Trong đời sống thường nhật, có lẽ vua Minh Mạng là người được hưởng nhiều vui thú nhất trong các vua Nguyễn ở chốn phòng the. Số phi tần trong cung vua chưa rõ bao nhiêu, chắc phải đến năm , sáu trăm người. Sách Minh Mạng chính yếu
chép:" Năm Minh Mạng thứ sáu, mùa Xuân, tháng giêng, trong Kinh Kỳ ít mưa, nhà vua lấy làm lo, chỉ dụ cho quan Thuợng Bảo Khanh là ông Hoàng Quỳnh rằng:
- Hai ba năm trở lại đây, hạn hán liên tiếp. Trẫm nghỉ tự đâu mà đến thế nhưng chưa tìm ra nguyên nhân, hoặ là trong thâm cung, cung nữ nhiều âm khí uất tắc mà nên như vậy ư? Nay bớt đi, cho ra 100 người, ngõ hầu có thể giải trừ thiên tai vậy "
Vua có nhiều vợ, phần lớn là nguời miền Nam. Như bà Hồ Thị Hoa ( Tá Thiên Nhân Hoàng Hậu ) là người Biên Hoà, x con của Phước Quốc Công Hồ Văn Bôi. Hai Vương phi sủng ái nhất là bà Hiền Phi Ngô Thị Chính, con của Chưởng Cơ Ngô Văn Sở và bà Lệ Tân Nguyễn Gia Thị, con của Phó Vệ Úy Nguyễn Gia Quý. Hiền phi sinh được bốn Hoàng Tử và hai Công Chúa. Nguyễn Gia Thị sinh được bảy Hoàng Tử và ba Công Chúa . Hai bà này thường hay xung đột nhau, bà Ngô Thị Chính cậy mình được vua yêu mến thường đánh ghen các bà khác làm vua Minh mâng nhiều lúc cũng lâm vào tình trạng khó xử.
Tương truyền bà Hiền Phi thường nói với những người thân cận rằng :
- Dù vua có yêu thương tôi bao nhiêu đi nữa thì khi từ biệt cõi trần, tôi cũng ta đi hai tay không mà thôỉ.
Minh mạng nghe được, đến khi bà mất đã thân hành đến tận chỗ bà nằm, đem theo hai nén vàng, bảo kẻ phục dịch mở hai bàn tay ra, nhà vua để hai nén vàng rồi ngặm ngùi nói :
- Đây Trẫm cho Phi cái này để cho khỏi ra đi hai bàn tay không .

Trong thời kỳ làm Cung Trung Giáo tập, bà Thanh Quan do tài làm thơ và đức độ dạy học, được Minh Mạng tin dùng, quí mến. Bà thường được nhà vua đàm luận thơ văn.
Một lần có bộ chén kiểu của Trung Quốc mới đưa sang, chén vẽ sơn thủy Việt Nam và có đề thơ nôm cũng như một số đồ sứ kiểu thời đó, Minh Mạng đưa khoe với những người chung quanh. Mọi người yêu cầu bà Huyện Thanh Quan làm một bài thơ chữ Nôm. Bà làm ngay hai câu thơ rằng:
- Như in thảo mộc trời Nam lại.
Đem cả sơn hà đất Bắc sang.

Vua Minh Mạng rất thích thú.
Cùng hôm đó, nhà vua viết hai chữ Phúc Thọ rất lớn để " ban ơn " chúc mừng một đại thần nào đó. Ông hỏi bà Thanh Quan chữ viết như thế nào, bà khen:
- Phúc tối hậu,
Thọ tối trường

Nghĩa là
Phúc rất dày,
Thọ rất dài

Ban đầu Minh Mạng hơi ngơ ngác, sau nhìn kỹ lại ông mới hiểu ý, bèn mỉm cười và gật đầu. Thì ra Minh Mạng đã viết chữ Phúc béo phục phịch và chữ Thọ dài lêu đêu.
Bà Huyện Thanh Quan tuy ngầm chê chữ viết của Minh Mạng, nhưng lời chê thật khéo léo và văn vẻ.
( Theo Giai Thoại văn học Việt Nam Hoàng Ngọc Phách )
Câu thơ Hoàng Bào
Lê Văn Duyệt trả thù được Nguyễn Văn Thành như đã thỏa nguyện. Ai ngờ sau khi Lê Văn Duyệt chết rồi ( 1831 ) thì đến năm ( 1835 ), mộ ông ta lại bị Minh Mạng cho san phẳng và sai dựng lên tại đó một hòn đá lớn khắc mấy chữ thật to;
- Chổ này là nơi tên Hoạn Lê Văn Duyệt phục pháp.
Nguyên do chính là vì Duyệt là bố nuôi của Lê Văn Khôi, người cầm đầu cuộc khởi nghỉa thành Phiên An, chiếm lỉnh toàn cỏi Nam Bộ từ 1833 đến 1835. Nhưng khi bắt tội Lê Văn Duyệt người ta đã gán cho Duyệt bảy tội đáng chém và hai tội đáng thắt cổ. Trong hai tội sau, có tội gọi là " câu thơ Hoàng Bào ".
Số là sau khi Gia Long chết ( và Nguyễn Văn Thành bị vu oan phải tử tự ) thì Lê Văn Duyệt là người oai quyền nhất nước, đến Minh Mạng cũng phải kiêng nể. Lúc bấy giờ, người ta đồn rằng Lê Văn Duyệt hay khoe chuyện với người chung quanh là ông ta có xin được một quẻ thánh cho, có bốn câu thơ như sau:
Tá Hán tranh tiên chư Hán tướng.
Phù Chu ninh hậu tập chu thần
Tha niên tái ngộ trần Kiều sự
Nhất đán hoàng bào bức thử thân

Tạm dịch
Giúp hán há thua gì tướng Hán
Phò Chu nào kém bọn tôi Chu
Trần Kiều ví gặp cơn nguy biến
Ép mặc hoàng bào dễ chối ru

Bài thơ ý nói:- Giả sử, nay mai lại xảy ra một vụ binh biến như vụ Trần Kiều, quân lính ép ta lên làm vua như đời xưa họ đã từng ép Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn, thì có lẽ ta cũng đành lòng nghe theo họ, chứ không thể nào khác hơn. Sự việc thực hư như thế nào không biết, nhưng trong dịp hỏi tội Lê Văn Duyệt để xử ( mặc dầu đã chết rồi ) thì có người nhắc đến việc đó, và triều đình lên án thành một tội đáng để xử thắt cổ.
( Theo Đại Nam chính biên liệt truyện )
Đối đáp giữa Minh Mạng và Cao Bá Quát

Một hôm Cao Bá Quát từ Bắc ninh sang chơi Hà Nội. Bấy giờ Quát mới là một cậu học trò để chỏm. Quát thấy Hà Nội có vẻ rộn rịp khác thường, hỏi ra mới biết Minh Mạng ngự giá Bắc Thành đi thăm Hồ tây và các thắng cảnh khác. Chờ đúng giờ Đạo ngự đi đến Hồ tây, Quát giả vờ xăm xăm nhảy xuống hồ để tắm. Quan quân thấy vậy hoảng hốt, thét bắt trói lại. Càng bị trói , quát càng gào to và giảy giụa vùng chạy, gây ồn ào, hổn độn bên bờ hồ. Vừa lúc đó, kiệu vua đi qua, Minh Mạng truyền lệnh dẫn Quát đến hỏi. Quát kêu là học trò khó mới ở nhà quê lên, nên không biết gì.
Minh Mạng nghe nói liền nảy ra một ý : nhân dưới hồ nước trong có nhiều đàn cá lội tung tăng đuổi bắt nhau, ông ra một câu vế đối:
- Nước trong leo lẻo cá đớp cá
Và hứa với Quát đối được sẽ tha. Quát không cần nghĩ ngợi, cũng tức cảnh việc mình bị trói , đối lại:
Trời nắng chang chang, người trói người
Minh Mạng tức giận trước câu đối ấy, nhưng vì không muốn mang tiếng với người Bắc Hà trong fdịp đầu tiên ra thăm Đất Bắc, nên Đành truyền lệnh cởi trói tha cho Cao Bá Quát
( Theo Bá Bá Quát - Trúc Khê )

Minh mạng trong những tiến bộ khoa học kỹ thuật phương Tây. Một lần viên quan Pháp Phillippe Vannier ( tên Việt là Nguyễn Văn Chấn ) dâng vua hai thước đồng Thái Tây tên là Đồng Nhật Khuy, chưa ai biết được phép dùng thế nào.
Minh mạng thường khảo sát, tìm tòi sử dụng trong những lúc thong thả, khi đã hiểu được cách dùng mới bảo Phan Huy Thực và Nguyễn Danh Bi rằng:
- Thước đồng này bằng, nghiêng,cao, thấp phân biệt độ số, gần thời đo được núi non, xa thời xem được trời đất, phép tài lắm .
Nhân đó mới chỉ bảo rõ ràng, khiến sự suy nghiệm sách Quốc Triều Chính biên chép:
- Tháng bốn Ngài ngự chơi cầu Bến Ngự, xem thí nghiệm tàu chạy máy hơi. Khi trước khiến Sở Võ Khố chế tạo tàu ấy, đem xe chở ra sông, giữa đường vỡ nồi nước, máy không chạy, người đốc công bị xiềng , quan bộ Công là Nguyeẽn Trung Mậu, Ngô Trung Lân vì cớ tâu không thật bị bỏ ngục. Bây giờ chế tạo lại, các máy vận động nhanh, thả xuống nước chạy mau. Ngài ban thưởng giám đốc là Hoàng Văn Lịch, Võ Huy Trinh mỗi người một cái nhẫn pha lê độ vàng, một đồng tiền vàng Phi Long hạng lớn, đốc công và binh tướng được thưởng chung 1000 quan tiền. Ngài truyền rằng:
- Tàu này mua bên Tây cũng được, nhưng muốn cho công tượng nước ta tập quen máy móc cho khéo, vậy nên chẳng kể lao phí gì.
Xem vậy, vua Minh Mạng có ý thức khuyến khích học hỏi kỹ thuật tiên tiến phương Tây, dù chỉ là những bắt chước vặt vãnh.
Năm Đinh Dậu thứ 18 ( 1837 ) đã có loại xe máy dùng để cưa ván ( bắt chước theo cách Tây ) . Minh Mạng xem, truyền:
- Xe này dùng trâu kéo, con trâu kéo quen thời dẫu gầy ốm mà kéo cũng mạnh, con trâu ở nể dầu to béo mà thở mệt kéo không nổi, cho nên ta thiệt ghét những người ở nể mà không làm việc .
( Theo Quốc triều chính biên )
Sự cấm đạo
Từ khi Minh Mạng lên ngôi, nhà vua đã có ý không cho người ngoại quốc vào giảng đạo ở trong nước. Đến năm Ất Dậu ( 1825 ) có chiếc tàu Thétis vào cửa Đà Nẳng, có một giáo sỉ tên là Rogerot đi giảng đạo các nơi, Minh Mạng lúc ấy mới có dụ cấm đạo. Trong dụ nói rằng:
- Đạo phương Tây là tà đạo, làm mê hoặc lòng người và hủy hoại phong tục, cho nên phải nghiêm cấm để khiến người ta phải theo chính đạo.
Nhà vua sai tìm bao nhiêu giáo sỉ ở trong nước đem cả về Huế để dịch những sách Tây ra chữ Việt Nam, chủ ý không phải vì việc dịch sách, mà là để cho họ khỏi đi giảng đạo ở hương thôn.
Tuy đã ngăn cấm nhưng vẫn có người đi giảng đạo, Minh Mạng lại ra dụ lần nữa, truyền cho dân bên giáo phải bỏ đạo, ai bắt được giáo sỉ thì được thưởng. Năm ấy, có một giáo sỉ bị xử giảo, nhiều nơi cũng rối loạn vì sự bắt đạo và cấm đạo.
Năm 1835, khi thành Phiên An do Lê Văn Khôi tử thủ để chống quân triều đình bị dẹp tan, trong 6 thủ phạm phải đóng củi giải về Huế, có một linh mục người Pháp là Marchand ( cố Du ), một người khách tên là Mạch Tấn Giai và đứa con của Khôi mới lên 7 tuổi.
Đến khi về Huế thì ông Marchand và 5 người kia đều phải tội lăng trí.
Sự giết đạo càng dữ dội hơn sau vụ Lê Văn Khôi. Nhà vua một mặt cấm đạo, một mặt ban những huấn điều để khuyên dân giữ lấy đạo chính, nhưng vẫn không ngăn cấm được, chỉ khổ dân tình mà thôi. Các giáo sĩ bấy giờ cứ một niềm liều chết đi truyền đạo giáo cho được, có người phải đào hầm ờ dưới đất hàng mấy tháng để truyền đạo.
( Theo Việt Nam sử lược - Trần Trọng Kim ) 

nguon VI OLET