CHÀO MỪNG CÁC CON HỌC SINH 11G
ĐẾN VỚI BÀI GIẢNG CỦA THẦY
TRƯƠNG VÂN NGỌC


THỰC HÀNH
VỀ THÀNH NGỮ ĐIỂN CỐ



Minh phú ngày 12.10.2021
NHÌN VÀO HÌNH ẢNH DƯỚI ĐÂY ĐOÁN THÀNH NGỮ, ĐIỂN CỐ
Bài tập 1.

Tìm thành ngữ trong đoạn thơ sau, phân biệt với từ ngữ thông thường về cấu tạo và ý nghĩa:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công”.
(Trần Tế Xương, Thương vợ)
Bài tập 2.

Đọc lại chú thích về những điển cố in nghiêng ở hai câu thơ sau trong bài Khóc Dương Khuê và cho biết thế nào là điển cố:

“Giường kia treo cũng hững hờ,
Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn”.
(Nguyễn Khuyến, Khóc Dương Khuê)
Một duyên hai nợ: Tình nghĩa vợ chồng có tính trời định

→ Một mình bà Tú phải đảm đang công việc để nuôi chồng, nuôi con

Năm nắng mười mưa:
Vất vả, cực nhọc, chịu đựng dãi dầu nắng mưa

Khắc họa rõ nét hình ảnh bà Tú vất vả, tần tảo, đảm đang để thực hiện vai trò của người vợ, người mẹ trong gia đình

 Thành ngữ: Là những cụm từ cố định, được hình thành trong lịch sử và tồn tại dưới dạng sẵn có, được sử dụng nguyên khối, có ý nghĩa biểu đạt và chức năng sử dụng tương đương với từ, nhưng có giá trị hình tượng và biểu cảm rõ rệt, mang lại cho lời nói những sắc thái thú vị.
- Giường kia: Trần Phồn thời Hậu Hán có người bạn thân là Từ Trĩ. Phồn dành riêng cho bạn một cái giường, khi bạn đến chơi thì mời ngồi, lúc bạn về lại treo giường lên

- Đàn kia: Tương truyền Bá Nha và Chung Tử Kì là hai người bạn. Bá Nha là người chơi đàn giỏi. Tử Kì có tài nghe tiếng đàn của Bá Nha mà hiểu được điều Bá Nha đang nghĩ. Người ta gọi đó là bạn tri âm. Sau khi Tử Kì chết, Bá Nha đập bỏ đàn

→ Khẳng định tình bạn thắm thiết, keo sơn của Nguyễn Khuyến và Dương Khuê

 Điển cố: Là những sự vật, sự việc trong sách vở đời trước, hoặc trong đời sống văn hóa dân gian, được dẫn gợi trong văn chương, sách vở đời sau nhằm thể hiện những nội dung tương ứng. Về hình thức, điển cố không có hình thức cố định mà có thể được biểu hiện bằng từ, ngữ, hoặc câu, nhưng về ý nghĩa thì điển cố có đặc điểm hàm súc, ý vị, có giá trị tạo hình tượng và biểu cảm.

Đặt câu với thành ngữ và điển cố dưới đây:

- Mẹ tròn con vuông - Nước đổ đầu vịt
- Nấu sử sôi kinh - Ếch ngồi đáy giếng
- Giơ cao đánh khẽ - Bảy nổi ba chìm
- Gót chân A – sin - Sức trai Phù Đổng
TRÒ CHƠI

ĐUỔI
HÌNH
BẮT
CHỮ
Mẹ tròn con vuông:
Sinh nở bình an, mẹ con đều khỏe mạnh
 Sự trọn vẹn, tốt đẹp
VD: Chúc chị mẹ tròn con vuông!
Nước đổ đầu vịt:
Không chịu tiếp thu lời nói, ý kiến của người khác
VD: Nói với nó cũng giống như nước đổ đầu vịt
Nấu sử sôi kinh:
Sự chăm chỉ, cần cù trong học tập

VD: Nhờ nấu sử sôi kinh nên bạn ấy mới qua khỏi kì thi quan trọng này đấy
Giơ cao đánh khẽ:
Dù mắng mỏ nhưng vẫn thương, không trừng phạt như lời đe

VD: Nhưng lòng tôi chỉ khát thèm vô hạn những làn roi mẹ đánh cuối năm, những làn roi mẹ giấu mặt khóc thầm, những làn roi giơ cao đánh khẽ. (Tố Nguyên)
Bảy nổi ba chìm:
Vất vả, lận đận, long đong
VD: Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son
(Hồ Xuân Hương, Bánh trôi nước)
Cưỡi ngựa xem hoa: Xem hoặc làm một cách qua loa, đại khái.
VD: Sâu sát là tác phong của người cán bộ cách mạng, là tác phong công tác khoa học. Nó đối lập với bệnh quan liêu, mệnh lệnh, giấy tờ, thói lười biếng, bệnh cưỡi ngựa xem hoa và bệnh hình thức giả tạo. (Báo QĐND)
Gót chân A – sin:
Điểm yếu, hạn chế nhất của một con người
VD: Hắn cố che đậy cái gót chân A – sin của hắn đấy thôi, đừng sợ
Sức trai Phù Đổng:
Sức mạnh có thể làm nên chuyện lớn

VD: Với sức trai Phù Đổng, thanh niên ngày nay không ngần ngại bất cứ việc gì
Ếch ngồi đáy giếng:
Hiểu biết ít, tầm nhìn bị hạn chế, do điều kiện tiếp xúc hạn hẹp

VD: Nếu chỉ ngắm mình thôi thì khác gì ếch ngồi đáy giếng
nguon VI OLET