Thể thủy tinh vốn lồi, nhưng trong cơ thể bị các dây chằng kéo căng cho
nên xẹp, có thể nhìn được các vật ở xa. Khi muốn nhìn gần thì cơ mi co lại
làm chùng các dây chằng, thể thủy tinh nhờ tính đàn hồi của mình sẽ phồng
lên rút ngắn tiêu cự. Khi tuổi già, tính đàn hồi của thể thủy tinh giảm, cơ mi
dẫu co lại thể thủy tinh cũng không phồng lên được, gây ra viễn thị người
già. Để khắc phục cần phải đeo kính lồi hai mặt. Có trường hợp do trục cầu
mắt quá ngắn (viễn thị) hoặc quá dài (cận thị) cần phải đeo kính lồi hai mặt
hoặc kính lõm hai mặt để trợ lực cho mắt.
3
.2. Võng mạc và sự thu nhận ánh sáng
Võng mạc là màng trong cùng của cầu mắt, chứa các tế bào que, tế bào
nón và các tế bào liên lạc.
Ngoài cùng, sát với thành của cầu mắt là lớp tế bào bì chứa sắc tố đen có
tác dụng hấp thụ ánh sáng, chống hiện tượng phản chiếu, chống nhoè ảnh. ở
động vật ăn đêm, giữa lớp thụ quan ánh sáng và lớp sắc tố còn thêm một lớp
phản chiếu ánh sáng bằng tinh thể hình kim hoặc hình sợi, có lẽ để tận dụng
ánh sáng phản chiếu trong điều kiện ăn đêm. Tiếp đến là lớp tế bào cảm thụ
ánh sáng. Mỗi tế bào sắc tố có hai đốt : đốt ngoài chứa sắc tố thị giác, đốt
trong chứa nhân và các ty lạp thể để trao đổi chất. Đốt ngoài chứa khoảng
4
00 - 800 túi dẹp (gọi là đĩa), đường kính 6àm. Sắc tố thị giác là Rodopxin.
Tiếp nữa, sát với khối dịch phòng sau mắt, là các tế bào hai cực có tác dụng
chuyển hưng phấn từ tế bào cảm thụ cảm ánh sáng đến các tế bào hạch có
sợi trục chập lại tạo thành dây thần kinh thị giác (hình 41).
Mắt người có 6 - 7 triệu tế bào nón, 110 - 125 triệu tế bào que. Hố giữa
tập trung nhiều tế bào nón (140 nghìn/1mm2) được gọi là điểm vàng. Nơi
dây thần kinh thị giác đi ra gọi là điểm mù.
Số lượng các tế bào cảm quang nhiều nhất, tiếp đến là các tế bào hai cực
ít hơn và các tế bào hạch còn ít hơn nữa, do đó tạo điều kiện cho sự tập trung
hưng phấn : một tế bào hạch sẽ nhận hưng phấn từ hàng nghìn, hàng vạn tế
bào cảm quang.
3
.3. Các phản ứng quang học trong tế bào cảm quang