Cảm nhận của em về hình tượng bà Tú trong bài "Thương vợ" của tác giả Trần Tế Xương

 

Trần Tế Xương còn được gọi là Tú Xương, quê ở Nam Định. Bản thân ông trên con đường

hoa cử lại không thành đạt mà chỉ đạt đến bậc Tú tài. Cá tính của ông thì đầy góc cạnh,

không chịu gò mình. Về sự nghiệp sáng tác, ông có trên 100 bài thơ, chủ yếu là thơ nôm

gồm hai mảng trào phúng và trữ tình. Trong đó tác phẩm "Thương vợ" của ông thuộc đề tài

nói về người vợ. Đây là một đề tài hiếm gặp trong thời kì văn học trung đại, và đó cũng có

thể là điều minh chứng cho tình yêu thương vô hạn và sự biết ơn của Tú Xương với vợ của

mình. 

Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú, đảo, đối, được chia làm bốn phần: đề - thực

- luận - kết. phần đầu là hình ảnh của bà Tú dưới cái nhìn của ông Tú.

                        "Quanh năm buôn bán ở mom sông

                          Nuôi đủ năm con với một chồng"

Công việc của bà Tú là buôn bán nhưng không phải ở trong chợ mà là ở mom sông, là một

nơi nguy hiểm, không vững chãi. Thời gian mà bà Tú phải làm là quanh năm thời điểm này

cho ta thấy công việc của bà phải làm là một công việc liên tục lặp lại khép kín không có thời

gian để bà nghỉ ngơi. Câu thứ hai khi đọc người đọc có thể cảm nhận phong cách viết thơ tự

trào hóm hỉnh của Tú Xương. Ông không chỉ kể ra rằng bà Tú đã phải nuôi đủ con và chồng

cả đủ ăn, đủ mặc, đủ tiêu xài cho những thói chơi tao nhã của nhà nho như Tế Xương. Ông

còn kể rất tỉ mỉ 'năm con', 'một chồng' và rồi còn tự tách hạ một mình mình đứng dưới cuối

câu tưởng chừng đang tự cho mọi người biết ông như một kẻ ăn bám lấy vợ và cũng cần

đến sự chăm lo của vợ giống các con mình. Thật đáng cười cho một nhà nho bám vợ như

ông.

                       "Lặn lội thân cò khi quãng vắng

                        Eo sèo mặt nước buổi đò đông"

Ở đây ta có thể thấy rõ tác giả đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ dùng trong thân cò, một hình

ảnh hay được đùng để ví von với người phụ nữ Việt có số phận cực khổ. Trong câu thơ thứ

ba tác giả đã đảo ngược từ lặn lội đứng trước danh từ chủ thể thân cò kết hợp với cụm từ

quãng vắng, ngoài ra có thể để ý ta sẽ thấy một sự đối lập ở hai câu ba và bốn giữa 'lặn lội'

và 'eo sèo'; 'khi quãng vắng' - 'buổi đò đông' cho thấy nỗi vất vả một mình của bà Tú vừa

phải gánh vác công việc để kiếm tiền đảm bảo một cuộc sống vừa đủ lại vừa phải lo toan

việc gia đình. Bốn câu thơ đầu nói nên cuộc sống bấp bênh của bà Tú nhưng dù vậy bà vẫn

chăm lo chu đáo cho gia đình. Nhà thơ thể hiện sự thán phục hình ảnh người phụ nữ tảo tần,

nhỏ bé, tiếp tục cực tả nỗi vất vả đơn chiếc nhưng  đồng thời cũng kín đáo tự nhận mình là

vô tích sự, làm khổ vợ con.

                        "Một duyên hai nợ âu đành phận

                         Năm nắng mười mưa dám quản công"

Ở hai câu năm và sáu đều sử dụng các thành ngữ dân gian như 'một duyên hai nợ' ; 'năm

nắng mười mưa' là những câu chữ nói nên sỗ phận cực khổ của một con người. Thành ngữ

ở câu năm phiếm chỉ duyên chỉ có một mà nợ đến những hai, gánh nặng thì nhiều mà hạnh

phúc và sự may mắn thì lại ít ỏi. Câu sáu với cách kết hợp từ tăng tiến ẩn dụ cho nỗi vất vả

nhọc nhằn cùng với nghệ thuật đối 'năm náng mười mưa' với 'dám quản công' thể hiện sự hi

sinh trầm lặng của bà Tú. Sử dụng thành ngữ nhấn mạnh người vợ không chỉ vất vả đảm

đang nhẫn  nại  mà  còn  hi  sinh  âm  thầm.  Từ  những  câu  thơ  trên  đã  khắc  họa  thành

công  Chân dung bà Tú điển hình cho người phụ nữ Viêt Nam, tảo tần, chịu thương, hi sinh,

chịu đựng. Tấm lòng thương vợ đến đây không chỉ thương xót, mà còn thương cảm thấm

thía.  Cuối  cùng  là  hình  ảnh  của  chính  Tế  Xương  qua  lời  trần  thuật  về  bà  Tú. 

                         "Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

                           Có chồng hờ hững cũng như không"

Hai câu cuối Tế Xương đã tự chửi thói đời sinh ra loại người như ông. Về phần này ông

muốn ám chỉ mắng cả những người giống ông trong xã hội thời bấy giờ. Dù là chồng nhưng

lại chẳng giúp gì được cho gia đình mà lại còn làm vợ khổ thêm.

Mặc dù yêu vợ nhưng lại không thể đỡ đần lo toan giùm vợ dù chỉ một phần nhỏ công việc

chỉ vì cái phép tắc lễn giáo đối với những nhà nho thời phong kiến, buộc bà Tú phải chịu

nhiều vất vả gian truân trong cuộc đời. Nhưng bà lại có niềm hạnh phúc là ngay lúc còn sống

đã được đi vào thơ ông Tú với tất cả niểm yêu thương, trân trọng của chồng. "Thương vợ" là

một trong nhưng bài thơ hay và cảm động nhất của Tú Xương viết về bà Tú, thể hiện được

vẻ đẹp của bà Tú, một người phụ nữ đảm đang, vị tha và quan trọng hơn là sự thể hiện tấm

lòng thương vợ, biết ơn vợ cũng như lời tự trách mình của Tú Xương

 

nguon VI OLET