Nguyễn Công Trứ có công sáng lập hai huyện Kim Sơn và Tiền Hải. Năm 75 tuổi, ông lại theo đường bộ ra Bắc thành thăm phong cảnh cũ. Dân hai huyện đón rước rất linh đình. Khi ấy có tên thị vệ quê ở Nam Định thấy các làng tôn sùng ông như thần, muốn tâng công, y liền tâu với Tự Đức là n Nguyễn Công Trứ có hành vi khả nghi, có ý muốn mưu đồ đại sự. Tự Đức b hạ mật chỉ cho quan Tổng Đốc Nam Ninh Hoàng Văn Thu p
hải dò xét việc ấy và đòi ông lập tức về Kinh.
Bị triệu gấp vì có người vu cho mình làm phản, ông rất uất ức. Đến Kinh Đô được ba ngày, Tự Đức vời ông vào bệ kiến. Nhà vua cho ngồi, ủy lạo mấy câu, rồi hỏi:
- Hạt Tiền Hài và Kim Sơn dân tình sinh hoạt thế nhào?
Ông tâu :
- Dân hai huyện ấy ngày nay có ruộng nương cày cấy, lại được mùa luôn nên rất vui vẻ. Những lúc thư nhân họ có câu đối để độ nhau rất thú vị.
Tự Đức hỏi:
- Những câu gì, khanh có nhớ không?
Ông tâu:
- Thần nhớ được mấy câu sau đây:
- Đem thân cho thế gian nhờ
Ngay như chỉ đặt lại ngờ bất trung
- Thế là cái gì?
- Họ giảng là cái phản để ngồi
Vua lại hỏi:
- Còn câu gì nữa không?
Ông tâu:
- Câu này cũng hay lắm:
- Ngữa lòng hứng lấy nước nhà
Người đà không biết , người đà biết cho

- Là cái gì ?
- Là cái máng để hứng nước.
Vua hỏi đến các câu hát nào hay, Nguyễn Công Trứ liền đọc ngay rằng:
Chuông già đồng điếu, chuông kêu
Anh già lời nói, em xiêu tấm lòng.
Quốc sỉ vô song là người Hàn Tín
Anh nó thương em anh đến chi đây.
Bốn bể rồng ấp lấy mây.

Vua Tự Đức hiểu ý ông ám chỉ việc triều đình hay nghi kỵ, liền an ủi và cấp tiền lộ phí cho ông trở về nhà
( Theo Giai thoại văn học Việt Nam )

HẬU QUẢ ĐỌC THƠ TRONG MEN RƯỢU
Lê Ngô Cát là một nhà nho giỏi thơ Nôm ở thời Nguyễn. Ông quê làng Hương Lang , huyện Chương Đức ( nay là Chương Mỹ- Hà Đông ) không rõ năm sinh và mất, chỉ biết ông đỗ cử nhân vào năm 1848.
Tương truyền hồi Lê Ngô Cát đang làm Bố Chánh Cao Bảng thì được vua Tự Đức triệu về Kinh để sửa lại bộ Quốc sử diễn ca. Trong bộ sử, ông có viết mấy câu về Bà Triệu như sau:
Vú dài ba thước giắt lưng
Cỡi voi đánh trống trong rừng kéo ra
Cũng toan gánh vác sơn hà
Cho Ngô biết mặt đàn bà nước Nam

Khi dâng sách lên, Tự Đức đọc đến đoạn đó thích lắm, chỉ chữa chữ " cũng toan " thành ghé vai " , và nói đùa rằng " Thế đàn ông nước Nam đâu cả? " Rồi nhà vua ban thưởng cho Cát một tấm lụa và hai đồng tiền vàng
Nghe tin, các bạn đến mừng, đòi Lê Ngô Cát phải có rượu khao. Khi rượu đã ngà ngà say, các bạn hứng chí đòi chủ nhân phải có thơ về việc vua ban vàng, lụa.
Lê Ngô Cát bèn ngất ngưỡng đọc luôn hai câu lục bát như sau:
Vua khen thằng Cát có tài
Ban cho cái khố với hai đồng tiền.

Ít lâu sau bỗng Lê Ngô Cát nhận được lệnh phải đi nhận lại chức Bố Chánh Cao Bằng. Ông rất sửng sốt và lo ngại . Mãi về sau mới vỡ lẽ : Thì ra hai câu thơ của ông đã đến tai vua Tự Đức , nhà vua cho ông có ý xỏ vua keo kiệt ( cho một tấm lụa chỉ đủ làm cái khố) và vì thế đày ông lên lại Cao Bằng
( Theo Giai Thoại văn học Việt Nam )

TÀI BÔNG LƠN CỦA MỘT KÉP HÁT
Sau khi bị mất 6 tỉnh ở Nam Kỳ, vua Tự Đức rất buồn phiền, suốt ngày trầm tư, không cười, ít nói. Để vua giải khuây, triều thần đề nghị cho đội tuống Thanh Bình vào trình diễn để vua xem. Bà Từ Dũ Hoàng Thái Hậu lại hứa ban thưởng cho ai đem lại nụ cười cho vua. Đội Vung - Đội trưởng đội tuồng Thanh Bình- xin đảm nhiệm việc ấy.
Khi đội Vung ra sân khấu thì vua Tự Đức đang hút thuốc lá. Đội Vung đang sắm vai vua, thấy vậy chạy lại gần Tự Đức nói:
- Cho tớ hút một hơi.
Vua Tự Đức đang buồn phiền thấy vậy cũng phải phì cười nói " mi táo gan hè " và tha cho cái lỗi phạm thượng ấy.
Đội Vung, sau buổi biểu diễn ấy, được lãnh thưởng của Hoàng Thái Hậu.
CÁP TÔ VĂN NGỒI TÙ
Đội Vung là kép giỏi của đoàn tuồng Thanh Bình, có tội phải vào tù, vì bị phát giác nằm trên máng xối của điện Thái Hoà để nghe bàn quốc sự, sau vụ Đoàn Trưng đột nhập Kinh Thành, mưu việc đưa Đinh Đạo lên ngôi không thành.
Nhân một buổi diễn tuồng cho vua Tự Đức xem, vai Cáp. Tô Văn không ai thủ xuất sắc, đội trưởng đội tuồng bẩm lại với vua cho thay tuồng khác.
Tự Đức hỏi lại lý do, đội trưởng mới tâu lại là phi đội Vung, không ai thủ nỗi vai Cáp Tô Văn, một tướng dữ đời Đường , suýt giết được vua Đường nếu không có Tiết Nhơn Quý phò trợ.
Vua Tự Đức đang lúc muốn xem tuồng , liền phán cho người vào tù kêu đội Vung cho ra tù đóng Cáp Tô Văn.
Xong việc, Cáp Tô Văn vào ngồi tù lại.
TIÊU TÁN SÁNG TẠO ĂN GAN
Tại nhà hát Duyệt Thị Đường , kép đóng vai " Tiêu Tán ăn gan " thật xuất thần. Vả khuôn mặt , tay chân , điệu bộ rất hấp dẫn người xem. Vua Tự Đức cũng bị tài nghệ kép hát lôi cuốn, hứng chí bảo nhỏ với quan bộ Lại ngồi cạnh bên:
- Ghi mau cho Trẫm, tên này được phong hàm bát phẩm.
Nhưng Tiêu Tán đang lúc say sưa diễn, muốn " sáng tạo thêm chút ít ", do ăn gan đã hết, đến khúc ruột , gặp khúc ruột thúi , nên phun phì phì. Thấy vậy , Tự Đức nổi giận:
- Nó diễn trước mặt Trẫm mà dám phun thứ hôi thói ấy, mau xoá bát phẩm.
VÌ SAO LẠI SỬA TUỒNG BÀN DÂN GIAN

Nhân ngày khánh tiết, bà Từ Dũ Cho vời đoàn Thanh Bình vào hát trước sân cung Thọ Ninh cho các bà Thái Hậu xem. Hôm ấy đoàn hát tuồng truyện , vở Đường Chinh Tây, lớp " Phàn Lê Huê tru huynh sát phụ ". Các diễn viên đóng rất đạt. Đặc biệt là Phàn Lê Huê do một kép già đào đóng tài tình vô cùng.
Xem xong , bà Từ Dũ có vẻ không vui. Bà liền bảo đội trưởng vào bảo:
- Người Tàu đặt truyện thật là nghịch lý nhẫn tâm. Đặt cho Phàn Lê Huê tài phép đến thế , có chuyện chi gấp rút mấy đi nữa thời với tài ấy tránh trút như chơi. Chớ chi phải đến nổi giết anh, giết cha chẳng còn tình nghĩa chi hết. Người Tàu khác, người mình khác, người đặt truyện đã đặt bậy cớ sao người soạn tuồng cũng soạn bậy luôn? Phải sửa lại đừng cho như vậy mới là hợp lý và thuận với người nước ta !
Đội trưởng đội Thanh Bình nhận tội và hứa sẽ sửa lại .
Vua Tự Đức nghe mẹ phê phán đội Thanh Bình, ông cũng cảm thấy có phần trách nhiệm. Sàu đó nhà vua cho thu tất cả các bản tuồng đang lưu hành trong dân gian đưa về Kinh nhuận sắc lại hết. Vở nào không đúng với đạo lý Việt Nam đều phải sửa. Từ đó mới có tuồng Kinh Bản và Phường Bản. Phường Bản là bản tuồng ở dân gian, Kinh bản là bản tuồng đã được sửa chữa lại tại Kinh Đô
( Theo Đại Nam Liệt truyện và Tử Dũ Hoàng Thái Hậu truyện )

KHI VUA NỔI GIẬN

Vua Tự Đức thường được truyền tụng là điềm đạm, nhưng vẫn có lần ông này nổi nóng, mất bình tỉnh. Giai thoại kể lại như sau:
Để giải khuây trước cảnh đất nước bị Pháp xâm chiếm, ông thường ngự thuyền trên sông Hương bắn chim bằng súng. Mỗi lần nhà vua bắn được chim rơi xuống sông, quân lình chèo thuyền rồng lại để các cung nữ khều chim bằng những cây sào dài. Những lúc như vậy cần phải giữ thái độ nghiêm túc, vì đang ở trên thuyền rồng của vua. Không hiểu tại sao, một lần có cung nữ vừa khều chim, vừa buông tiếng cười cợt. Nhà vua tức giận, ra khoang thuyền, thấy cung nữ vẫn không dứt tiếng cười, sẵn súng cầm tay liền bắn tại chỗ.
Các cung nữ thấy vậy đều xanh mặt, chẳng dám hó hé một lời.
Nhà vua bắn xong mới tỏ vẻ hối hận. Có lẽ đó là lần đầu. Tự Đức đánh mất tính điềm tỉnh của mình
( Theo Phan Văn Dật )

Vua Tự Đức không có con nên tự mình viết văn bia cho mình. Qua văn bia ở Khiêm Lăng
( Khiêm Cung Ký ) nhà vua muốn thố lộ tâm sự . Một ông vua ở trên ngai vàng khá lâu, trong hoàn cảnh đất nước gặp nhiều khó khăn, thay đổi, cho nên " Không khỏi tiếng thị phỉ ; Đây là một phương cách nhìn lại bản thân và tự đánh giá những việc làm của vua Tự Đức trong thời gian trị vì.
. . .
... Tính ta lại ít nói, cho nên không phải bạn chí thân, dù là thân cận đại thần gặp nhau khi vào triều thì cũng ít khi bàn việc quan hay lên mặt như kẻ khác, do đó hầu như ta có ít người để giao thiệp nhưng ta vẫn cứ yên vui  sống trong lặng lẽ và vụng về ấy.
Khí huyết, ta vốn yếu đuối , thân thể thường gầy gò, trong lúc tuổi trẻ đang yên ổn này mà việc nối dõi còn khó có thể an ủi được lòng mong chờ của cha mẹ, thật quá hổ thẹn, nhưng đang buổi đầu ta chưa quan tâm lắm.
Gần đến tuổi trưởng thành, vào tháng sáu bỗng mắc bệnh đậu mùa rất nguy kịch, nhờ cha mẹ hết sức thuốc thang cầu đảo, tháng tám mới khỏi. ( 1)
( .......)
Còn như việc giặc cướp trong , ngoài có lúc làm mê loạn lòng người nhưng rồi cũng yên, ấy là nhờ vào sức mọi người chứ mình ta thì chẳng làm gì được.
Ôi! Dốt nát mà quen sống yên ổn, mông muội mà ở chốn nhà cao cửa rộng chẳng biết phòng bị, tôi tài tướng giỏi cũng đã tàn tạ hơn phân nữa, mấy ai có thể khôi phục lời di huấn về việc canh giữ biên cương của cha ta để giúp ta bước khỏi vòng tội lỗi? Trời cao lại trừng phạt nặng nề để răn dạy vua tôi ta. Người Âu Châu xa cách ngàn trùng dương vạn dặm, phong tục chẳng giống nhau, mà nước lại là nơi quen biết cũ, bỗng đưa quân lính thuyền bè đến, bỏ tình hoà hiếu mà tìm cách xâm lược bờ cõi, chúng cậy tàu bền, súng tốt giày xéo để hòng nuốt chửng đất Quảng Nam, phá phách đất Gia Định. Đất Bắc vốn ưa làm loạn nhân thể cũng nỗi lên. Hưởng thái bình đã lâu ngày, dân không biết chiến đấu, canh thành giữ chốt nào được mấy người?
Khiến đất nước đầy trộm cướp , trong gian ngoài giặc, chúng cấu kết với nhau ngày càng tràn lan, chúng đến đâu thì tàn hại như gió bão, thử hỏi biết cùng ai để bảo vệ bờ cõi của ta huống chi là việc bảo vệ dân ta? Bất đắc dĩ phải đánh qua loa cho xong chuyện nhưng dân thì ngày càng quấy nhiễu. Để thôi mệt nhọc, nhân giặc cầu hoà ta đành phải sai sứ cùng chúng bội ước, những nhà nho lão thành, những đại thần uy vọng đều lấy làm bùi ngùi và xin đi, rồi chẳng hiểu sao lại quá dễ dãi trong việc thương thuyết mà trở về. Các triều đã dày công khó nhọc mở mang đất đai tụ họp dân chúng, bỗng nhiên một sớm thấy giao cho địch, họ đã chọn lấy cái họa nhỏ nên đã dùng cái chết để khỏi nhục mạng vua, quả như thế chăng? Khiến ta cùng với một bề tôi thân cận chẳng làm sao hơn, chỉ còn biết nhìn nhau mà nuốt nước mắt, đành đắc tội với tông miếu và thiên hạ. Kẻ mất chẳng hoàn thành được ý chí và sự nghiệp, người còn thì đằng đẵng xót thương lo lắng không sao khuây được. Đó là cái dẫn đến chỗ thảm khốc . Nếu cho rằng đành bỏ cái đã mất để lo xoay xở cái nguy mới hiện ra, thật không làm như thế thì làm sao giữ được việc đã qua ? Than ôi, nếu bỏ là có công tất mất là có tội, nếu mất mà chưa cho là tội thì sao bỏ gọi là công? Hai điều ấy chắc có thể phân biệt được. Kẻ kia làm mất nay ta thu lại được nên gọi là công, huống hồ kẻ kia làm mất , ta lại hùa theo mà n bỏ luôn, ôi công sao? Sao có thể đo lường trái đến vậy mà cho là trí, dối trá như vậy mà cho là công? Những kẻ bàn luận riêng tư còn cho như thế, nên họ chối bỏ chẳng đoái hoài gì đến nước nhà, thế nên chẳng lạ gì họ ngày càng uể oải ,trốn tránh do đó chính sự ngày càng phiền phức, không biết lòng người có từng thổn thức đau đớn hay không? Nhưng không sáng suốt trong việc biết người ấy là tội của ta, hằng trăm việc không làm được đều là tội của ta cả, bắt đắc dĩ phải thuận theo quyền mà hành động, những mong được một phút nghĩ ngơi nhưng thiên hạ từ đó bắt đầu sinh ra lắm chuyện ...."
( Trích Khiêm Cung Ký - Phan Hứa Thụy dịch)
( 1 ) Vì mắc bệnh này mà vua Tự Đức không có con nối ngôi. 

Lăng miếu vua Tự Đức 

nguon VI OLET