nhiều người yêu thích. Loại hình bơi lội đại chúng ngày càng
được phát triển nhanh chóng, trở thành một bộ phận quan trọng của môn
bơi lội hiện đại.
Hiện nay bơi lội được phân loại theo biểu đồ sau.
2. Nguồn gốc của môn bơi lội
Người ta biết rằng bơi lội đã ra đời cách đây hàng nghìn năm ở La Mã, Hy
Lạp, Ai Cập, Trung Quốc. Trong xã hội nguyên thuỷ, con người sinh sống
chủ yếu bằng nghề săn bắn, trong đó có săn các động vật ở dưới nước.
Trong các di chỉ ở thời kì đồ đá, người ta đã phát hiện thấy các công cụ
giống như các tên bắn cá, được khắc chạm trên các đồ đá có niên đại cách
đây trên 5000 năm. Điều này nói lên loài người lúc đó sống ở các triền núi
ven sông, dựa vào săn bắn động vật trên mặt đất và bắt cá ở dưới nước để
mưu sinh.
2.1. Sự phát triển Bơi lội Olympic hiện đại
Năm 1896 khi tiến hành Đại hội Olympic hiện đại lần thứ nhất ở Aten Hi
Lạp, Bơi lội là một môn được đưa vào chương trình thi đấu chính thức. Khi
đó, chỉ thi đấu 3 cự li bơi tự do: 100m, 500m, 1000m. Vận động viên
Hungari là Ha-ốt đã giành danh hiệu vô địch cự li 100m tự do với thành
tích 1’22”2. Sau đó cứ 4 năm một lần đại hội được tổ chức và sau mỗi lần
đại hội một số cự li và kiểu bơi lại được đưa thêm vào chương trình thi đấu.
Năm 1908, khi tổ chức Đại hội Olympic lần thứ IV tại Luân Đôn (Anh) đã
thành lập Liên đoàn bơi lội nghiệp dư Quốc tế, thẩm định kỉ lục thế giới,
các cự li bơi, đồng thời xây dựng Luật thi đấu bơi Quốc tế.
Năm 1912, trong Đại hội Olympic lần thứ V tổ chức ở Thuỷ Điển, bơi lội
nữ và bơi tiếp sức 4 x 100m tự do mới được đưa vào chương trình của Đại
hội. Từ Đại hội Olympic lần thứ nhất đến lần thứ năm, các đội bơi Hungari,
Anh, Mĩ, Đức, Úc lần lượt giành được vô địch.
Olympic lần thứ VI phải hoãn lại do chiến tranh thế giới lần thứ nhất.
Từ Olympic lần thứ VII đến lần thứ IX đội Bơi Mĩ giành ưu thế.
Olympic lần thứ X, XI vận động viên nam Nhật Bản chiếm ưu thế, vận
động viên nữ của Mĩ, Hà Lan tương đối nổi bật.
Đại chiến Thế giới lần thứ hai khiến cho Olympic bị gián đoạn hai đại hội.
Olympic lần thứ XIV, Mĩ giành 8/11 chức vô địch bơi của đại hội.
Đại hội Olympic lần thứ 15, Mĩ giành 4/6 danh hiệu vô địch bơi nam,
Hungari giành 4/5 chức vô địch bơi nữ. Sau Olympic lần thứ 15, năm 1952
Liên đoàn bơi lội Quốc tế đã quyết định tách bơi bướm khỏi bơi ếch. Từ đó
bơi thể thao đã phát triển thành 4 kiểu bơi.
Olympic lần thứ XVI, đội bơi của Úc giành 8/13 danh hiệu vô địch ở
môn bơi
Từ năm 1970 trở đi, đội bơi của Cộng hoà Dân chủ Đức (cũ) đã vượt lên.
Năm 1973 trong giải vô địch bơi thế giới lần thứ nhất và trong Đại hội
Olympic lần thứ XXI, đội Cộng hoà Dân chủ Đức đều giành được 11 danh
hiệu vô địch Bơi lội nữ. Đại hội Olympic Bơi lội năm 1980 ở Matxcơva
(Liên Xô cũ) và năm 1984 ở Los Angeles (Mĩ), do sự bất đồng ở một số
nước, hai đại hội này không có đủ các vận động viên xuất sắc tham gia nên
hai đại hội này không phản ánh một cách toàn diện thành tích môn bơi.
Năm 1988 tại Đại hội Olympic lần thứ 24 ở Seun (Hàn Quốc), đội bơi
Cộng hoà Dân chủ Đức đã giành chức vô địch ở 10 cự li của nữ. Tính đến
năm 2000 đã tổ chức được 27 Đại hội Olimpic, tổng số huy chương vàng
môn bơi lội mà các nước đã giành được qua các Đại hội Olympic rất nhiều
Trong hai mươi năm trở lại đây, số lượng vận động viên tham gia thi đấu
bơi ngày một tăng lên, thiết bị dụng cụ, bể bơi cũng ngày một hiện đại hoá,
trong tuyển chọn giảng dạy và huấn luyện vận động viên bơi đã sử dụng
các khoa học kĩ thuật một cách rộng rãi. Vì vậy, trình độ kĩ thuật của vận
động viên bơi thế giới, thành tích ở các cự li bơi đã nâng cao nhanh chóng,
các kỉ lục bơi thế giới luôn được công phá. Thành tích bơi 100m tự do nam
đã vượt ngưỡng 49 giây.
Thời gian bốn năm mới tổ chức thi đấu bơi Olympic một lần đã không còn
đáp ứng được nhu cầu phát triển môn bơi lội của thế giới. Để phát triển
môn bơi lội của thế giới tốt hơn và thúc đẩy sự giao lưu về kĩ thuật. Liên
đoàn Bơi Quốc tế còn quyết định 2 năm tổ chức một lần cúp Bơi thế giới.
Cúp Bơi thế giới lần đầu tiên tổ chức tại Tôkyô (Nhật Bản), tháng 9/1979.
Như vậy 2 năm đều có một lần thi đấu Bơi lội thế giới.
2.2. Lịch sử phát triển môn bơi lội ở Việt Nam
Về lịch sử môn Bơi lội ở nước ta, cho thấy đến nay vẫn chưa có được các
chứng cứ để khẳng định niên đại ra đời môn Bơi lội ở Việt Nam.
Tuy nhiên, theo các tư liệu cho thấy: phong trào bơi lội Việt Nam có bề dày
lịch sử trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước và xây dựng truyền
thống thượng võ dân tộc.
Năm 938 trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền đại thắng quân Nam Hán,
tướng giặc Hoàng Thao phải chết đuối. Tháng 3 năm Mậu tí (1288) cũng
trên dòng sông lịch sử này. Trần Hưng Đạo phá tan quân Nguyên, Yết Kiêu
dùng tài bơi lội bắt sống tướng giặc mang về. Thời Lê Lợi đánh quân Minh,
danh tướng Trịnh Khả, Bùi Vị đã từng đội cỏ đánh đắm thuyền địch và biết
bao những chiến công oanh liệt khác của ông cha ta trên những dòng sông
lịch sử của đất nước anh hùng mà trong đó bơi lội đã góp một phần đáng
kể.
Đến năm 1928 khi khánh thành bể bơi Thủ Đức – Gia Định các võ quan
Hải quân Pháp tiến hành thi đấu bơi, một số người Việt Nam quan sát học
được cách bơi cận đại của người Pháp, đồng thời truyền bá cho những
người yêu thích bơi lội ở Bắc, Trung và Nam. Với óc sáng tạo và tính cần
cù trong tập luyện, trong thời gian từ năm1928 –1945 hầu hết các kĩ lục bơi
của Đông Dương do người Pháp nắm giữ đã bị các vận động viên Việt Nam
đoạt trở lại
Trong những năm kháng chiến chống Pháp, bơi thể thao hầu như không
được phát triển mà tập trung vào bơi thực dụng phục vụ sản xuất và chiến
đấu.
Năm 1958 Hội Bơi lội Việt Nam được thành lập. Đến năm 1962 hầu hết
các kỉ lục Đông dương cũ đã bị phá.
Năm 1966 (Đại hội Thể dục thể thao các nước mới trỗi dậy), đoàn Bơi lội
Việt Nam đã giành được một huy chương vàng, ba huy chương bạc, ba huy
chương đồng ở Đại hội tiểu GANEFO châu Á. Năm 1980, lần đầu tiên,
đoàn bơi lội Việt Nam đi tham dự Đại hội Olympic lần thứ 22 tổ chức tại
Maxcơva, đã đánh dấu thời kì hội nhập của bơi thể thao Việt Nam với
phong trào bơi thể thao thế giới.
Trong những năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự
nghiệp xây dựng nền thể dục thể thao nhân dân, khoa học và tiên tiến,
phong trào bơi lội quần chúng và thể thao nước ta có nhiều thành tựu mới.
Hiện nay rất nhiều người lớn và trẻ em tham gia tập luyện bơi lội để rèn
luyện sức khoẻ, nhiều bể bơi mới được xây dựng, nhiều trung tâm huấn
luyện được thành lập. Do vậy, đến năm 2001, các kỉ lục Bơi quốc gia được
nâng cao. Tấm huy chương vàng đầu tiên ở SEA games XXIII (2005) tổ
chức ở Philipin đã đánh dấu sự khởi sắc của Bơi lội Việt Nam. Tuy nhiên,
nhìn chung thành tích của bơi lội Việt Nam còn khoảng cách khá xa so với
khu vực. Bởi vậy, chúng ta cần phải phấn đấu rút ngắn được khoảng cách
đó.
Trong lịch sử phát triển môn Bơi lội ở Việt Nam cũng cần phải ghi nhận sự
đóng góp của phong trào bơi lội ngành Giáo dục và Đào tạo. Trong suốt
quá trình phát triển của môn bơi lội nước ta, bơi lội được phát triển rộng rãi
trong học sinh sinh viên. Phong trào bơi lội trong học sinh, sinh viên chẳng
những đã góp phần giáo dục con người phát triển toàn diện mà còn góp
phần nâng cao thành tích thể thao thành tích cao
Trong những đóng góp đó, phải kể đến thành tích Đội tuyển Bơi của Bộ
Giáo dục và Đào tạo, một đơn vị đã nhiều lần giành được thứ hạng cao
trong các giải bơi toàn quốc.
Trong những năm gần đây, Bộ Giáo Dục và Đào tạo đã tổ chức thường
xuyên các giải Bơi cho học sinh phổ thông và sinh viên Đại học. Các cuộc
thi đấu đã tạo nên một hoạt động văn hoá lành mạnh, một phong trào rèn
luyện bơi lội sôi nổi trong học sinh, sinh viên, góp phần nâng cao thể chất
và chất lượng học tập trong nhà trường.
3. Ý nghĩa của hoạt động bơi lội
3.1. Ý nghĩa đối với việc tăng cường thể chất
Khi bơi, cơ thể ở tư thế nằm ngang, dưới tác động của áp lực nước, máu
lưu thông dễ dàng hơn. Thêm vào đó, khi bơi tần số mạch tăng cao sẽ làm
cho lưu lượng máu tăng lên. Nếu tập bơi thường xuyên và lâu dài, thể tích
tim to lên sẽ làm cho tim co bóp mạnh hơn, thành cơ tim dày lên, tính đàn
hồi tốt hơn, tần số mạch yên tĩnh giảm chậm. Mạch yên tĩnh của vận động
viên bơi thường chỉ ở 40-60 lần/phút. Trong khi đó người bình thường là
70-80 lần/phút.
Tập luyện bơi còn làm tăng hồng cầu, từ đó làm tăng khả năng hấp thụ oxy
cho cơ thể. Theo số liệu nghiên cứu, hàm lượng hồng cầu trong 100ml máu
của nam vận động viên bơi có tới 14-16 gram (người bình thường là 12-15
gram). Ở nữ vận động viên bơi là 13-15 gram (người bình thường là 11-14
gram).
Kiên trì tập luyện bơi lội không những làm cho chức năng hệ thống thần
kinh, hệ thống tuần hoàn và hệ hô hấp được cải thiện, mà còn có thể làm
cho sức mạnh, tốc độ, sức bền, mềm dẻo, tính nhịp điệu của cơ thể được
phát triển. Đặc biệt ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở, các em đang ở đỉnh
cao của tuổi phát dục, việc tập luyện bơi lội sẽ giúp cho các em phát triển
tốt hơn về thể chất về tinh thần, tạo ra nền tảng sức khoẻ để học tập tốt văn
hoá.
Tập luyện bơi lội còn giúp các em phát triển ý chí, lòng dũng cảm, tinh thần
vượt khó khăn, tinh thần đồng đội, ý thức tổ chức kỉ luật và những phẩm
chất tâm lí khác.
Bơi lội còn là một hoạt động thể dục thể thao có lợi cho những người câm
điếc và khuyết tật khác. Đối với những người có cơ thể gầy yếu và những
người mắc các bệnh mãn tính khác nhau, tập luyện bơi lội sẽ là một biện
pháp chữa bệnh có hiệu quả.
Bơi lội còn được xác định là một trong những hoạt động vui chơi giải trí
được mọi người yêu thích nhất của thế kĩ XXI, nó sẽ tác dụng tích cực làm
phong phú cuộc sống văn hoá tinh thần cho loài người.
3.2. Giá trị thực dụng của bơi lội
Bơi lội là một hoạt động có giá trị thực dụng rất cao trong lao động sản xuất
và xây dựng. Rất nhiều công việc tiến hành dưới nước như xây dựng các
công trình dưới nước, phòng chống bão lũ, giao thông và đánh cá trên sông
biển... đều đòi hỏi phải nắm vững kĩ năng bơi lội mới có thể khắc phục
được trở ngại của nước, nhằm hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ lao động sản
xuất và xây dựng. Cũng cần chỉ ra rằng, nắm được kĩ thuật bơi và cứu đuối
sẽ có ý nghĩa to lớn đối với việc tự cứu và cứu vớt những người bị đuối
nước.
Trong quốc phòng, bơi lội là một khoa mục huấn luyện quân sự cho bộ đội
và dân quân tự vệ. Thường xuyên tập luyện bơi có thể rèn luyện ý chí, tăng
cường tính tổ chức kỉ luật, bồi dưỡng tinh thần anh dũng ngoan cường và
sức chịu đựng gian khổ, góp phần bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
3.3. Ý nghĩa thi đấu của bơi lội
Bơi là một môn thể thao cơ bản, là một trong ba môn có nhiều bộ huy
chương nhất các Đại hội Thể dục thể thao lớn ở khu vực, châu lục và thế
giới. Với 34 Bộ huy chương, môn Bơi lội có số bộ huy chương chỉ đứng
sau môn Điền kinh. Trong những năm gần đây, những cuộc thi đấu lớn
ngày càng nhiều, ngoài Đại hội Olympic, còn có các cuộc thi đấu lớn như:
Giải vô địch Bơi lội mùa hè, giải Vô địch Bơi lội thế giới mùa đông, Đại
hội Thể dục thể thao các châu lục, Đại hội Thể dục thể thao khu vực, Đại
hội Thể dục thể thao sinh viên, Đại hội Thể dục thể thao của mỗi quốc gia...
đã thu hút hàng chục vạn vận động viên ở mọi lứa tuổi tham gia. Những
hoạt động thi đấu này chẳng những là động lực nâng cao thành tích thể thao
mà còn là chiếc cầu hữu nghị nối liền giữa các dân tộc. Vì vậy phát triển
mạnh mẽ môn Bơi lội, không ngừng nâng cao thành tích bơi có ý nghĩa góp
phần nâng cao vị thế Thể dục thể thao, vị thế chính trị của nước ta trong
khu vực, châu lục và thế giới.
3.4. Ý nghĩa của bơi lội đối với trẻ em
3.4.1. Vui chơi giải trí trong môi trường nước và bơi lội là yếu tố hấp dẫn và yêu thích của trẻ em
Như chúng ta đã biết, nước chiếm 3/4 diện tích trái đất. Không có nước mọi
sinh vật và con người không thể tồn tại được.
Nước làm cho con người phong phú thêm lên nhờ các hoạt động thú vị
trong đó. Nhưng nước cũng gây nhiều hiểm hoạ cho mạng sống của con
người. Theo thống kê của Hội Cứu sinh quốc tế, năm 1980 trên thế giới có
4.600 người chết đuối. Mùa lũ năm 2001 ở nước ta có trên 200 người chết
đuối, trong đó 90% là trẻ em ở đồng bằng sông Cửu long bị chết đuối.
Đối với trẻ em mối quan hệ với nước khác người lớn. Do đặc điểm hiếu
động, háo hức, mới lạ với những điều mới lạ, có 80% trẻ em ham thích vui
chơi tắm mát, bơi lội trong nước. Đặc biệt là mùa hè nóng bức trẻ em rất
thích vui chơi tắm mát ở trên sông nước, quên cả nguy hiểm và mệt mỏi.
Theo kết quả nghiên cứu tâm lí trẻ em, hoạt động bơi lội đem lại nhiều cảm
xúc. Môi trường nước và hoạt động bơi lội giúp cho quá trình phát triển
sinh học của cơ thể trẻ em một cách thuận lợi, đồng thời cũng hình thành ở
trẻ em những hưng phấn hoạt động như giao tiếp xã hội phù hợp với lứa
tuổi.
3.4.2. Bơi lội là phương tiện rèn luyện sức khoẻ, phát triển thể chất và
tâm lí tốt nhất cho trẻ em
Môi trường nước kích thích mạnh mẽ tới hoạt động thần kinh. Vì không có
điểm tựa cố định nên đòi hỏi phải điều chỉnh tâm lí và nỗ lực thể lực để
đảm bảo nổi và chuyển động trong nước. Mặt khác, nước có tác dụng xoa
bóp da, làm tăng hoạt động tuần hoàn, lưu thông máu. Nước hấp thụ nhiệt
gấp 4 lần không khí, do đó làm tăng cường quá trình trao đổi chất của cơ
thể.
Vận động bơi lội hầu như huy động cao hệ cơ bắp của toàn thân, đặc biệt là
hệ cơ bắp tham gia vào quá trình hô hấp. Nhờ các yếu tố trên mà trẻ em tập
bơi lội thường xuyên có vóc dáng thon và cao, thể hình cân đối, có quá
trình hưng phấn ức chế của hệ thần kinh thăng bằng và sự nỗ lực ý chí rất
cao.
Trẻ em biết bơi lội, người đời cho là có phúc vì: Nó tạo cho trẻ em niềm
hạnh phúc và tự do sử dụng môi trường nước mà thiên nhiên ưu đãi cho con
người. Biết bơi trẻ em như có thêm đôi mái chèo để thoát hiểm khi nước đe
doạ, tự cứu mình và cứu bạn khi có sự cố dưới nước.
Vì lợi ích trên mà nhiều nước trên thế giới rất quan tâm tổ chức cho trẻ em
vui chơi và học tập bơi lội dưới nước ở tuổi nhỏ. Nhà nước đảm bảo phổ
cập bơi lội như là công tác chăm sóc và bảo vệ tính mạng trẻ em. Công việc
đó cũng được xem là nhiệm vụ của nhà nước, gia đình và toàn xã hội.
3.4.3. Bơi lội là một môn thể thao của tuổi trẻ
Do tính đặc thù của nó, nên bơi lội được gọi là môn thể thao của tuổi trẻ,
bởi lẽ cơ thể trẻ em có khả năng nổi trong nước nhiều hơn so với người lớn,
thần kinh trẻ em linh hoạt, nỗ lực thể lực để thắng lực cản của nước phù
hợp với năng lực thể chất của trẻ em, vận động viên trẻ thích nghi với
lượng vận động thể lực nhanh. Vì lẽ đó trong danh sách kỉ lục thế giới,
châu lục và quốc gia về bơi lội xuất hiện một số tên tuổi của vận động viên
thiếu niên, chẳng hạn M.Coxeva (Nga) lập kỉ lục thế giới 200m ếch lúc cô
14 tuổi. Ở Việt Nam nhiều vận động viên trẻ như Võ Trần Trường An,
Nguyễn Ngọc Anh, Lê Thị Lệ... là vận động viên vô địch quốc gia.
Vì vậy, nhiều nước trên thế giới và ở Việt Nam việc chăm lo đào tạo vận
động viên trẻ để nền thể thao bơi lội phát triển vững chắc và bền vững là
một điều rất cần thiết.
NHIỆM VỤ
Nhiệm vụ 1: Hoạt động toàn lớp.
- Sinh viên nghe giáo viên phân tích, giảng giải kết hợp với đàm thoại.
Câu hỏi phân tích và đàm thoại.
1. Tìm hiểu sơ lược về môn Bơi lội
2. Nguồn gốc ra đời của môn Bơi lội ở trên thế giới và ở Việt Nam.
3. Ý nghĩa của bơi lội đối với thiếu niên.
Nhiệm vụ 2: Sinh viên tự nghiên cứu tài liệu
- Sinh viên tự nghiên cứu tài liệu theo sự hướng dẫn của giáo viên.
Nhiệm vụ 3: Thảo luận theo tổ, nhóm. Câu hỏi thảo luận.
1. Bơi lội được phân làm mấy loại? Vẽ sơ đồ.
2. Tìm hiểu thành tích của Bơi lội qua các Đại hội thể thao Đông Nam Á
3. Tại sao môn Bơi lội lại trở thành môn học bắt buộc đối với học sinh Tiểu
học, trong qúa trình thảo luận sinh viên có thể nêu các câu hỏi yêu cầu
giảng viên giải đáp
Nhiệm vụ 4: Hoạt động toàn lớp.
- Đại diện các nhóm báo cáo kết quả thảo luận và góp ý kiến.
- Giáo viên nhận xét, đánh giá và rút ra kết luận.
ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG
1. Đánh dấu (x) vào các ô thích hợp phản ánh sự phân loại bơi lội.
1.1. Bơi lội được phân ra?
F a. Bơi thể thao
F c. Bơi đặc chủng
F b. Bơi thực dụng
F d. Bơi vũ trang
F đ. Bơi bán vũ trang.
1.2. Bơi thể thao được phân ra?
F a. Bơi ếch
F d. Bơi bướm
F f. Bơi chân chạm đất
F b. Bơi trườn
F c. Bơi ngửa
F e. Bơi tiếp sức
F đ. Bơi hỗn hợp
F h. Bơi mang vác
1.3. Hiện nay tổng số các cự li thi đấu được công nhận lỉ lục thế giới?
F a. 31 cự li
F b. 34 cự li
F c. 40 cự li
1. 4. Kỉ lục thi đấu được công nhận ở bể bơi có kích thước?
F a. 25m
F c. 75m
F b. 50m
F d. 100m
1.5. Bơi lội thực dụng gồm có các kiểu?
F a. Bơi nghiêng
F c. Bơi đứng
F b. Lặn
F d. Lội dưới nước
2. Phản ánh sự ra đời của Bơi lội thế giới và Việt Nam thông
qua việc đánh dấu (x) vào các ô tương ứng sau.
2.1. Bơi lội xuất hiện đầu tiên ở?
F a. La Mã
F b. Hi Lạp
F c. Ai Cập
F d. Trung Quốc
F đ. Liên Xô
2.2. Đến năm 2000 thế giới đã tổ chức được bao nhiêu Đại hội Olimpic?
F a. 30 Đại hội
F b. 28 Đại hội
F c. 27 đại hội
2.3. Đại hội lần đầu tiên tổ chức ở?
F a. Aiten
F b. Luân Đôn
F c. Beclin
2.4. Bơi lội Việt Nam ra đời?
F a. Rất sớm
F b. Bình thường
F c. Chưa xác định
2.5. Thành tích Bơi lội Việt Nam hiện nay so với thế giới?
F a. Tốt
F b. Bình thường:
F c. Kém
2. 6. Tại Đại hội SEA games XXIII ở Philippin, Bơi lội Việt Nam giành
được bao nhiêu huy chương vàng?
F a. 2 huy chương
F b. 3 huy chương
F c. 1. Huy chương
2. 7. Ngành Giáo dục và Đào tạo trong những năm qua có đóng góp thành
tích vào phong trào phát triển Bơi lội không?
F a. Có
F b. Rất ít
F c. Không có
3. Đánh dấu (x) vào các ô tương ứng phản ánh tác dụng của
môn Bơi lội?
3.1. Bơi lội có tác dụng đối với?
F a. Phát triển thể chất
F b. Lao động sản xuất
F c. Đối với thành tích thể thao
F d. Làm cho thiếu niên quên học tập
3.2. Ý nghĩa của Bơi lội đối với trẻ em.
3.2.1. Môi trường nước có tác dụng đối với trẻ em?
F a. Đem lại nhiều cảm xúc
F b. Có lợi cho sự phát triển sinh học
F c. Tăng cường hoạt động giao tiếp F d. Ngại giao tiếp
3.2.2. Bơi lội là phương tiện phát triển thể lực cho thiếu niên?
F a. Có tác dụng xoa bóp
F b. Tăng khả năng hoạt động của hệ tuần
hoàn
F c. Giảm sự lưu thông máu
F d. Phát triển hệ hô hấp
3.2.3. Lứa tuổi thiếu niên có đạt được thành tích Bơi lội?
F a. Có đạt được
F b. Rất ít
F c. Không đạt được
Chủ đề 2
NHỮNG TRI THỨC CƠ BẢN VỀ KĨ THUẬT BƠI (2 TIẾT)
MỤC TIÊU
Sau khi học xong chủ đề này sinh viên phải:
- Mô tả được căn cứ để xác định cấu trúc kĩ thuật bơi, đặc điểm giải phẫu
sinh lí chi phối kĩ thuật bơi
- Mô tả khái niệm về kĩ thuật bơi hợp lí, thông qua đó giúp cho sinh viên
hiểu được bản chất, nguyên lí về kĩ thuật bơi. Từ đó, vận dụng vào việc học
tập, nghiên cứu và nắm vững kĩ thuật bơi hợp lí. Đồng thời, tạo ra khả năng
sáng tạo kĩ thuật bơi cho người học.
THÔNG TIN CƠ BẢN
1. Những đặc điểm cơ bản về kĩ thuật bơi
Một trong những yếu tố quyết định đến thành tích của vận động viên đó là
kĩ thuật. Con người có khả năng thực hiện mọi động tác khác nhau. Cấu
trúc động tác đó đầu tiên phụ thuộc vào nhiệm vụ mà con người nhằm giải
quyết, cấu trúc động tác không những là hình thức bên ngoài của động tác
như phương hướng và tốc độ động tác của các thành phần khác nhau của cơ
thể, sự phối hợp các động tác chân, tay, mình đầu v.v… mà còn bao gồm
các quá trình căng thẳng và thả lỏng cơ bắp, sự thay đổi các mức độ dùng
sức, thứ tự và tính chất các qúa trình diễn biến phức tạp trong các cơ quan
nội tạng, đảm bảo cho việc thực hiện các động tác; sự xuất hiện và mất đi
của các quá trình hưng phấn trong hệ thần kinh trung ương cũng như tính
chất các quá trình biến đổi sinh hoá trong các cơ quan của cơ thể v.v…
Khi quan sát bơi lội, ta thấy rằng không phải mọi người điều thực hiện
động tác như nhau mà mỗi người thực hiện theo kiểu riêng của mình.
Chẳng hạn một số người khi bơi tay rút khỏi mặt nước, số khác hoàn toàn
không rút tay khỏi mặt nước khi làm động tác chuẩn bị, hoặc một số người
vị trí đầu quá cao, số khác đầu hoàn toàn chìm trong nước v.v… Nói chung
để đạt được mục đích đã định, người ta có thể sự dụng các động tác khác
nhau.
Sự tổng hợp những kiểu, những cách với những tính chất cấu trúc đặt biệt
của nó gọi là kĩ thuật bơi.
Cũng như khi quan sát hai người bơi ta thấy, một người thực hiện động tác chân, tay rất tích cực nhưng cơ thể tiến về trước rất chậm, ngược lại người khác thực hiện động tác chân tay rất nhẹ nhàng, thoái mái mà tốc độ tiến rất nhanh. Kết luận về kĩ thuật, ta có thể nói là người bơi sau có kĩ thuật tốt hơn người bơi trước. Do đó có thể định nghĩa về kĩ thuật bơi một cách đơn giản và dễ hiểu là: Kĩ thuật là “cách” hợp lí nhất để thực hiện động tác có hiệu quả nhất và tiết kiệm được nhiều sức nhất.
Bất cứ kiểu bơi nào, trong mức độ nào cũng phải đảm bảo thực hiện nhiệm
vụ đưa cơ thể tiến về phía trước. Song để thực hiện được nhiệm vụ đó, số
thời gian và năng lượng tiêu hao sẽ khác nhau và phụ thuộc vào từng kiểu
bơi.
Muốn phân biệt và đánh giá kĩ thuật tốt hay xấu, chúng ta phải dựa vào tính
chất cụ thể trong kĩ thuật bơi.
Đồng thời trong quá trình tập luyện để nâng cao thành tích, chúng ta phải
luôn luôn tiếp thu một cách có suy nghĩ các kĩ thuật tiến tiến, cho nên
chúng ta phải có nhận thức đúng đắn và sâu sắc về những đặc điểm cơ bản
của kĩ thuật.
Cơ sở để có nhận thức đúng đắn về những đặc điểm cơ bản của kĩ thuật là:
- Đặc điểm về giải phẫu, cấu trúc hình thể.
- Đặc điểm về sinh lí: trạng thái, chức năng của các cơ quan và hệ cơ quan
trong cơ thể.
- Đặc điểm vật lí: tính chất cơ học trong động tác.
Để đạt được thành tích cao trong bơi lội, bên cạnh việc nâng cao trình độ
huấn luyện còn phải thường xuyên hoàn thiện kĩ thuật bơi, cho nên kĩ thuật
có ý nghĩa đặt biệt quan trọng.
2. Những yếu tố quyết định đến kĩ thuật bơi
Kĩ thuật bơi lội dựa trên các yếu tố sau đây:
- Đặc điểm của môi trường nước.
- Nhiệm vụ cần giải quyết khi bơi.
- Đặc điểm giải phẫu sinh lí của cơ thể người.
2.1. Mục đích, nhiệm vụ bơi lội có ảnh hưởng tới cấu trúc kĩ thuật bơi
Kĩ thuật bơi cần phải phục vụ trước tiên mục đích bơi đã định, chẳng hạn
khi bơi thi đấu, vận động viên phải đạt mục tiêu bơi tốc độ, vì vậy kĩ thuật
bơi thể thao phải cấu trúc thật hợp lí để đảm bảo cho tốc độ bơi nhanh.
Khi bơi cứu đuối thì mục đích bơi vào bờ nhanh là quan trọng để kịp thời
cứu người đuối nước.
Khi bơi vượt sông mang vác khí tài thì kĩ thuật bơi phải tạo độ nổi là chủ
yếu.
Tóm lại: Bên cạnh yêu cầu về tốc độ thì những nhiệm vụ và tình huống bơi
có ảnh hưởng đến cấu trúc kĩ thuật bơi
2.2. Tình huống và hoàn cảnh cụ thể cũng ảnh hưởng tới cấu trúc kĩ
thuật
Ví dụ: điều kiện thi đấu thể thao, vận động viên phải bơi đúng luật như: luật
xuất phát, luật quay vòng, luật bơi trên cự li bơi. Còn trong hoàn cảnh bơi
trên sông nước, người bơi phải làm quen với điều kiện có mặc quần áo,
mang vác khí tài hoặc trong điều kiện nước chảy, sóng lớn thì cũng đòi hỏi
những kĩ thuật phù hợp.
2.3. Tính chất lí học của môi trường nước
Khi bơi trong nước, người bơi phải chịu sức ép của nước, sức ép đó tăng
lên theo chiều sâu của nước. Nước là môi trường lỏng gồm nhiều phần tử,
mỗi phần tử đều có khối lượng, phần tử này chồng lên phần tử kia và dồn
nén các phần tử bên cạnh, đồng thời truyền áp suất ấy xuống dưới và sang
hai bên, nhờ tính chất đó mà nước có lực đẩy từ dưới lên và gây hiện tượng
nổi của vật chất ở trong nước. Theo định luật Ac-si-mét, khi cơ thể chìm
trong nước phải chịu một lực đẩy của nước từ dưới lên, lực đó bằng khối
lượng nước mà cơ thể chiếm chỗ và cường độ của lực được tính theo công
thức:
F = f x V
F: Lực đẩy của nước.
f: Tỉ trọng của nước.
V: Khối lượng nước bị cơ thể chiếm chỗ.
Ví dụ: 1 lít nước ở nhiệt độ 40C nặng 1kg. 1dm3 khối lượng cơ thể phải chịu
một lực đẩy từ dưới lên là 1kg.
Như vậy tỉ trọng của nước và tỉ trọng của cơ thể có liên quan đến độ nổi
của người bơi. Nếu tỉ trọng cơ thể lớn hơn tỉ trọng nước thì cơ thể sẽ bị
chìm, còn nhẹ hơn cơ thể sẽ nổi. Trẻ em có tỉ trọng cơ thể nhỏ nên dễ nổi
hơn người lớn, phụ nữ có lượng mỡ nhiều hơn nên dễ nổi hơn nam giới.
Khi hít vào sâu, con người có khả năng nổi nhiều hơn khi ta thở ra. Khi
nằm trong nước thì bộ phận thân trên nổi nhiều hơn phần chân. Tất cả
những hiện tượng đó cần được xem xét khi cấu trúc kĩ thuật bơi.
Lực cản của nước có ảnh hưởng tới kĩ thuật bơi. Nước là chất lỏng và rất
linh động. Mỗi phần tử nước đều có khối lượng nhất định, khi chuyển động,
các phần tử đều sinh ra lực ma sát lẫn nhau, nếu nước có độ đậm đặc cao thì
lực ma sát sẽ lớn và do đó lực cản cũng lớn. Ví dụ, nước biển có lực cản
lớn hơn nước ngọt.
Khi nghiên cứu quy luật về lực cản của môi trường nước đến người bơi,
người ta tìm ra quy luật lực cản như sau: Lực cản ngược hướng tiến của
người bơi gọi là lực cản tổng hợp, được tính bằng công thức:
V2
F = KS C
2
Trong đó:
F: Đại lượng lực cản của nước.
K: Độ đậm đặc của nước.
S: Tiết diện cơ thể người bơi.
V: Tốc độ chuyển động của cơ thể.
C: Hệ số lực cản phụ thuộc vào hình dáng và bề mặt của cơ thể.
Như vậy lực cản của nước tác động vào người bơi phụ thuộc vào cả 5 yếu
tố trên, đặc bệt là tốc độ bơi càng lớn thì lực cản càng lớn, độ đậm đặc của
nước càng lớn thì lực cản càng lớn, hình dáng và bề mặt của quần áo có
nhiều vật cản thì lực cản càng lớn.
Để làm giảm lực cản của nước khi bơi, cần chú ý điều chỉnh tư thế thân
người để làm sao có góc bơi nhỏ nhất, vì nếu góc bơi càng lớn thì lực cản
càng lớn. Nếu góc bơi bằng không thì lực cản nhỏ nhất.
Tuy nhiên, cũng nhờ tính chất cản của nước mà con người có điểm tựa làm
động tác hiệu lực để tạo những tốc độ bơi cần thiết. Ví dụ: khi làm động tác
hiệu lực quạt tay, đập chân, người bơi tìm được áp lực cản của nước để bám
đẩy và kéo nước, để tạo phản lực đẩy người về phía trước. Trên thực tế
càng tạo được áp lực lớn của nước vào lòng bàn tay, bàn chân thì hiệu lực
động tác càng cao.
Khi bơi, ngoài lực cản của chính diện, người bơi còn chịu chi phối của
nhiều lực cản khác như: lực cản do ma sát của dòng nước chảy tác động
vào da, lực cản do sóng gây ra, lực cản do thay đổi áp suát của vùng nước ở
đầu và sau chân gây ra khi bơi, vì những lẽ đó nên tốc độ bơi bao giờ cũng
chậm hơn so với tốc độ chạy trên cạn.
3. Đặc điểm giải phẫu sinh lí cơ thể ảnh hưởng đến kĩ thuật bơi
3.1. Ảnh hưởng đặc điểm giải phẩu cơ thể người đối với kĩ thuật bơi
* Hình thái cơ thể ảnh hưởng tới kĩ thuật bơi.
Trong quá trình nghiên cứu trên cơ thể con người, các nhà khoa học đã cho
rằng: Trọng lượng cơ thể lớn, chiều cao thấp sẽ làm cho diện cản của cơ thể
tăng lên, từ đó tạo khó khăn cho việc nắm bắt và nâng cao thành tích bơi.
Cánh tay ngắn, vai hẹp, độ rộng bàn tay, bàn chân nhỏ, cũng sẽ làm cho
người bơi khó nắm bắt kĩ thuật và nâng cao thành tích bơi.
Sở dĩ như vậy là do các chỉ số hình thái cơ thể này sẽ làm ảnh hưởng tới
biên độ quỹ đạo, diện tích cản... từ đó tạo ra lực cản lớn, lực đẩy nhỏ, độ
nổi kém dẫn tới tốc độ hơi kém và tốn sức. Những người có các chỉ số và
hình thái cơ thể phù hợp thì có thể đạt hiệu quả cao trong học tập kĩ thuật
và nâng cao thành tích bơi. Vì vậy, các nhà khoa học thể dục thể thao đã đề
xuất các chỉ số thể hình phù hợp với môn bơi là:
- Cao, thon,
nguon VI OLET