Chào cô

các bạn
Nhóm 2
Hoài Dư
Bích duyên
Lâm
kì duyên
Kim hà
Kỳ Duyên
Thu hà
Lịch sữ văn minh thế giới
Chủ đề: Đạo Phật
GV: Nguyễn Vũ Thu phương
nguyenvuthuphuong@gmail.com
I. Sự hình thành
Phật giáo là một tôn giáo được Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni)
truyền giảng ở miền Bắc Ấn Độ vào thế kỷ 6 trước công nguyên (TCN).
1. Hoàn cảnh ra đời của Phật giáo
a. Điều kiện tự nhiên
Có dãy núi Hymalaya hùng vĩ ở phía Bắc.
Có biển Ấn Độ Dương rộng mênh mông.
Vừa có sông Ấn chảy về phía Tây.
Lại có sông Hằng chảy về phía Đông.
Vì thế Ấn Độ có những vùng đồng bằng trù phú màu mỡ.
Có vùng nóng ẩm mưa nhiều.
Có vùng lạnh giá quanh năm tuyết phủ, lại
Có những vùng xa mạc khô cằn, nóng bức.
Những điều kiên tự nhiên đa dạng và khắc nghiệt
ấy là cơ sở để hình thành sớm những tư tưởng
tôn giáo triết học.
b. Điều kiện về kinh tế- xã hội.
Từ thế kỷ VI – I TCN, nền kinh tế – xã hội chiếm hửu nô lệ Ấn Độ đã phát triển,
thổ dân trên bán đảo Nam Á là người Dravidian và Sumerian đã có nền văn minh
khá cao.

Đầu thế kỷ II TCN, một nhánh người Aryan thâm nhập vào bán đảo Ấn Độ.

Sự tồn tại rất sớm và kéo dài của kết cấu kinh tế – xã hội theo mô hình
“công xã nông thôn”.

Xã hội thời kỳ này được phân chia thành 4 đẳng cấp lớn là: tăng lữ, quý tộc,
bình dân tự do và nô lệ cung đình.
Những mâu thuẫn gay gắt dẫn đến cuộc đấu tranh
giai cấp giữa các đẳng cấp trong xã hội. Trong cuộc
đấu tranh ấy, nhiều tôn giáo và trường phái triết học
đã ra đời, trong đó có Phật giáo.
c. Điều kiện văn hóa – khoa học:
Khoảng thế kỷ XXV-XV TCN gọi là nền văn minh sông Ấn.

Từ thế kỷ XV – VII TCN gọi là nền văn minh Vêđa.

Từ thế kỷ VI – I TCN là thời kỳ hình thành các trường phái triết học
tôn giáo lớn gồm hai hệ thống đối lập nhau là chính thống và không chính thống.
Phật giáo ra đời trong làn sóng phản đối sự ngự trị của
đạo Bàlamôn và chế độ đẳng cấp, lý giải căn nguyên
nỗi khổ và tìm đường giải thoát cho con người
khỏi nỗi khổ triền miên, đè nặng trong xã hội nô lệ Ấn Độ.
2. Cuộc đời và sự nghiệp của Đức Phật
Người sáng lập là Thích Ca Mâu Ni, tên thật là Tât Đạt Đa (Siddhattha),
họ là Cù Đàm (Goutama), thuộc bộ tộc Sakya. Tất Đạt Đa là thái tử của vua
Tịnh Phạn, một nước nhỏ nằm ở Bắc Ấn Độ (nay thuộc vùng đất  Nepan).
Ông sinh ngày 8 tháng 4 năm 563 TCN, theo truyền thống Phật lịch thì là ngày
15/04 (rằm tháng tư) còn gọi là ngày Phật Đản.
Hoàng hậu
Mahamada
Vua Tịnh Phạn
Thái tử ra đời
Năm 29 tuổi, ông quyết định từ bỏ con đường vương giả xuất gia tu đạo.
Sau 6 năn tu hành, năm 35 tuổi, Tất Đạt Đa đã giác ngộ tìm ra chân chân lí
“Tứ diệu đế” và“Thập nhị nhân duyên”, tìm ra con đường giải thoát nỗi khổ
cho chúng sinh.
Qua hơn 40 năm hoằng pháp và truyền đạt giáo lý Phật giáo khăp Ấn Độ.
Ông qua đời ở tuổi 80 và để lại cho nhân loại những tư tưởng triết học Phật giáo
vô cùng quý báu.
II. Nội dung
1. Quan điểm của Phật giáo về thế giới quan
Quan điểm về thế giới quan của Phật giáo thể hiện tập trung ở
nội dung của 3 phạm trù: vô ngã, vô thường và duyên. 
 Vô ngã (không có cái tôi chân thật) 
Phật giáo cho rằng thế giới xung quanh ta và cả con người
được cấu thành bởi sự kết hợp của 2 yếu tố là “Sắc” và “Danh”.
Sắc là yếu tố vật chất, là cái có thể cảm nhận được, nó bao gồm
đất, nước, lửa và không khí.
 Danh là yếu tố tinh thần, không có hình chất mà chỉ có tên gọi.
Nó bao gồm: thụ (cảm thụ), tưởng (suy nghĩ), hành (ý muốn để
hành động) và thức (sự nhận thức).
Danh sắc
Ngũ uẩn
sắc
(vật chất)
thụ
(cảm giác),
tưởng
(ấn tượng),
hành
(suy lý)
thức
(ý thức)
Chúng tác động qua lại với nhau tạo nên vạn vật
và con người.
Vô thường (vận động biến đổi không ngừng) 
Các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ không đứng yên mà luôn luôn
biến đổi không ngừng, không nghỉ theo chu trình bất tận là
“sinh – trụ – dị – diệt”. Nghĩa là sinh ra, tồn tại, biến dạng và mất đi.
“tất cả những gì trong thế gian đó là biến đổi, hư hoại, đều là vô thường”. Vì vậy mọi sự vật không mãi ở yên trong một trạng thái nhất định, luôn luôn thay đổi hình dạng, đi từ trạng thái hình thành đến biến dị rồi tan rã.
Duyên (điều kiện cho nguyên nhân trở thành kết quả) 
Cái gì phát động ra ở vật gây ra một hay nhiều kết quả nào đó, được gọi là Nhân.
Duyên: Là điều kiện, mối liên hệ, giúp Nhân tạo ra Quả. Duyên không phải là một cái gì đó cụ thể, xác định mà nó là sự tương hợp, điều kiện để giúp cho sự biến chuyển của vạn Pháp.
Cái gì tập lại từ Nhân được gọi là Quả.

Ví dụ: Hạt lúa được gọi là “nhân” khi gặp “duyên” là điều kiện
thuận lợi về không khí, nước, ánh sáng, nhiệt độ…thì nhân sẽ
phát triển thành “quả” là cây lúa.
Thông qua các phạm trù Vô ngã, Vô thường và Duyên,
triết học Phật giáo đã bác bỏ quan điểm duy tâm lúc
bấy giờ. giáo cho rằng sự vật và con người được cấu
thành từ các yếu tố vật chất và tinh thần. Đó là quan
điểm biện chứng về thế giới tuy còn mọc mạc chất
phát nhưng rất đáng trân trọng.
2. Quan điểm của Phật giáo về nhân sinh quan
Nội dung triết lý nhân sinh của Phật giáo được thể hiện tập trung
trong thuyết “Tứ Diệu Đế” (Tứ thánh đế – Catvary Arya Satya)
Khổ đế: Con người và vạn vật sinh ra là khổ, ốm đau là khổ, già yếu
là khổ, chết là khổ, ghét nhau mà phải sống gần nhau là khổ, yêu
nhau mà phải chia lìa nhau là khổ, mất là khổ mà được cũng là khổ. ….
Tập đế: Tập là tập hợp, tụ tập lại mà thành. Đó là do con người có
lòng tham( tham lam), sâm (giận dữ ), si ( si mê)
Diệt đế: Là phải thấu hiểu được “ Thập nhị nhân duyên” để tìm ra
được căn nguyên của sự khổ – để dứt bỏ từ ngọn cho đến gốc rễ của
cái khổ. Thực chất là thoát khỏi nghiệp chướng, luân hồi, sinh tử.
Đạo đế: Là con người ta phải theo đế diệt khổ, phải đào sâu suy nghĩ
trong thế giới nội tâm. Tuy luyện tâm trí, để đạt tới cõi siêu phàm mà
cao nhất là đạt tới cõi phận là đạt tới trình độ giác ngộ bát nhã.
Tới chừng đó sẽ thấy được chân như và thanh thản tuyệt đối, hết ham
muốn, hết tham vọng tầm thường, tức là đạt tới cói “niết bàn”
không sinh, không diệt.
Phật giáo nguyên thuỷ có tư tưởng vô thần,
có yếu tố duy vật và tư tưởng biện chứng
của thế giới. Phật giáo khuyên con người
suy nghỉ thiện và làm việc thiện nhằm góp
phần hoàn thiện đạo đức cá nhân.
Kinh sách của Phật giáo được chia làm 3 tạng:
kinh tạng , luật tạng, luận tạng.
3. Các tông phái Phật giáo
Sự phân chia thành bộ phái rõ nét đã bắt đầu xảy ra vào thời kỳ
kết tập kinh điển lần thứ II.
Theravada: Theravada còn gọi là Phật giáo nguyên thuỷ hay Phật giáo
Nam tông, tên quen gọi là Phật giáo Tiểu thừa. Tông phái này hình thành
ngay trong thế kỷ đầu tiên sau khi Thích Ca viên tịch. Chữ Theravada có
nghĩa là “lời dạy của bậc trưởng thượng”, do đó nhiều sách còn gọi nhóm
này là Trưởng Lão bộ.
Mahayana: Mahayana có tên gọi khác là Phật giáo Đại thừa. Từ thế kỷ I TCN
các tư tưởng “đại thừa” đã bắt đầu xuất hiện và thuật ngữ Mahayana,
hay “đại thừa”, chỉ thực sự có khi nó được đề cập trong bộ kinh
Diệu Pháp Liên Hoa. Nói chung, ý tưởng Mahayana là có xu hướng
rộng rãi và tự do hơn là các phép tắc ràng buộc của Theravada.
Vajrayana: Varayjana còn có tên gọi là Tantra, Mật tông hay Kim cương thừa.
Tông phái này xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI. Phái này chia sẻ chung nhiều
tư tưởng với Đại thừa nhưng có nhấn mạnh trong việc thực hành. Các truyền
giảng được tập trung vào nhiều phương pháp tu học thực nghiệm mãnh liệt để
đẩy nhanh việc thăng tiến và có thể ngay trong cuộc sống hiện tại sẽ đạt được
giác ngộ các thực nghiệm này thường được gọi là phương tiện.
Tịnh Độ tông: Tịnh Độ Tông (Pure Land) xuất hiện vào giữa thế kỷ IV từ sự
truyền bá của sư Huệ Viễn (Hui-yuan). Tư tưởng về Tịnh Độ thì có sẵn trong
Phật giáo Ấn Độ nhưng tới khi sang Trung Quốc thì nó phát triển thành một
tông phái.
Thiền tông: Thiền tông (Dhyana) còn có các tên khác là ZEN, tên cũ là Thiền na.
Thiền là một phương tiện căn bản đã được đạo Phật sử dụng ngay từ khởi thủy.
4. Nghi lễ và các ngày lễ chính
Ðạo Phật, ngoài giáo lý cao thâm của đức Phật đã dạy, còn có những Nghi Lễ do
chính kim khẩu của đức Phật nói ra, và do các vị Tổ Sư soạn thảo hết sức công phu .
Nghi Lễ không những để tán dương công đức của đức Phật, chư Bồ Tát, mà còn những
Nghi Lễ dành cho các bậc Tăng, Ni và Thiện Tín, Phật Tử khi cần như cầu an, cầu siêu.v.v…
Nghi Lễ là một trong những pháp môn hoằng hóa rất đắc lực, Nghi Lễ đã đi sâu vào quần chúng dễ chia xẻ những nỗI vui buồn lúc gia đình lâm vào cảnh chết chóc, đau ốm hay thi cử, thành đạt, hôn nhân, sanh thọ hoặc những lúc Tổ quốc lâm nguy, dân tộc thạnh suy, tai biến.
Còn về mặt cung, điệu, nhịp, lời thì cần phải có sự luyện tập rất công phu mới đúng hợp với nhạc lễ của Phật giáo
a. Nghi lễ
b. Các ngày lễ chính
Ngoài ra, vào ngày 15 và 30 những người tu hành tập hợp
tại các chùa hay tu viện để tụng giới
Y phục của các tăng, ni theo đạo Phật có nhiều tên gọi như: pháp phục, pháp y, hoại nạp phục, hoại sắc phục, ứng pháp diệu phục, liên hoa phục, giải thoát phục, giải thoát tràng tướng phục, xuất thế phục, ly trần phục, vô cấu phục, cà sa…

Màu áo vàng mặc thường nhất mới xuất hiện vài năm gần đây. Áo thường nhất và áo nghi lễ hình thức khác nhau, lớn nhất ở ống tay áo. Ống tay áo thường nhấtt nhỏ, còn ống tay áo nghi lễ rộng hơn. Y phục nghi lễ hay còn gọi là lễ phục, là những loại áo mặc khi thức hiện các nghi lễ Phật giáo.
Loại lễ phục này được các tăng ni Phật giáo Bắc tông gìn giữ đến ngày nay.
Đặc biệt, trong lễ phục của Phật giáo Bắc tông còn có áo hậu,
đối với chư tăng mặc áo màu vàng, chư ni áo màu lam.
III. Sự phát triển và truyền bá
1. Sự phát triển
- Thứ nhất: (Từ TK VI TCN - giữa TK IV TCN) là thời kì hình thành Phật giáo.
- Thứ hai: (từ TK IV TCN- CN) là thời kỳ Phật giáo chia làm nhiều tông phái khác nhau trong đó có hai tông phái lớn là Thượng tọa bộ và Đại chúng bộ.
- Từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ VII là thời kỳ Phật giáo Đại thừa đối lập với Phật giáo Tiểu thừa.
- Sau thế kỷ thứ VIII Phật giáo đi vào suy tàn trước sự tấn công của Hồi giáo cho đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX Phật giáo từng bước được khôi phục và trở thành tôn giáo của Ấn Độ.
2. Sự truyền bá
- Phật giáo từ Ấn Độ →phương Bắc(dùng kinh điển chữ Phạn), còn gọi là Bắc Tông hay Đại Thừa, đầu tiên truyền vào Tây Tạng vào khoảng giữa TK III, Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam.
- Dưới triều đại vua A Dục( Asoca), Phật Giáo truyền sang Tích Lan, Phật giáo theo đây gọi là Nam phương hay Nguyên Thủy (kinh điển dùng chữ Ba Ly), từ đây Phật Giáo truyền sang Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam.
SỰ TRUYỀN BÁ CỦA PHẬT GIÁO
THỜI VUA ASOCA
Một số công trình kiến trúc Phật giáo ở các nước trên thế giới
Chùa shwedagon ở Myanma
Chùa Răng Phật ở Srilanka
Borobudur ngôi chùa Phật giáo lớn nhất thế giới tọa lạc tại miền trung đảo Java, Indonexia
Chùa Harmandir Sahib,Ấn Độ
Chùa Haeinsa, Hàn Quốc
Chùa vàng Pha That Luang, Campuchia
Chùa Bình Minh (Wat Arun),Anh
 Tu viện Jokhang,Tây Tạng
3. Phật giáo ở Việt Nam
Theo các học giả Tây phương thì Phật giáo được đưa vào Việt Nam từ TK II, trong thời kỳ Bắc thuộc, dưới triều đại nhà Hán, tuy rằng cũng có giả thuyết cho rằng Phật giáo đã được các vị sư người Ấn truyền bá sang Việt Nam bằng đường biển từ trước TK thứ II.  
Phật giáo giữ vai trò hết sức quan trọng trong đời sống xã hội và tinh thần người Việt Nam.
Trong quá khứ, Phật giáo Việt Nam đã gắn chặt với dân tộc trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Lịch sử đã xác nhận Phật giáo Việt Nam là một tôn giáo mà từ bản chất, bản sắc từ trong thực tiễn hoạt động của mình đã biểu hiện truyền thống yêu nước, gắn bó chặt chẽ với dân tộc, với Tổ quốc.
Phật giáo không chỉ tác đọng sâu sắc tới tâm lí, đạo đức của người dân Việt, mà còn có ảnh hưởng khá đậm nét trong cách thức giao tiếp , ứng xử, trong phong tục tập quán của người Việt Nam. Góp phần hình thành những giá trị , chuẩn mực trong lối sống của người Việt Nam.
Dân gian Việt Nam có câu: “ Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”
Phật giáo Ấn Độ khi vào nước ta đã nhanh chóng được Việt hóa, đưa vào trong đó các yếu tố văn hóa bản địa Việt Nam. Trong Phật giáo có hệ thống tín ngưỡng nguyên thủy của cư dân nông nghiệp lúa nước, có Thần Công, Thổ Địa, có tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc,thờ thành hoàng, thờ mẫu….
Chùa Dâu
Chùa Bái Đính
IV. Kết luận
 Ưu điểm
Giúp con người tự suy ngẫm về bản thân, cân nhắc các hành động của mình để không gây ra đau khổ bất hạnh cho người khác. Nó giúp con người sống thân ái, yêu thương nhau, xã hội yên bình.
Đạo Phật là con đường trí tuệ, là hiểu rõ nhân, quả, duyên. Do đó chúng ta
không mê tín sợ hãi, không tham vọng, không cần cầu cạnh, ước mơ điều gì mà chính ta nổ lực để nắm lấy hạnh phúc trong tay.
Giúp đỡ con người thông qua việc phát triển sự tỉnh thức nội tại và những nỗ lực hành trì cao cả của mỗi cá nhân để trực nhận và phát triển tiềm năng kỳ diệu nhất của mỗi người.
Giáo dục con người hoàn thiện cả về tài lẫn đức trong một xã hội văn minh.
 Khuyết điểm
Đạo phật không chủ trương cải cách xã hội mà chỉ nhấn mạnh con
người phải nhẫn nhục chịu đựng một cách tiêu cực .
Việc đạo phạt không tán thành bạo lực , chủ trương dùng điều thiện
để đáp lại điều ác đã làm cho giáo lý của nó xa vời cuộc sống thực tế.
Con đường khổ hạnh của đạo phật không lôi kéo được quần chúng ,
chỉ có những người giàu có xuất thân đẵng cấp trên đường tu hành mới cứu vớt .
Nhà chùa ngày càng giàu có , cũng tham gia bóc lột và đạo đức sư sãi đồi đã làm đạo phật mất dần uy tín. Đạo phật không còn thu hút được đông đảo quần chúng .
Cảm ơn cô
và các bạn
lắng nghe
Tôn giáo học
Ban Tôn giáo chính phủ
http://luanvan.co/luan-van/qua-trinh-hinh-thanh-va-phat-trien-
cua-phat-giao-4657/
Giáo trình lịch sử văn minh thế giới
Tài liệu tham khảo
2. Chữ “Tâm” trong đạo Phật:
Tiếng Pali, tâm là citta. Tâm là sự biết cảnh. Chẳng hạn như bây giờ mắt các bạn nhìn giỏ hoa, miệng các bạn nói hoa đẹp quá. Đó là tâm thiện. Còn như mình không ưa người nào cắm giỏ hoa này thì mình nói hoa này xấu. Đó là tâm bất thiện.
Mọi sự mọi việc đều do tâm tạo ra tất cả. Công đức cũng do tâm tạo, nghiệp chướng cũng bởi tại tâm.  Đó chính là tâm sanh diệt, lăng xăng lộn xộn, thay đổi luôn luôn, thường do tham sân si chi phối, thúc đẩy, điều khiển, cho nên con người thường tạo nghiệp bất thiện nhiều hơn là nghiệp thiện.
Trả lời câu hỏi:
nguon VI OLET