Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

Doc Van te nghia si Can Giuoc Hoc van te de thay nguoi song tot

Hỡi ôi!

Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ.

Mười năm công vỡ ruộng, chưa chắc còn danh nổi tợ phao; một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ.

Nhớ linh xưa:

Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó.

Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.

Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.

Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa; mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.

Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.

Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu; hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê, bán chó.

Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.

Khá thương thay:

Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh; chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ.

Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn; chín chục trận binh thư, không chờ bày bố.

Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu bầu ngòi; trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gõ.

Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.

Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.

Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ.

Ôi !

Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ.

Một giấc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây; trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm treo mộ.

Đoái sông Cần Giuộc cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ.

Chẳng phải án cướp, án gian đày tới, mà vi binh đánh giặc cho cam tâm; vốn không giữ thành, giữ lũy bỏ đi, mà hiệu lực theo quân cho đáng số.

Nhưng nghĩ rằng:

Tấc đất ngọn rau ơn Chúa, tài bồi cho nước nhà ta; bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó.

Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương; vì ai xui đồn lũy tan tành, xiêu mưa ngã gió.

Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa hương xô bàn độc, thấy lại thêm buồn; sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.

Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.

Ôi thôi thôi !

Chùa Tông Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm; đồn Lang sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.

Đau đớn bấy, mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay, vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.

Ôi !

Một trận khói tan, nghìn năm tiết rỡ.

Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm nên bốn phía mây đen; ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ.

Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.

Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia; sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó.

Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ.

Hỡi ôi thương thay !

Có linh xin hưởng.

                                                                       NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU

(Theo bản in Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, NXB Văn học Giải Phóng, thành phố Hồ Chí Minh, 1976)

Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc : Bức tượng đài của dân tộc

* NGUYỄN HOÀNG LÊ


Nguyễn Đình Chiểu một nhà thơ lớn của nước ta, một ngôi sao sáng trên bầu trời văn nghệ dân tộc. Xuất thân từ một gia đình quan lại nhỏ ở đất Gia Định. Nguyễn Đình Chiểu lớn lên và trưởng thành vào giữa thế kỷ XIX, lúc triều đình phong kiến nhà Nguyễn đang suy vong và thực dân Pháp bước đầu xâm lược Việt Nam.

Đã gần 2 thế kỷ qua đi, nhắc về ông, chúng ta không những nhớ đến tác phẩm nổi tiếng “Lục Vân Tiên”, mà còn khâm phục ông với tư cách là một sĩ phu yêu nước. Khác với những sĩ phu đương thời, ông dùng ngòi bút viết nên những khúc ca bi tráng ca ngợi những con người đã xả thân vì nghĩa rồi hy sinh oanh liệt. Hàng loạt các bài: Hịch, điếu, văn tế một lần nữa lại tỏa sáng: Văn tế Trương Định - Điếu Phan Tòng - Văn tế sĩ dân lục tỉnh trận vong - Hịch đánh Tây và “Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc”.

Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc là khúc ca hùng tráng, tạo nên một cơn sóng ngầm mãnh liệt, thúc đẩy phong trào chống Pháp ngay từ khi chúng vừa đặt chân xâm lược nước ta. Mở đầu bài văn tế sao mà “đau thương nhưng anh dũng”:

“Hỡi ơi! / Súng giặc đất rền / Lòng dân trời tỏ...”

Trước hết đây là tiếng khóc: khóc cho đất nước, cho nhân dân, cho đời “trong cơn bấn loạn”, khóc cho vong linh của những nghĩa sĩ Cần Giuộc đã anh dũng hy sinh vì vận mệnh của Tổ quốc. Tiếng khóc cao cả và trân trọng biết bao.

Nước đã mất thì nhà tan, tội ác của quân xâm lược “Trời không dung, đất không tha”, những hình ảnh thật điêu linh: “Bến Nghé của tiền tan bọt nước / Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây”.

Hy sinh cho người khác, hành động vì nghĩa, Nguyễn Đình Chiểu đã vượt khỏi tư tưởng của một đồ đệ Cửa Khổng Sân Trình - một tư tưởng tiến bộ của một nhà nho yêu nước. Ông quan tâm đến những người dân đen, chú ý đến cái lòng của họ rồi khẳng định: Hành động của họ được trời thấu rõ. Lời  văn điếu phúng đã giới thiệu về những nghĩa sĩ: “Mười năm công vỡ ruộng, chưa chắc đã còn mà danh nổi như phao / Một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất mà tiếng vang như mõ”.

Hành động đánh Tây của họ, chính là hành động vì nghĩa, là một hành động cao cả. Có nhiều lúc phải trả giá bằng chính bản thân mình. Đến đây hình tượng người nông dân - những nghĩa sĩ Cần Giuộc được tác giả khắc họa. Đây là lần đầu tiên người nông dân có tên trong danh mục của văn chương đất Việt với tư cách đường hoàng, mang tầm vóc và vẻ đẹp có thực của một giai cấp, một kiếp người bị lãng quên trong lịch sử... Bởi cuộc sống nhỏ lẻ, đời tiếp đời nối cái nghèo khó để tồn tại: “Nhớ linh xưa / Côi cút làm ăn / Toan lo nghèo khó / Chưa quen cung ngựa... chỉ biết ruộng trâu ở theo làng bộ” họ là những “dân ấp, dân lân” - lam lũ quẩn quanh sau lũy tre làng.

Đất nước bị xâm lược, triều đình nhà Nguyễn yếu hèn đã án binh bất động: “Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa”. Thì chính những người dân bình thường ấy, chứ không phải triều đình, không phải nhà vua nữa, họ đã là sức mạnh để cứu nước. Như một phản ứng tất yếu, lòng căm thù giặc cao độ, đã làm nảy sinh một khát vọng cao độ - khát vọng đánh giặc hoàn toàn tự nguyện - “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”: “Nào ai đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình / Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”. Trái tim của những người nông dân Cần Giuộc đã bốc lửa - lửa căm thù giặc: “Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan / Ngày xem ống khói chạy đen xì, muốn ra cắn cổ”.

Thực ra, hành động của họ cũng không phải hoàn toàn tự phát, mà trong tâm hồn họ có những nghĩ suy đến vận mệnh của quốc gia: “Một mối sa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu / Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó”. Họ đã như người dân quê mộc mạc bình dị, bản chất ấy của họ vẫn không thay đổi trong cả những khi xung trận. Họ đánh giặc bằng những gì mà họ có trong cuộc sống sinh hoạt và lao động hàng ngày: “Manh áo vải” - vẫn mặc, với “ngọn tầm vông”, “rơm con cúi” thường ngày mang ra đồng đốt cỏ và với “lưỡi dao phay” thường ngày dùng để chặt cây, bổ củi, thái rau những tấm lòng mến nghĩa cao cả đã khiến họ làm được những việc “kinh thiên động địa”: “Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dậy đạo kia / Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ”. Nguyễn Đình Chiểu bằng ngôn ngữ, hình ảnh đậm đà chất Nam bộ, đã xây dựng được hình tượng người nông dân nói chung, người nghĩa sĩ Cần Giuộc nói riêng bừng bừng một khí thế xung trận. Quần chúng nổi dậy như vũ bão: “...Đạp rào lướt tới coi giặc cũng như không / Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào liều mình như chẳng có / Kẻ đâm ngang, người chém ngược làm cho mã tà ma ní hồn kinh”. Hàng loạt những động từ liên tiếp nhau, nhịp thơ ngắn, mạnh mẽ, tác giả miêu tả cuộc hỗn chiến với khí thế xung thiên, xung trận ào ào như thác đổ của nghĩa quân Cần Giuộc thật oai phong và lẫm liệt làm cho trời thảm, quỷ sầu.

Âm điệu thơ như những trận sóng lừng xô bờ, bỗng dưng lắng xuống, chìm sâu vào đất trời: “Một giấc sa trường rằng chữ “hạnh”, nào ai da ngựa bọc thây / Trăm năm âm phủ ấy chữ “quy” nào đợi gươm hùm treo mộ / Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng / Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ”.

Nguyễn Đình Chiểu đã nhân danh lịch sử mà cất tiếng khóc cho những người nông dân - “Nghĩa sĩ Cần Giuộc” - họ đứng trên triều đại, đã làm nên lịch sử. Họ hy sinh vì non sông vì dân tộc, cái chết cao đẹp của họ đã đi vào vĩnh cửu. Cái chết của họ đã nhuộm đau thương, tang tóc trùm lên vạn vật.

Lời văn đang đắm chìm trong thảm đạm, bỗng sáng hẳn lên - một nhân sinh quan tiến bộ đã kế thừa và vượt lên thời đại tác giả: “Sống làm chi theo quân tà đạo, quăng bùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn / Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì nghe càng thêm hổ / Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo Tổ phụ cũng vinh, hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ”. Lời văn lại chuyển sang một đợt sóng khác trầm hơn, sâu hơn. Có thể nói, Nguyễn Đình Chiểu dùng thể loại phú Đường luật (phú cận thể) với lời văn ảo não khiến người nghe đều thương tâm nhỏ lệ: “Chùa Tân Thạnh năm canh ưng đóng lại, tấm lòng son giữ lại bóng trăng rằm / Đồn La Sa, một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ / Đau đớn thay mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều / Não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”. Lời văn tế khiến ta ngậm ngùi - đau xót - thấu hiểu sâu sắc hơn sự hy sinh của những nghĩa sĩ Cần Giuộc. Họ ra đi còn để lại sau đời mình: “Mẹ già”, “vợ yếu”, để  “Bến Nghé”, “Đồng Nai” còn “bốn phía mây đen”. Tuy vậy những người nghĩa sĩ Cần Giuộc là những con người: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc” để “danh thơm đồn sáu tỉnh chúng còn khen”.

Với lòng yêu mến và kính phục, Nguyễn Đình Chiểu đã tạc lên một bức tượng đài của người nông dân. Nhưng đây không phải tượng đài của một người, mà của nhiều người, của một tập thể anh hùng - “Nghĩa sĩ Cần Giuộc”. Bức tượng đài của ông chỉ có một tên gọi chung là “Nghĩa sĩ Cần Giuộc”, còn mỗi người ở đó đều là vô danh. Họ đã sống những cuộc đời của quần chúng vô danh, chết cái chết của quần chúng vô danh. Cái điều duy nhất họ gửi lại cho đời mà tác giả ghi bên dưới bức tượng đài ấy là “chết vinh hơn sống nhục”.

Cuộc tấn công của những nghĩa sĩ Cần Giuộc vào đồn Cần Giuộc của thực dân Pháp năm 1863 là cuộc tấn công đầu tiên của quân và dân Việt Nam mở đầu cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Hiệu quả thực sự mà do họ tạo nên cho cuộc kháng chiến, cho lịch sử dân tộc là lòng yêu nước tha thiết, tinh thần sẵn sàng chiến đấu, dũng cảm hy sinh vì độc lập tự do của dân tộc. Họ trở thành tấm gương sáng cho các thế hệ sau noi theo. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Đình Chiểu, tiêu biểu nhất cho văn thơ yêu nước hồi cuối thế kỷ XIX của dân tộc - một tác gia thể hiện được tiết tháo của trí thức phong kiến, mà hơn nữa còn thể hiện được cả phí khách của người nông dân, của nhân dân lao động trong cuộc chiến đấu với quân thù. Ngôn ngữ văn học của Nguyễn Đình Chiểu có cái chất hồn nhiên, gân guốc của ngôn ngữ dân gian, đậm nét Nam bộ và khi cần thì lại có hình tượng sinh động, nhịp điệu hào hùng đã chiếm được tình cảm của người đọc.

Có người nói: “Văn học là tấm gương phản chiếu trung thực và đầy đủ cuộc sống về mọi khía cạnh, vật chất và tinh thần, những ý nghĩ tình cảm và mơ ước là hơi thở và nhịp điệu của con tim... Dù theo thể loại nào, một công trình sáng tác văn học có giá trị nếu nó phát ra được bức tranh làm rung động tâm hồn, truyền cho người xem tranh một sự thông cảm đối với cái đáng kính, đáng yêu, đáng khích lệ, cũng như một lòng phẫn nộ căm ghét đối với những điều bất công tàn bạo phi đạo lý. Từ một nhân vật, một sự kiện, một thói đời, một cảm nghĩ lấy ra từ thực tế, nhà văn có thể xây nên một công trình lỗi lạc, bất hủ...”. Bài “Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một tượng đài nghệ thuật vinh dự được xếp hàng trong danh mục các công trình nghệ thuật ấy của dân tộc.

Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đánh giá bài “Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc”: Ông đặt bài văn này ngang hàng với bài “Cáo Bình Ngô” của Nguyễn Trãi: “Một bên là bài ca về người anh hùng chiến thắng, một bên là bài ca về người anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang”.

Đánh giá về tác giả, cố Thủ tướng viết: “Nguyễn Đình Chiểu là ngôi sao càng nhìn càng sáng” trên bầu trời văn học của đất nước.

N.H.L

nguon VI OLET