Tiết 22:
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ( tiết 2 )
- Nguyễn Đình Chiểu -

I. Tiểu dẫn:
1. Hoàn cảnh ra đời:
2. Thể loại:
3. Bố cục: 4 phần
Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói:
" Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường, nhưng con mắt của chúng ta phải chăm chú nhìn mới thấy, và càng nhìn càng thấy sáng. Văn thơ Nguyễn Đình Chiểu cũng vậy.Có người chỉ biết Nguyễn Đình Chiểu là tác giả Lục Vân Tiên, mà còn rất ít biết về thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu - khúc ca hùng tráng của phong trào văn học yêu nước chống thực dân Pháp.."
II. Đọc - hiểu văn bản:
1. Lung khởi ( câu 1, 2 ):
Mở đầu: "Hỡi ôi" ? tiếng than làm lay động lòng người
Câu 1: Nghệ thuật đối tách câu văn làm hai vế
Súng giặc đất rền/ lòng dân trời tỏ
+ Đối lập bằng trắc: T T T B - B B B T.
+ Đối lập về từ loại: D D D Đ - D D D Đ.
+ Đối ý: Thế lực xâm lược tàn bạo / ý chí kiên cường của nhân dân
Hình ảnh không gian vũ trụ rộng lớn ( trời - đất ).
Các động từ rền - tỏ gợi sự khuếch tán của âm thanh và sự rực rỡ của ánh sáng.
Tái hiện khung cảnh bão táp của thời đại, cũng như sự đụng độ quyết liệt giữa sức mạnh xâm lược của thực dân Pháp ( súng giặc ) với ý chí bất khuất bảo vệ đất nước của dân ta ( lòng dân ).
Câu 2: Nghệ thuật đối:
Mười năm công vỡ ruộng
/ một trận nghĩa đánh Tây
Giá trị vật chất
/ Giá trị tinh thần
Không ai biết đến
/ Nhiều người biết (vang như mõ)
ý nghĩa bất tử của cái chết vì nghĩa lớn
Tạo dựng một cái nền thật hoành tráng để tôn bức tượng đài người nông dân - nghĩa sĩ có một không hai trong lịch sử VH VN.

Đoạn 1 ( Câu 3, 4, 5 ):
Cui cút
: bơ vơ không nơi nương tựa ? những người suốt đời lặng lẽ, lam lũ làm ăn mà vẫn nghèo khó

Chỉ biết, quen làm
Chưa quen, chưa từng thấy
- Ruộng trâu, làng bộ.
- Việc cuốc, cày, bừa, cấy.
- Cung ngựa, trường nhung.
- Tập khiên, súng, mác, cờ.

Gắn với công việc nhà nông
Gắn với binh đao trận mạc
Nguồn gốc xuất thân: Họ xuất thân từ nông dân- những người nghèo khổ, lam lũ gắn bó với ruộng đồng và hoàn toàn xa lạ với chiến trận, binh đao
* Đoạn 2 ( Câu 6, 7, 8, 9 ):
Thái độ
Cảm xúc
Biểu hiện
Nghệ thuật diễn tả
Tâm trạng
- Trông tin quan: chờ mong sự chiến đấu của triều đình
- So sánh: như trời hạn mong mưa.
Lòng căm thù giặc
Ghét thói mọi: ghét giặc? muốn tới ăn gan, muốn ra
cắn cổ
So sánh: như nhà nông
ghét cỏ.
- Cường điệu: muốn tới ăn gan, muốn ra cắn cổ.
Nhận thức
Đất nước là một khối vẹn toàn không thể để kẻ thù xâm lược, chia cắt? đúng đắn
Xác định: Trách nhiệm
bản thân
Sử dụng điển tích, điển cố
ý thức
Tinh thần hoàn toàn
tự nguyện
Các cụm từ giàu sắc thái biểu cảm, mang tính khẳng định:
Há để.... đâu dung; Nào đợi... chẳng thèm...
Bước chuyển biến về tình cảm, nhận thức và ý thức của người nông dân bình thường thành người nghĩa sĩ đánh Tây được miêu tả chân thực, sinh động, gần với cách suy nghĩ cũng như lời ăn, tiếng nói hằng ngày của người nông dân Nam Bộ.
* Đoạn 3 ( Câu 10 -> Câu 15 ):
- Hoàn cảnh chiến đấu
Quân triều đình
Nghĩa quân Cần Giuộc
- Là quân cơ, quân vệ.
- Là dân ấp, dân lân.
- Được luyện tập: 18 ban võ nghệ, 90 trận binh thư.
- Trang bị: bao tấu, bầu ngòi, dao tu, nón gõ.
- Chưa từng tập rèn, chưa từng bày binh bố trận.
- Trang bị: manh áo vải, ngọn tầm vông.
- Điều kiện chiến đấu:
Kẻ thù xâm lược
Nghĩa sĩ Cần Giuộc
- Bắn đạn nhỏ, đạn to.
- Hoả mai bằng rơm con cúi
Tàu sắt, tàu đồng, súng nổ
Gươm bằng lưỡi dao phay
?vũ khí hiện đại
? Vật dụng thô sơ dùng trong sinh hoạt, lao động hàng ngày đã trở thành vũ khí đánh giặc
Hình ảnh đoàn quân áo vải được miêu tả hoàn toàn bằng bút pháp hiện thực, ánh lên vẻ đẹp mộc mạc, giản dị.
- Tinh thần chiến đấu:
+ Hệ thống động từ mạnh: đạp, lướt, xô, xông, liều, đâm, chém, hè, ó..
+ Các từ ngữ chéo, chỉ phương hướng ngược nhau: Đạp rào lướt tới / xô cửa xông vào ; Đâm ngang / chém ngược ; Hè trước / ó sau.
+ Phép đối: nhỏ - to ; ngang - ngược ; trước - sau ..
Tạo nên nhịp điệu nhanh, mạnh, tái hiện không khí chiến trận khẩn trương, sôi nổi, hào hùng.
Khí thế của họ là khí thế đạp lên đầu thù xốc tới, rất tự tin và đầy ý chí quyết thắng.
Kết quả: Chém rớt đầu quan hai nọ, đốt xong nhà dạy đạo kia
=> Hình ảnh người nông dân - nghĩa sĩ Cần Giuộc hiện lên như một tượng đài nghệ thuật sừng sững, rực rỡ tới mức có thể như là "vô tiền khoáng hậu".

nguon VI OLET