CÂU HỎI

Câu 1:Anh chị hãy phân tích cơ sở lý luận và và nêu ra các yêu cầu  phương pháp luận của nguyên tắc khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang vận dụng nguyên tắc này như thế nào vào sự nghiệp xây dựng và phát  triển đất nước ta hiện nay ?

Câu 2: Phân tích cơ sở lý luận của khẳng định của Đảng Cộng sản Việt Nam: “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”.

 

Câu3 :Bằng lý luận và thực tiễn, chứng minh rằng: “Ý thức con người không chỉ phản ánh thế giới mà còn góp phần sáng tạo ra thế giới”.

 

Câu 4:Phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện. Vì sao trong hoạt động nhận thức và trong thực tiễn chúng ta phải tôn trọng nguyên tắc toàn diện? Vận dụng nguyên tắc này vào công cuộc đổi  mới ở nước ta hiện nay.

Gợi ý

-         Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lý về mối lien hệ phổ biến.                           

-         Nguyên tắc toàn diện là gì – các yêu cầu của nguyên tắc toàn diện?

-         Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn nếu tôn trọng nguyên tắc toàn diện sẽ mang lại kết quả gì ? Ngược lại nếu không tôn trọng nguyên tắc toàn diện sẽ mang lại hậu quả gì ?

-         Nguyên tắc toàn diện gợi mở cho chúng ta điều gì công cuộc xây dựng và phát triển đất nước ta hiện nay ?

 

Câu 5: Phân tích cơ sở lý luận và yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc toàn diện của phép biện chứng duy vật. Việc tuân thủ nguyên tắc này sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn?

 

Câu 6: Phân tích cơ sở lý luận và yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc phát triển của phép biện chứng duy vật. Việc tuân thủ nguyên tắc này sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn?

Câu 7: Phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển. Vì sao trong hoạt động nhận thức và trong thực tiễn chúng ta phải tôn trọng nguyên tắc phát triển? Vận dụng nguyên tắc này vào công cuộc đổi  mới ở nước ta hiện nay.

Gợi ý

-         Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển nguyên lý về sự phát triển.

-         Nguyên tắc phát triểnlà gì – các yêu cầu của nguyên tắcphát triển ?

-         Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn nếu tôn trọng nguyên tắc phát triểnsẽ mang lại kết quả gì ? Ngược lại nếu không tôn trọng nguyên tắc phát triểnsẽ mang lại hậu quả gì ?

-         Nguyên tắc phát triểngợi mở cho chúng ta điều gì công cuộc xây dựng và phát triển đất nước ta hiện nay ?

 

Câu 8: Phân tích cơ sở lý luận và yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc lịch sử - cụ thể của phép biện chứng duy vật. Việc tuân thủ nguyên tắc này sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn?

 

Câu 9: Phân tích nội dung nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của triết học Mác – Lênin. Vận dụng nguyên tắc này vào công cuộc đổi mới ở nưoc ta hiện nay.

 

Câu10: Phân tích nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Việc tuân thủ nguyên tắc này sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn?

 

Câu11: Hình thái kinh tế xã hội là gì? Ý nghĩa phương pháp luận của học thuyết hình thái kinh tế – xã hội? Phân tích tư tưởng của Mác: “Sự phát triển hình thái kinh tế – xã hội là quá trình lịch sử – tự nhiên”. Đảng CSVN đã vận dụng học thuyết hình thái KT-XH như thế nào vào thực tiễn cách mạng VN hiện nay?

 

Câu12:Phân tích nội dung cơ bản của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tại sao nói quy luật này là quy luật cơ bản và phổ biến nhất của xã hội lòai người. Đảng CSVN đã vận dụng quy luật này như thế nào vào quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.

 

Câu13:Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Đảng CSVN đã vận dụng mối quan hệ biện chứng này như thế nào vào quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay?

 

CÂU 14: Bằng hiểu biết của mình về nội dung của chủ nghĩa duy vật lịch sử, Anh ( chị) hãy làm sáng tỏ luận điểm sau đây của Lênin:

 “ Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học . Một lý luận hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự lộn xộn và sự tùy tiện, vẫn ngự trị từ trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử và chính trị”

Gợi ý

- Trước Mác các quan niệm về lịch sử mang tính duy tâm, phản khoa học…

-    C. Mác & Ăngghen đã vận dụng những nguyên lý của CNDVBC và PBCDV vào việc phân tích xã hội hình thành nên CNDVLS với những quan niệm duy vật và khoa học về lịch sử:

+ SXVC quyết định sự tồn tại, phát triển của xã hội; PTSX quyết định đời sống chính trị và tinh thần nói chung.

+ Sự phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử - tự nhiên ( theo các quy luật khách quan)

+ Nguồn gốc, bản chất, chức năng của nhà nước

+ Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội mang tính độc lập tương đối tác động trở lại tồn tại xã hội

+ Bản chất con người…

+ Quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo ra lịch sử

 

CÂU15: Hãy giải thích và chứng minh luận điểm sau đây của Lênin:

 Chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở  vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”

Gợi ý

-         Gải thích: Luận điểm trên chỉ rõ sự phát triển của xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên diễn ra theo các quy luật khách quan mà quy luật cơ bản, quan trọng nhất là quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; điều đó có nghĩa, xét tới cùng sự phát triển của xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên được bắt đầu từ sự phát triển của LLSX

-         Khái niệm HTKT – XH và cấu trúc của HTKT – XH

-         Chứng minh sự phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử - tự nhiên theo quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX, nghĩa là  được bắt đầu từ sự phát triển của LLSX.

 

CÂU 16: Giai cấp là gì? Bằng lý luận và thực tiễn, chứng minh rằng: “Trong mọi thời đại, những tư tưởng của giai cấp thống trị là những tư tưởng thống trị. Điều đó có nghĩa là giai cấp nào là lực lượng vật chất thống trị trong xã hội thì cũng là lực lượng tinh thần thống trị trong xã hội”.

Gợi ý

-         Giai cấp là gì?

-         Luận điểm trên chỉ rõ mối quan hệ biện chứng  giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, trong đó cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng

-         Về mặt lý luận:

   Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng

-         Về mặt thực tiễn

   Dùng thực tế lịch sử để chứng minh

 

Câu 17: Anh ( chị) hãyphân tích quan điểm của triết học Mác - Lênin về bản chất con người và vận dụng các quan điểm này vào việc phát huy nguồn lực con người ở Việt Nam hiện nay.

Gợi ý

-         Quan niệm về con người trong triết học Mác:

+  Con người là một thực thể sinh vật – xã hội

+  Trong tính hiện thực của nó bản chất của con người là tổng hòa các quan hệ xã hội

+ Con người vừa là sản phẩm vừa là chủ thể của lịch sử

-         Vận dụng các quan điểm về con người trong triết học Mác vào việc phát huy nguồn lực con người ở Việt Nam hiện nay:

+ Phải biết quan tâm đến con người bản năng

+ Phải biết quan tâm đến lợi ích vật chất của con người

+ Phải biết quan tâm đến lợi ích cá nhân,kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể

+ Phải biết kế thừa những giá trị tốt đẹp của con người trong quá khứ; đồng thời phải biết xây dựng mẫu người phù hợp với từng giai đoạn lịch sử…

-         Dùng thực tế lịch sử để chứng minh

 

 

 

BÀI LÀM

Câu 1: Phân tích cơ sở lý luận, nêu ra các yêu cầu phương pháp của nguyên tắc khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang vận dung nguyên tắc này như thế nào vào sự nghiệp cách mạng ở nước ta.

* Cơ sở lý luận:

Nguyên tắc khách quan trong xem xét được xây dựng dựa trên nội dung của nguyên lý về tính thống nhất vật chất của thế giới. Yêu cầu của nguyên tắc này được tóm tắt như sau :khi nhận thức khách thể (đối tượng), sự vật, hiện tượng tồn tại trong hiện thực – chủ thể tư duy phải nắm bắt, tái hiện nó trong chính nó mà không được thêm hay bớt một cách tùy tiện .

- Vật chất là cái có trước tư duy. Vật chất tồn tại vĩnh viễn và ở một giai đọan phát triển nhất định của mình nó mới sản sinh ra tư duy. Do tư duy phản ánh thế giới vật chất, nên trong quá trình nhận thức đối tượng ta không được xuất phát từ tư duy, từ ý kiến chủ quan của chúng ta về đối tượng.mà phải xuất phát từ chính bản thân đối tượng, từ bản chất của nó, không được ”bắt” đối tượng tuân theo tư duy mà phải “bắt” tư duy tuân theo đối tượng. Không ép đối tượng thỏa mãn một sơ đồ chủ quan hay một “Lôgíc” nào đó, mà phải rút ra những sơ đồ từ đối tượng, tái tạo trong tư duy các hình tượng, tư tưởng- cái lôgíc phát triển của chính đối tượng đó.

- Toàn bộ “nghệ thuật” chinh phục bản chất của sự vật, hiện tượng được gói ghém trong sự tìm kiếm, chọn lựa, sử dụng những con đường, cách thức, phương tiện thâm nhập hữu hiệu vào “thế giới” bên trong của sự vật. “nghệ thuật” chinh phục như thế không mang đến cho sự vật, hiện tượng một cái gì đó xa lạ với chính nó. Điều này đặt ra cho chủ thể một tình thế khó khăn. Làm như thế nào để biết chắc chắn những suy nghĩ của chúng ta về sư vật là khách quan, là phù hợp với bản thân sự vật? Nguyên tắc khách quan đòi hỏi được bổ sung thêm yêu cầu phát huy tính năng động sáng tạo của chủ thể và nguyên tắc tính đảng .

- Khi nhận thức các hiện tượng xã hội chúng ta phải chú trọng đến mức độ quan tâm và năng lực nhận thức của các lực lượng xã hội đối với việc giải quyết các vấn đề xã hội, đối với khuynh hướng phát triển của các hiện tượng xã hội, đối với việc đánh giá tình hình xã hội … những đánh giá có giá trị hơn, những cách giải quyết đúng hơn thường là những đánh giá, những cách giải quyết thuộc về các lực lượng xã hội biết đứng trên lập trường của giai cấp tiên tiến, của những lực lượng cách mạng của thời đại đó. Vì vậy tính khách quan trong xem xét các hiện tượng xã hội nhất quán với nguyên tắc tính đảng. Việc xem thường nguyên tắc này dễ dẫn đến vi phạm yêu cầu của nguyên tắc khách quan trong xem xét, dễ biến nó thành chủ nghĩa khách quan, cản trở việc nhận thức đúng đắn các hiện tượng xã hội phức tạp.

* Những yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc khách quan trong xem xét:

Nguyên tắc khách quan trong xem xét có mối liên hệ mật thiết với các nguyên tắc khác của lôgíc biện chứng. Nó thể hiện ở yêu cầu cụ thể sau:

+ Trong hoạt động nhận thức, Chủ thể phải:

- Một là: Xuất phát từ hiện thực khách quan, tái hiện lại nó như nó vốn có mà không được tùy tiện đưa ra những nhận định chủ quan.

- Hai là: Phải biết phát huy tính năng động, sáng tạo của chủ thể, đưa ra các giả thuyết khoa học có giá trị về khách thể, đồng thời biết cách tiến hành kiểm chứng các giả tuyết đó bằng thực nghiệm.

+ Trong hoạt động thực tiễn, Chủ thể phải :

- Một là: Xuất phát từ hiện thực khách quan, phát hiện ra những quy luật chi phối nó.

- Hai là: Dựa trên các quy luật khách quan đó, chúng ta vạch ra các mục tiêu, kế họach, tìm kiếm các biện pháp, phương thức để tổ chức thực hiện. Kịp thời điều chỉnh, uốn nắng họat động của con người đi theo lợi ích và mục đích đã đặt ra.

Phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức có nghĩa là phát huy vai trò tri thức, tình cảm, ý chí, lý trí… tức là phát huy vai trò nhân tố con người trong họat động nhận thức và họat động thực tiễn cải tạo hiện thực khách quan, vươn lên làm chủ thế giới.

* Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng như thế nào vào sự nghiệp cách mạng của Việt Nam:

 Phải tôn trọng hiện thực khách quan, tôn trọng vai trò quyết định của vật chất. Cụ thể là:

- Xuất phát từ hiện thực khách quan của đất nước, của thời đại để họach định các đường lối, chiến lược, sách lược nhằm xây dựng và phát triển đất nước.

- Biết tìm kiếm, khai thác và sử dụng những lực lượng vật chất để hiện thực hóa đường lối, chiến lược, sách lược nhằm xây dựng và phát triển đất nước.

- Coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, coi đại đòan kết tòan dân tộc là động lực chủ yếu để phát triển đất nước. Biết kết hợp hài hòa các lợi ích khác nhau (lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị, lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần, lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội...) thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy công cuộc đổi mới.

- Đảng ta rút ra những bài học kinh nghiệm từ những sai lầm, thất bại trước đổi mới, Đảng ta kết luận: “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”.

Câu 2: Phân tích cơ sở triết học (lý luận và phương pháp luận) trong khẳng định của Đảng cộng sản Việt Nam "Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng qui luật khách quan".

Ngay từ khi ra đời, Đảng cộng sản Việt Nam đã lấy chủ nghĩa Mác Lênin làm nền tảng tư tưởng và vận dụng tư tưởng lý luận đó vào thực tế cách mạng nước ta để đề ra đường lối, chủ trương, chính sách qua từng thời kỳ. Một trong những vận dụng cơ sở lý luận của triết học Mác Lênin vào công cuộc đổi mới đất nước mà Đảng đã khởi xướng bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ IV là nguyên tắc khách quan, một nguyên tắc được rút ra từ mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Đảng cộng sản Việt Nam "Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng qui luật khách quan". Việc tìm hiểu quy luật khách quan trên cơ sở mối quan hệ giữa vật chất và ý thức để vận dụng đúng đắn quy luật này vào thực tiễn là vấn đề hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.

 Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết học. Phạm trù vật chất và mối liên hệ giữa vật chất và ý thức đã được các nhà triết học trước Mác quan tâm với nhiều quan điểm khác nhau và luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trong suốt lịch sử của triết học .

 Quan điểm Mácxit cho rằng chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế giới vật chất tồn tại khách quan có trước và độc lập với ý thức con người. Lênin –người đã bảo vệ và phát triển triết học Mác đã nêu ra định nghĩa “vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại để làm cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại ,chụp lại ,phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.

 Vật chất là một phạm trù triết học: Đó là một phạm trù rộng và khái quát nhất , không thể hiểu theo nghĩa hẹp như các khái niệm vật chất thường dùng trong các lĩnh vực khoa học cụ thể hoặc đời sống hàng ngày. Thuộc tính cơ bản nhất của vật chất là “thực tại khách quan” , “tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”, đó cũng chính là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất và cái gì không phải là vật chất.

 Vật chất quyết định ý thức, vật chất quyết định nội dung ý thức. Cả ý thức thông thường và ý thức lý luận đều bắt nguồn từ điều kiện tự nhiên và xã hội nhất định . Phong tục, tập quán , thói quen nầy nẩy sinh trên những điều kiện vật chất nhất định đó là thực tiển xã hội –lịch sử. Chủ nghĩa xã hội khoa học đời cũng dựa trên mảnh đất hiện thực là những tiên đề về kinh tế chính trị xã hội, về khoa học tự nhiên và sự kế thừa tinh hoa tư tưởng , văn hoá nhân loại cùng với thiên tài của Mác và Ăngghen .

 Do thực tại khách quan luôn luôn biến động vận động nên nhận thức của nó củng luôn luôn biến đổi theo, nhưng xét đến cùng thì vật chất bao giờ củng quyết định ý thức . Nhưng ý thức đã ra đời thì nó có tác động lại vật chất . Với tính độc lập tương đối của mình ý thức tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiển của con người .

 Quán triệt quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức của triết học Mác xit. Trong nhận thức và thực tiễn , chúng ta phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình . Đồng thời phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố của con người trong việc nhận thức, tác động cải tạo thế giới. Quan điểm khách quan trên giúp ta ngăn ngừa và khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí.

 Bệnh chủ quan duy ý trí là xuất phát từ việc cường điệu tính sáng tạo của ý thức, tuyệt đối hoá vai trò nhân tố chủ quan của ý chí, bất chấp qui luật khách quan, xa rời hiện thực, phủ nhận xem nhẹ điều kiện vật chất .

 Ở nước ta , trong thời kỳ trước đổi mới. Đảng ta đã nhận định rằng chúng ta mắt bệnh chủ quan duy ý chí trong việc xác định mục tiêu và bước đi trong việc xây dựng vật chất kỹ thuật và cải tạo xã hội chủ nghĩa ; về bố trí cơ cấu kinh tế; về việc sử dụng các thành phần kinh tế ….Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa ,sử dụng các thành phần kinh tế , đã có hiện tượng nóng vọi muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa , nhanh chống biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh trong khi đúng ra là phải duy trì thực hiện phát triển các thành phần kinh tế theo từng bước đi thích hợp , phù hợp với thời kỳ quá độ trong một thời gian tương đối dài để phát triển lực lượng sản xuất.

 Nguyên nhân của căn bệnh chủ quan duy ý chí trên là do sự lạc hậu, yếu kém về lý luận, do tâm lý của người sản xuất nhỏ và do chúng ta kéo dài chế độ quan liêu bao cấp.

 Văn kiện Đại Hội toàn quốc lần thứ 6 của Đảng ta đã nêu lên bài học :”Đảng ta luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo qui luật khách quan". Chúng ta biết rằng quan điểm khách quan đòi hỏi trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ bản thân sự vật hiện tượng, phải thừa nhận và tôn trọng tính khách quan của vật chất, của các qui luật tự nhiên và xã hội, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan.

 Bài học mà Đảng ta đã nêu ra , trước hết đòi hỏi Đảng nhận thức đúng đắn và hành động phù hợp với hệ thống qui luật khách quan. Tiếp tục đổi mới tư  duy lý luận, nhất là tư duy về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là xây dựng CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài nhiều chặn đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế xã hội có tính chất quá độ .

 Mổi chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước phải xuất phát từ thực tế khách quan của đất nước và phù hợp qui luật . Chúng ta biết rằng ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan trong quá trình con người cải tạo thế giới . Do đó càng nắm bắt thông tin về thực tế khách quan chính xác , đầy đủ trung thực và sử lý các thông tin ấy một cách khoa học thì quá trình cải tạo thế giới càng hiệu quả .Đồng thời cần thấy rằng sức mạnh của ý thức là ở năng lực nhận thức và vận dụng tri thức củng như các qui luật của thế giới khách quan .

 Xuất phát từ mối quan hệ biên chứng giữa vật chất và ý thức . Đảng ta xác định "Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng qui luật khách quan” là xác định vai trò quyết định của vật chất (thế giới khách quan). Như vậy , từ chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ vật chất và ý thức, củng như từ những kinh nghiệm thành công và thất bại trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, Đảng ta đả rút ra bài học trên.

 Bài học ấy có ý nghĩa thời sự nóng hổi trong quá trình đổi mới đất nước. Hiện nay, trong tình hình đổi mới của cục diện thế giới và của cách mạng ở nước ta đòi hỏi Đảng ta không ngừng phát huy sự hiệu quả lảnh đạo của mình thông qua việc nhận thức đúng, tranh thủ được thời cơ do cách mạng khoa học công nghệ, do xu thế hội nhập và toàn cầu hoá đem lại, đồng thời xác định rỏ những thách thức mà cách mạng nước a trãi qua.

Câu 3: Bằng lý luận và thực tiễn chứng minh rằng "Ý thức con người không chỉ phản ánh thế giới mà còn góp phần sáng tạo ra thế giới ?

Ý thức của con người theo triết học duy vật biện chứng không phải là một hiện tượng thần bí, tách rời khỏi vật chất mà là đặc tính của một dạng vật chất có tổ chức đặc biệt là bộ óc của con người, là sự phản ánh sự vật, hiện tượng của thế giới bên ngoài vào bộ óc của con người trên nền tảng của hoạt động lao động sáng tạo và được hiện thực hóa bằng ngôn ngữ. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.

Ý thức con người có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội

Nguồn gốc tự nhiên: Triết học DVBC chỉ ra rằng, phản ánh là thuộc tính chung của mọi vạn vật chất. Đó là năng lực giữ lại, tái hiện lại của 01 hệ thống vật chất này những đặc điểm của của một hệ thống vật chất khác khi 02 hệ thống vật chất đó tác động lẫn nhau. Cùng với sự phát triển của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh của nó cũng phát triển từ thấp lên cao. Như vậy ý thức là thuộc tính của 01 dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não người. Não người và sự phản ánh của thế giới khách quan vao não người chính là nguồn gốc tự nhiên của ý thức

Nguồn gốc xã hội: Triết học DVBC chỉ ra rằng, chính lao động và ngôn ngữ là 02 nguồn gốc xã hội Quyết định trực tiếp đến sự hình thành và phát triển của ý thức Chính lao động đóng vai trò Quyết định trong sự chuyển biến từ vượn thành người, làm cho con người khác với tất cả động vật khác. Lao động giúp con người cải tạo thế giới và hoàn thiện chính mình. Thông qua lao động não người càng ngày càng hoàn thiện, phát triển giúp tư duy trừu tượng phát triển. Chính lao động là cơ sở hình thành, phát triển của ngôn ngữ . Sự ra đời của ngôn ngữ sẽ giúp con người phản ánh sự vật khái quát hơn. Điều này càng thúc đẩy tư duy trừu tượng phát triển . Đây là 02 yếu tố quan trọng để phát triển ý thức. Lao động và ngôn ngữ là “hai sức kích thích chủ yếu” để bộ não vượn thành bộ não người, phản ánh tâm lý động vật thành phản ánh ý thức.

Về bản chất của ý thức: Các Mác đã chỉ ra rằng ý thức chẳng qua chỉ là vật chất được di chuyển vào trong bộ óc của con người và được cải biến đi ở trong đó. Như vậy bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Có nghĩa là nội dung của ý thức là do thế giới khách quan quy định, nhưng khi phản ánh thì nó mang dấu ấn chủ quan của con người.

- Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào óc người nhưng đó là phản ánh sáng tạo. Tính sáng tạo của ý thức được thể hiện ra rất phong phú. Trên cơ sở những cái đã có, ý thức có thể tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra cái không có trong thực tế. ý thức có thể tiên đoán, dự báo tương lai, có thể tạo ra những huyền thoại, những giả thuyết ...

- Phản ánh của ý thức là tích cực, chủ động: con người trên cơ sở hoạt động thực tiễn, chủ động tác động vào sự vật hiện tượng làm cho chúng bộc lộ tính chất, thuộc tính, đặc điểm   hiểu biết vận dụng tri thức để  nhận thức và cải tạo TGKQ.

- Ý thức mang bản chất xã hội

Khi thừa nhận vật chất tồn tại bên ngoài và độc lập với ý thức, quyết định ý thức thì sự nhận thức thế giới không thể xuất phát từ ý thức con người, mà phải xuất phát từ thế giới khách quan.Trong hoạt động thực tiễn phải tôn trọng và hành động theo các quy luật khách quan. Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh rằng không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, lấy ý chí áp đặt cho thực tế vì như vậy sẽ mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí.Tuy nhiên, chủ nghĩa duy vật đồng thời vạch rõ sự tác động trở lại vô cùng to lớn của ý thức đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Quan hệ giữa vật chất và ý thức là quan hệ hai chiều. Không thấy điều đó sẽ rơi vào quan niệm duy vật tầm thường và bệnh bảo thủ, trì trệ trong nhận thức và hành động.

Nói tới vai trò của ý thức thực chất là nói tới vai trò của con người, vì ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực cả. Do đó, muốn thực hiện tư tưởng phải sử dụng lực lượng thực tiễn. Nghĩa là con người muốn thực hiện quy luật khách quan thì phải nhận thức, vận dụng đúng đắn những quy luật đó, phải có ý chí và phương pháp để tổ chức hành động. Vai trò của ý thức là ở chỗ chỉ đạo hoạt động của con người, có thể quyết định làm cho con người hành động đúng hay sai, thành công hay thất bại trên cơ sở những điều kiện khách quan nhất định. Do đó, con người càng phản ánh đầy đủ, chính xác thế giới khách quan thì càng cải tạo thế giới có hiệu quả "Ý thức con người không chỉ phản ánh thế giới mà còn góp phần sáng tạo ra thế giới". Vì vậy, phải phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người để tác động, cải tạo thế giới khách quan.

Từ quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức ta thấy không được xem nhẹ quan điểm khách quan, tính năng động, sáng tạo của ý thức mà nó còn đòi hỏi phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, của nhân tố chủ quan. Bởi vì quá trình đạt tới tính khách quan đòi hỏi chủ thể phải phát huy tính năng động, sáng tạo trong việc tìm ra những biện pháp, những con đường để từng bước thâm nhập sâu vào bản chất của sự vật, trên cơ sở đó con người thực hiện sự biến đổi từ cái “vật tự nó” (tức thực tại khách quan) thành cái phục vụ cho nhu cầu của con người đồng thời sử dụng hiệu quả các điều kiện, sức mạnh vật chất khách quan, sức mạnh của quy luật … để phục vụ cho các mục tiêu, mục đích khác nhau của con người.

Nếu trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta tuyệt đối hóa, cường điệu hóa vai trò của nhân tố chủ quan thì sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của xã hội và rơi vào bệnh bệnh bảo thủ trì trệ. Đây là khuynh hướng sai lầm cực đoan do cường điệu hóa vai trò của vật chất, sùng bái sức mạnh của quy luật, hạ thấp vai trò của nhân tố chủ quan. Khuynh hướng bảo thủ sẽ dẫn đến tình trạng ỷ lại, chậm đổi mới, ngại thay đổi, dựa dẫm, chờ đợi, thậm chí cản trở cái mới, bằng lòng thỏa mãn với cái đã có.

Liên hệ thực tế: Bệnh bảo thủ trì trệ là một thực tế tồn tại trong thời kỳ khá dài trước đổi mới (trước Đại hội lần VI tháng 12-1986). Trong giai đoạn này, tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội ngày càng trầm trọng xuất phát từ bảo thủ có tác hại rất lớn. Bênh bảo thủ trì trệ được biểu hiện qua việc “chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã lỗi thời”, trong công tác tổ chức thời kỳ này “khuyết điểm lớn nhất là sự trì trệ, chậm đổi mới công tác cán bộ. Việc lựa chọn, bố trí cán bộ vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý các cấp còn theo quan niệm cũ kỹ  và tiêu chuẩn không đúng đắn, mang nặng tính hình thức..” Đảng ta đã “duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp” - một cơ chế "gắn liền với tư duy kinh tế dựa trên những quan niệm giản đơn về chủ nghĩa xã hội, mang nặng tính chất chủ quan, duy ý chí".

Bệnh bảo thủ trì trệ có nguyên nhân từ sự yếu kém lạc hậu về tư duy lý luận, trí thức lý luận không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Sự giản đơn yếu kém về lý luận thể hiện ở chổ: hiểu và vận dụng chưa đúng nguyên lý, quy luật, phạm trù, chưa chú ý tiếp thu kế thừa những thành tựu, kỹ thuật công nghệ mới của chủ nghĩa tư bản, của nhân loại, thậm chí còn có định kiến phủ nhận một cách cực đoan những thành tựu đó, chưa chú ý tổng kết những cái mới từ sự vận động, phát triển của thực tiễn theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì nguyên nhân của bệnh chủ quan là kém lý luận, lý luận là lý luận suông. Còn do nguồn gốc lịch sử, xã hội, giai cấp, tâm lý của con người chi phối.

  Nhờ vận dụng đúng đắn các quy luật thông qua các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân từng bước được ổn định và nâng cao, chế độ XHCN ngày càng củng cố và đất nước đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội và đang có những bước chuyển biến tích cực trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội.

Tóm lại, từ những phân tích trên cho thắng lợi của công cuộc đổi mới có được là dựa trên một nền tảng tư tưởng đúng, đó là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh mà trong đó sự quán triệt và vận dụng đúng quy luật, nguyên tắc khách quan là điều kiện đảm bảo sự dẫn dắt đúng đắn của Đảng.

 

Câu 4: Anh/Chị hãy nêu những yêu cầu phương pháp luận và phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện. Việc tuân thủ nguyên tắc này sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong hoạt động nhận thức và họat động thực tiễn?

Trả lời:  (Tham khảo thêm sách TH  - P2, trang 70).

a/ Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện: là nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.

MLHPB là mối liên hệ giữa các mặt (thuộc tính) đối lập tồn tại trong mọi sự vật, trong mọi lĩnh vực hiện thực.

MLHPB mang tính khách quan và phổ biến. Nó chi phối tổng quá sự tồn tại , vận động, phát triển của mọi sự vật, quá trình xảy ra trong thế giới; và là đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng. Nó được nhận thức trong các cặp phạm trù (mặt đối lập- mặt đối lập; chất-lượng; cái cũ-cái mới; cái riêng-cái chung; nguyên nhân- kết quả; nội dung-hình thức; bản chất- hiện tượng; tất nhiên- ngẫu nhiên; khả năng- hiện thực.

  • Nội dung nguyên lý:

-         Mọi sự vật, hiện tượng hay quá trình (vạn vật) trong thế giới đều tồn tại trong muôn vàn mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau. Mối liên hệ tồn tại khách quan, phổ biến và đa dạng.

-         Trong muôn vàn mối liên hệ chi phối sự tồn tại của chúng có những mối liên hệ phổ biến. Mối liên hệ phổ biến tồn tại khách quan, phổ biến; chúng chi phối một cách tổng quát quá trình vận động, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong thế giới.

b/ Những yêu cầu về Phương pháp luận:

-         Trong hoạt động nhận thức chủ thể phải:

  •     Tìm hiểu, phát hiện càng nhiều mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố…) đang chi phối sự tồn tại của bản thân sự vật càng tốt.
  •        Phân loại để xác định quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố…) nào là bên trong, cơ bản, tất nhiên, ổn định…; còn những mối liên hệ nào là bên ngoài, ko cơ bản, ngẫu nhiên.
  •        Dựa trên các MLH, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố…) bên trong đế lý giải các MLH, quan hệ còn lại.  Qua đó, xây dựng hình ảnh về SV như sự thống nhất các MLH; phát hiện ra đặc điểm, tính chất, quy luật (bản chất) của nó.

-            Trong hoạt động thực tiễn, chủ thể phải:

  •        Đánh giá đúng vai trò của từng MLH, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố…)  chi phối SV.
  •        Thông qua hoạt động thực tiễn sử dụng nhiều biện pháp thích hợp để biến đổi những MLH, đặc biệt là những MLH bên trong, cơ bản, tất nhiên, quan trọng…
  •           Nắm vững sự chuyển hóa các MLH, kịp thời đưa ra các biện pháp bổ sung để phát huy / hạn chế sự tác động của chúng, lái SV theo đúng quy luật và hợp lợi ích chúng ta.

c/ Việc tuân thủ nguyên tắc này sẽ khắc phục được những hạn chế trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn:

→ Quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tác toàn diện sẽ khắc phục được chủ nghĩa phiến diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy biện, ...trong hoạt động thực tiễn và nhận thức của chính mình.

+ Chủ nghĩa phiến diện: là cách xem xét chỉ thấy ở một mặt, một mối quan hệ, một tính chất hay từ một phương diện nào đó mà không thấy được nhiều mặt, nhiều mối liên hệ nhiều tính chất cúa sự vật.

+ Chủ nghĩa chiết trung: là cách xem xét chỉ chú ý đến nhiều mặt, nhiều mối liên hệ nhưng ko rút ra được bản chất, mối liên hệ cơ bản của sự vật mà coi chúng như nhau, kết hợp chúng một cách vô nguyên tắc, tùy tiện

+ Chủ nghĩa ngụy biện: Cách xem xét qua đó đánh tráo cái cơ bản với cái không cơ bản, cái chủ yếu với cái thứ yếu… hay ngược lại nhằm đạt được mục đích hay lợi ích của mình một cách tinh vi.

Trong đời sống XH, nguyên tắc toàn diện có vai trò cục kỳ quan trọng. Nó đòi hỏi chúng ta không chỉ liên hệ nhận thức với nhận thức mà cần phải liên hệ nhận thức với thực tiễn cuộc sống, phải chú ý đến lợi ích của các chủ thể khác nhau trong xã hội và biết phân biệt đâu là lợi ích cơ bản và lợi ích ko cơ bản.

Câu 5: Phân tích cơ sở lý luận và yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc toàn diện của phép biện chứng duy vật. Việc tuân thủ nguyên tắc này sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn?

A/ Cơ sở lý luận:

Mối liên hệ và MLH phổ biến:

-       Mối liên hệ là sự tác động ràng buộc, thâm nhập… lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay quá trình (vạn vật) mà trong đó sự thay đổi của cái này mà tất yếu kéo theo sự thay đổi của các kia. Đối lập với mối liên hệ là sự khác biệt. Sự tách biệt cũng là sự tác động qua lại giữa các sự vật, hiện tượng hay quá trình nhưng sự thay đổi của cái này sẽ ko tất yếu kéo theo sự thay đổi của cái kia. Do vậy mà vạn vật trong thế giới đều luôn tác động lẫn nhau, nhưng có một số tác động dẫn đến sự thay đổi, tức còn nằm trong trạng thái ổn định. Vạn vật vừa tách biệt vừa liên hệ, vừa là nó vừa ko là nó. Thế giới vật chất là một hệ thống thống nhất mọi yếu tố, bộ phận của nó. Chính nhờ sự thống nhất vật chất mà vạn vật luôn tác động qua lại lẫn nhau.

+ Mối liên hệ mang tính khách quan, tính phổ biến.

+ Mối liên hệ mang tính đa dạng. Nó có thể được chia ra thành: MLH bên trong và MLH bên ngoài; MLH trong tự nhiên, MLH trong xã hội và MLH trong tư duy; MLH riêng, MLH chung và MLH phổ biến;… Vai trò các MLH khác nhau là ko giống nhau.

-       MLH phổ biến là MLH giữa các mặt (thuộc tính) đối lập tồn tại trong mọi sự vật, trong mọi lĩnh vực hiện thực.

+ MLH phổ biến cũng mang tính khách quan và bổ biến. Nó chi phối tổng quát sự tồn tại, vận động, phát triển của mọi sự vật, quá trình xảy ra trong thế giới; và là đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng.

+ MLH phổ biến được nhận thức trong các (cặp) phạm trù biện chứng như MLH giữa: mặt đối lập - mặt đối lập; chất - lượng; cái cũ – cái mới; cái riêng – cái chung; nguyên nhân - kết quả; nội dung – hình thức; bản chất - hiện tượng; tất nhiên - ngẫu nhiên; khả năng - hiện thực.

Nội dung nguyên lý:

-       Mọi sự vật, hiện tượng hay quá trình (vạn vật) trong thế giới đều tồn tại trong muôn vàn MLH ràng buộc lẫn nhau. MLH tồn tại khách quan, phổ biến và đa dạng.

-       Trong muôn vàn MLH chi phối sự tồn tại của chúng có những MLH phổ biế. MLH phổ biến tồn tại khách quan, phổ biến; chúng chi phối một cách tổng quát quá trình vận động, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong thế giới.

B/ Yêu cầu phương pháp luận:

Trong hoạt động nhận thức chủ thể phải:

-       Tìm hiểu, phát hiện càng nhiều MLH, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) đang chi phối sự tồn tại của bản thân sự vật càng tốt. Phải xem xét sự vật từ khắp góc độ, từ nhiều phương diện càng tốt;

-       Phân loại để xác định những MLH, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…) nào là bên trong, cơ bản, tất nhiên, ổn định…; còn những MLH, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…) nào là bên ngoài, không cơ bản, ngẫu nhiên, không ổn định…;

-       Dựa trên những MLH, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…) bên trong, cơ bản, tất nhiên, ổn định… để lý giải được những MLH, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…) còn lại. Qua đó xây dựng một hình ảnh về sự vật như sự thống nhất các MLH, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…); phát hiện ra quy luật (bản chất) của nó.

Trong hoạt động thực tiễn chủ thể phải:

-       Đánh giá đúng vai trò của từng MLH, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…)  chi phối sự vật.

-       Thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng đồng bộ nhiểu công cụ, phương tiện, biện pháp thích hợp (mà trước hết là những công cụ, phương tiện, biện pháp vật chất) để biến đổi những MLH, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…) của bản thân sự vật, đặc biệt là những MLH, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…) bên trong, cơ bản, tất nhiên, quan trọng…. của nó.

-       Nắm vững sự chuyển hóa các MLH, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…) của bản thân sự vật, kịp thời sử dụng các công cụ, phương tiện, biện pháp bổ sung để phát huy hay hạn chế sự tác động của chúng, nhằm lèo lái sự vật vận động, phát triển theo đúng quy luật và hợp lợi ích chúng ta.

C/ Việc tuân thủ và vận dụng sáng tạo nguyên tắc toàn diện sẽ giúp chủ thể khắc phục được chủ nghĩa phiến diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy biện,… trong hoạt động thực tiễn và nhận thức của mình.

-       Chủ nghĩa phiến diện là cách xem xét chỉ thấy một mặt, một mối quan hệ, tính chất nào đó mà ko thấy được nhiểu mặt, nhiều MQH, nhiều tính chất của sự vật; chỉ xem xét sự vật ở một góc độ hay từ một phương diện nào đó mà thôi.

-       CN chiết trung là cách xem xét chỉ chú ý đến nhiều mặt, nhiều MLH của sự vật nhưng ko rút ra được mặt bản chất, ko thấy đc MLH cơ bản của sự vật; mà coi chúng như nhau, kết hợp chúng một cách vô nguyên tắc, tùy tiện.

-       CN ngụy biện là cách xem xét qua đó đánh tráo cái cơ bản với cái ko cơ bản, cái chủ yếu với cái thứ yếu,… hay ngược lại nhằm đạt được mục đích hay lợi ích của mình một cách tinh vi.

 

 Câu 6: Phân tích cơ sở lý luận và yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc phát triển của phép biện chứng duy vật. Việc tuân thủ nguyên tắc này sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn?

 1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển của phép biện chứng duy vật:

 Trước khi tìm hiểu nguyên tắc phát triển của phép biện chứng duy vật ta làm rõ một số khái niệm liên quan đến nguyên tắc phát triển như sau:

-   Vận động là gì?. Vận động là một thuộc tính cố hữu, là phương thức tồn tại của vật chất, vận động được hiểu như sự thay đổi nói chung. “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”. 

-   Phát triển là gì?. Là khuynh hướng vận động tiến lên từ thấp đến cao (thay đổi về lượng), từ đơn giản đến phức tạp (thay đổi về chất), từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện (thay đổi lượng – chất), do việc giải quyết mâu thuẫn trong bản chất sự vật gây ra, được thực hiện thông qua bước nhảy về chất và diễn ra theo xu hướng phủ định của phủ định. Ở khía cạnh khác, phát triển cũng được xem là một khuynh hướng vận động tổng hợp của một hệ thống sự vật trong đó, sự vận động có thay đổi những quy định về chất (thay đổi – kết cấu tổ chức) của hệ thông sự vật theo xu hướng tiến bộ giữ vai trò chủ đạo; còn sự vận động có thay đổi những quy định về chất của hệ thông – sự vật theo xu hướng thoái bộ và sự vận động chỉ có thay đổi những quy định về  lượng của hệ thống – sự vật theo xu hướng ổn định giữ vai trò chủ đạo, cần thiết cho xu hướng chủ đạo trên. Theo cách hiểu này, trong quá trình phát triển của hệ thông sự vật vật chất xảy ra trong thế giới, không chỉ là sự thay đổi tiến bộ mà còn chứa trong mình những sự thay đôi thoái bộ tạm thời, không chỉ là sự thay đổi mà còn chứa trong mình những sự ổn định tương đối.

Phát triển là quá trình tự thân của thế giới vật chất, mang tính khách quan, phổ biến và đa dạng. phát triển trong thế giới tự nhiên vô sinh, hữu sinh, phát triển trong xã hội phát triển trong tư duy, tinh thần. Phát triển xảy ra khi có sự thay đổi/ chuyển hoá giữa các mặt đối lập, giữa lượng và chất, giữa cái cũ và cái mới, giữa cái riêng và cái chung, giữa nguyên nhân và kết quả, giữa nội dung là hình thức, giữa bản chất và hiện tượng, giữa tất nhiên và ngẫu nhiên, giữa khả năng và hiện thực.

Nội dung của nguyên lý phát triển là: Mọi sự vật hiện tượng trong thế giới đều không ngừng vận động và phát triển. Phát triển mang tính khách quan - phổ biến, là khuynh hướng vận động tổng hợp tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện của một hệ thống vật chất, do việc giải quyết mâu thuẫn, thực hiện bước nhảy về chất gây ra theo xu thế phủ định của phủ định.

2. Những yêu cầu của nguyên tắc phát triển:

a) Trong hoạt động nhận thức, chủ thể phải:

- Phát hiện những xu hướng, khả năng biến đổi, chuyển hoá giữa những giai đoạn tồn tại của bản thân sự vật trong sự tự vận động và phát triển của chính nó.

- Xây dựng được hình ảnh về sự vật như sự thống nhất các xu hướng, những giai đoạn thay đổi của nó, từ đó, phát hiện ra quy luật vận động và phát triển (bản chất) của sự vật hiện tượng.

b) Trong hoạt động thực tiễn, chủ thể phải:

- Chú trọng đến mọi điều kiện, khả năng,.. tồn tại của sự vật để nhận định đúng các xu hướng, những giai đoạn thay đổi có thể xảy ra với nó.

- Thông qua thực tiễn, sử dụng nhiều công cụ, phương tiện thích hợp (mà trước hết là những công cụ, phương tiện, biện pháp vật chất) để biến đổi những điều kiện, phát huy hay hạn chế những khả năng tồn tại của sự vật nhằm lèo lái sự vật vận động, phát triển theo hướng hợp quy luật và có lợi cho ta.

3. Việc tuân thủ nguyên tắc này sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn:

Quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tắc phát triển sẽ giúp chủ thể khắc phục được quan điểm (tư duy) siêu hình, lối xem xét cứng nhắc, đầu óc bảo thủ, giáo điều,…trong hoạt động thực tiễn và nhận thức của chính mình.

Nguyên tắc phát triển đòi hỏi chủ thể phải sử dụng các nguyên tắc kèm theo mới làm sáng tỏ bản tính vận động và phát triển tự thâm của sự vật như nguyên tắc (phân tích) mâu thuẫn, nguyên tắc phân tích lượng – chất, nguyên tắc phủ định biện chứng./.

 

Câu 7: Phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển. Vì sao trong hoạt động nhận thức và trong thực tiễn chúng ta phải tôn trọng nguyên tắc phát triển? Vận dụng nguyên tắc này vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.

Trả lời:

I. Phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển

I.1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển nguyên lý về sự phát triển

 Nguyên tắc phát triển cũng là một trong những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng của hoạt động nhận thức thực tiễn. Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển là nguyên lý về sự phát triển của phép biện chựng duy vật.

 Theo đó, sự phát triển là vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Phát triển là trường hợp đặc biệt của sự vận động và trong sự phát triển sẽ nảy sinh những tính quy định quy định mới, cao hơn về chất, nhờ đó, làm cho cơ cấu tổ chức, phương thức tồn tại và vận động của sự việc, hiện tượng cùng chức năng của nó ngày càng hoàn thiện hơn. Do vậy, để nhận thức được sự tự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng chúng ta phải thấy được sự thống nhất giữa sự biến đổi về lượng với sự biến đổi về chất trong quá trình phát triển, phải chỉ ra được nguồn gốc và động lực bên trong, nghĩa là tìm ra và biết cách giải quyết mâu thuẫn, phải xác định xu hướng phát triển của sự vật, hiện tượng do sự phủ định biện chứng quy định; coi phủ định là tiền đề cho sự ra đời của sự vật hiện tượng mới.

 Yêu cầu của nguyên tắc phát triển

- Nguyên tắc phát triển yêu cầu, khi xem xét sự vật, hiện tượng phải đặt nó

trong trạng thái vận động, biến đổi chuyển hoá để không chỉ nhận thức sự vật,

hiện tượng trong trạng thái hiện tại mà còn thấy được khuynh hướng phát triển

của nó trong tương lai, nghĩa là phải phân tích để làm rõ những biến đổi của sự

vật, hiện tượng.
- Nguyên tắc phát triển yêu cầu, phải nhận thức sự phát triển là quá trình trải

qua nhiều giai đoạn từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn

thiện đến hoàn thiện hơn. Mỗi giai đoạn phát triển lại có những đặc điểm, tính

chất, hình thức khác nhau.

- Nguyên tắc phát triển đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực

tiễn phải nhạy cảm với cái mới, sớm phát hiện ra cái mới, ủng hộ cái mới hợp

quy luật, tạo điều kiện cho cái mới đó phát triển thay thế cái cũ, phải chống lại

quan điểm bảo thủ, trì trệ ...Sự thay thế cái cũ bằng cái mới diễn ra rất phức

tạp bởi cái mới phải đấu tranh chống lại cái cũ, chiến thắng cái cũ.

Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn nếu tôn trọng nguyên tắc phát triển sẽ mang lại kết quả gì

Tuân theo những đòi hỏi đó của quan điểm phát triển sẽ góp phần khắc phục bệnh bảo thủ trì trệ và bệnh giáo điều trong tư duy cũng như trong hành động thực tiễn. Bệnh bảo thủ trì trệ là tình trạng ỷ lại, chậm đổi mới, ngại thay đổi, dựa dẫm, chờ đợi, thậm chí cản trở cái mới, bằng lòng thỏa mãn với cái đã có. Đôi khi bệnh bảo thủ biểu hiện qua những định kiến. Bệnh bảo thủ trì trệ cũng gắn liền với bệnh giáo điều, đó là khuynh hướng tuyệt đối hóa lý luận, coi thường kinh nghiệm thực tiễn, coi lý luận là bất di bất dịch, việc nắm lý luận chỉ dừng lại ở những nguyên lý chung trừu tượng, không chú ý đến những hoàn chỉnh lịch sử cụ thể của sự vận dụng lý luận. Bệnh giáo điều có 2 dạng : giáo điều lý luận và giáo điều kinh nghiệm. Bệnh giáo điều lý luận là việc thuộc lòng lý luận, cho rằng áp dụng lý luận áp dụng vào đâu cũng được không xem xét điều kiện cụ thể của mình. Ví dụ như theo Mác thì phải xóa bỏ tư hữu dẫn đến việc ta tiến hành cải tạo XHCN xóa tất cả các thành phần kinh tế nhằm mục đích chỉ còn 2 thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể mà không thấy được rằng "Nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ", sự có mặt của nhiều thành phần kinh tế với các mối quan hệ tác động qua lại của nó sẽ tạo động lực cho sự phát triển kinh tế trong giai đoạn này. Bệnh giáo điều kinh nghiệm là việc áp dụng nguyên si rập khuôn mô hình của nước khác, của địa phương khác vào địa phương mình mà không sáng tạo, chọn lựa … Ví dụ như trước đây ta bắt chước rập khuôn mô hình CNXH ở Liên Xô trong việc thành lập các bộ ngành của bộ máy nhà nước (ở Liên Xô có bao nhiêu Bộ, Ngành ta cũng có bấy nhiêu Bộ ngành), hoặc về công nghiệp hóa cũng vậy, ta chỉ chú ý tập trung phát triển công nghiệp nặng mà không chú ý phát triển công nghiệp nhẹ … Bệnh bảo thủ trì trệ và bệnh giáo điều cùng với bệnh chủ quan duy ý chí là những căn bệnh chung của các nước XHCN và nó gây ra hậu quả tất yếu là làm cản trở, thậm chí kéo lùi sự phát triển của kinh tế - xã hội, đưa chúng ta đến sai lầm nghiêm trọng. 

Ngược lại nếu ko tôn trọng nguyên tắc phát triển sẽ mang lại hậu quả gì

Nếu chúng ta tuyệt đối hoá nhận thức, nhất là nhận thức khoa học về sự vật hay hiện tượng nào đó thì các khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn sẽ không thể phát triển và thực tiễn sẽ dậm chân tại chỗ. Chính vì thế, chúng ta cần phải tăng cường phát huy nỗ lực của bản thân trong việc hiện thực hoá quan điểm phát triển vào nhận thức và cải tạo sự vật nhằm phục vụ nhu cầu, lợi ích của chúng ta và của toàn xã hội. 

Nguyên tắc phát triển gợi mở cho chúng ta điều gì trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước ta hiện nay

Ngày nay mặc dù CNXH đang ở thế thoái trào, song những cơ sở vật chất và XH của thời đại mới ngày càng chín muồi. Từ những thành công và chưa thành công của quá trình cải tổ, đổi mới, Đảng cộng sản các nước đã và đang rút ra những bài học cần thiết, đưa quá trình cải tổ đổi mới diễn ra đúng hướng phù hợp quy luật phát triển của XH và đang đạt những chuyển biến tích cực. Điển hình như Trung Quốc, từ sau Hội nghị Trung ương 3 khóa XIII (12-1978) Đảng cộng sản Trung Quốc đã mở đầu công cuộc cải cách, mở cửa toàn diện, sâu sắc theo định hướng XHCN và từ đó đến nay, trãi qua một phần tư thế kỷ, Trung quốc đã phát triển không ngừng và đang đứng vào hàng ngũ các cường quốc trên thế giới. Đối với nước ta, “những thành tựu to lớn và rất quan trọng của 15 năm đổi mới làm cho thế và lực của nước ta lớn mạnh lên nhiều”(VK ĐH Đảng lần IX, trang 66). Điều này cho thấy rằng thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới không diễn ra trong một thời gian ngắn và theo một con đường thẳng tấp. Cũng như mọi thời đại khác trong lịch sử, nó có tiến, có thoái, quanh co khúc khuỷu, nhưng cuối cùng như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH của ĐCS VN nhận định “CNXH hiện thực đang đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới đang trãi qua những bước quanh co, song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới CNXH vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử”.

 Câu 8: Phân tích cơ sở lý luận và yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc lịch sử-cụ thể của phép biện chứng duy vật. Việc tuân thủ các nguyên tắc này sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn?

Trả lời:

Quan điểm lịch sử cụ thể là quan điểm khi xem xét sự vật phải nghiên cứu nó trong điều kiện thời gian và không gian nhất định. Phải nghiên cứu quá trình vận động của nó trong quá khứ hiện tại và dự kiến tương lai.
- Cơ sở lý luận của  quan điểm trên là xuất phát từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật, hiện tượng trong thế giới.

Phải có quan điểm lịch sử cụ thể vì sự vật nào cũng có quá trình hình thành tồn tại, biến đổi và phát triển. Mỗi giai đoạn phát triển của sự vật lại có những mối liên hệ riêng đặc trưng cho nó. Cho nên xem xét sự vật vừa phải xem quá trình phát triển của sự vật đó, vừa phải xem xét trong từng điều kiện quá trình cụ thể.
+ Có xem xét toàn diện và lịch sử cụ thể sự vật thì ta mới hiểu được bản chất của sự vật từ đó mới cải tạo được sự vật.

Vì vậy, nguyên tắc lịch sử - cụ thể được coi là “linh hồn” phương pháp luận của triết học Mác – Lênin vì nó tổng hợp những nguyên tắc, quan điểm, yêu cầu mang tính phương pháp luận của triết học Mác – Lênin, do đó, hiểu theo nghĩa rộng, nó cũng chính là phương pháp biện chứng.

Những yêu cầu cơ bản cùa nguyên tắc lịch sử - cụ thể:

1. Trong hoạt động nhận thức, chủ thể phải tìm hiểu quá trình hình thành, tồn tại và phát triển cụ thể của những sự vật cụ thể trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Nghĩa là:

- Phải biết sự vật đã ra đời và đã tồn tại như thế nào, trong những điều kiện, hoàn cảnh nào, bị chi phối bởi những quy luật nào;

- Hiện giờ sự vật đang tồn tại như thế nào trong những điều kiện, hoàn cảnh ra sao, do những quy luật nào chi phối;

- Trên cơ sở đó, phải nắm bắt được sự vật có thể sẽ phải tồn tại như thế nào (trên những nét cơ bản) trong tương lai ..

2. Trong hoạt động thực tiễn, chủ thể phải xây dựng được những đối sách cụ thể, áp dụng cho những sự vật cụ thể, đang tồn tại trong những điều kiện, hoàn cảnh, quan hệ cụ thể mà không nên áp dụng những khuôn mẫu chung chung cho bất cứ sự vật nào, trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh, quan hệ nào.

3. Nguyên tắc LS-CT được V.I. Lênin cô đọng trong nhận định: “Xem xét mỗi vấn đề theo quan điểm sau đây: một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào, những hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào, và đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để xem xét hiện nay nó đã trở thành thế nào”.

Điều này có nghĩa là nguyên tắc LS-CT đỏi hỏi phải phân tích sự vật cụ thể trong những tình hình cụ thể để thấy được:

- Sự vật đang (đã hay sẽ) tồn tại thông qua những chất, lượng nào; thể hiện qua những độ nào; đang (đã hay sẽ) thực hiện những bước nhảy nào để tạo nên những chất, lượng mới nào?...

- Sự vật đang (đã hay sẽ) bị tác động bởi những mâu thuẫn nào; những mâu thuẫn đó đang nằm ở giai đoạn nào, có vai trò như thế nào đến sự vận động, phát triển của sự vật?...

- Sự vật đang (đã hay sẽ) trải qua những lần phủ định biện chứng nào; cái cũ nào đang (đã hay sẽ) phải mất đi, cái mới nào đang (đã hay sẽ) xuất hiện?..

- Trong mối quan hệ với những sự vật khác, những điều gì được coi là những cái riêng hay cái đơn nhất, điều gì là cái chung hay cái đặc thù / cái phổ biến; chúng quy định nhau, chuyển hóa lẫn nhau như thế nào?

- Bản chất của sự vật là gì, nó được thể hiện qua những hiện tượng nào; hiện tượng nào chỉ là giả tượng, hiện tượng nào là điển hình …

- Nội dung của sự vật là gì, nó đang (đã hay sẽ) tồn tại thông qua những hình thức nào; hình thức nào phù hợp với nội dung của sự vật, hình thức nào không phù hợp với nội dung, cái gì làm cho nội dung của sự vật biến đổi?..

- Trong bản thân sự vật, hiện thực là gì; hiện thực đó đang (đã hay sẽ) nảy sinh ra những khả năng nào; mỗi khả năng đó, trong những điều kiện cụ thể nào có độ tất yếu hiện thực hóa ra sao?...

4. Nguyên tắc LS-CT đòi hỏi chúng ta phải bao được các sự kiện xảy ra trong nghiên cứu khoa học hay các biến cố xảy ra trong các tiến trình lịch sử nhân loại.

Tuy nhiên, nó không cho phép chúng ta kết hợp các sự kiện khoa học như những cái ngẫu nhiên thuần túy của tự nhiên hay mô tả các biến cố lịch sử như những cái vụn vặt đơn lẻ của xã hội, mà nó đòi hỏi chúng ta phải tái hiện chúng, mô tả chúng trên cơ sở vạch ra được cái tất yếu lô gích, cái chung (quy luật, bản chất) của chúng, chỉ ra được những trật tự nhân quả quy định chúng.

Nguyên tắc này đòi hỏi chúng ta phải xây dựng được bức tranh khoa học về thế giới, để qua đó chúng ta nhận thức được tính muôn vẻ của tự nhiên, tính phong phú của lịch sử trong sự thống nhất.

5. Nguyên tắc LS-CT đã được các lãnh tụ của giai cấp vô sản vận dụng: Xuất phát từ tình hình cụ thể của CNTB ở giai đoạn tiền độc quyền, tự do cạnh tranh mà C. Mác cho rằng, cách mạng XHCN chỉ có thể thắng lợi ở tất cả các nước TBCN tiên tiến.

Sang thế kỷ 20, CNTB đã chuyển sang giai đoạn độc quyền, đế quốc chủ nghĩa. Khi vận dụng nguyên tắc này vào xem xét tình hình thế giới lúc này có những thay đổi lớn mà V.I. Lênin đã đi đến kết luận đúng đắn là: cách mạng XHCN chỉ có thể thắng lợi ở vài nước, ở khâu yếu nhất của CNTB.

Đảng CS Việt Nam, Đảng CS Trung Quốc cũng đang quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tắc này vào thực tiễn cách mạng mỗi nước để xây dựng cho quốc gia mình một con đường riêng đi lên CNXH.

Vận dụng nguyên tắc LS-CT, từ năm 1930, Đảng ta đã lựa chọn con đường CNXH. Ngày nay, để xây dựng thành công CNXH, Đảng đề ra đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng XHCN; phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; thực hiện tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường an ninh, quốc phòng; bảo vệ và xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.

Việc tuân thủ các nguyên tắc này sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn?

    Quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tắc lịch sử cụ thể sẽ giúp chủ thể khắc phục được quan điểm (tư duy) siêu hình trong hoạt động thực tiễn và nhận thức của chính mình.

 

Câu 9: Quan điểm Mác xít về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn từ đó rút ra quan điểm thực tiễn và vận dụng quan điểm đó để phân tích phê phán bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều và để phân tích các luận điểm sau đây của Đảng ta và Hồ Chí Minh “chỉ có tăng cường tổng kết thực tiễn tổng kết lý luận thì công cuộc đổi mới trở thành hành động tự giác chủ động và sáng tạo".                                                                                                                                                                

Thực tiễn là phạm trù TH chỉ toàn bộ hoạt động vật chất có tính chất lịch sử XH của con người làm biến đổi tự nhiên và XH

-  Bản chất của hoạt động thực tiễn đó là sự tác động qua lại của chủ thể và khách thể

-  Hoạt động thực tiễn đa dạng, song có thể chia làm 3 hình thức cơ bản: hoạt động SX vật chất, hoạt động biến đổi CT XH, hoạt động thực nghiệm KH, trong đó hoạt động SX vật chất là hoạt động có ý nghĩa quyết định các hình thức khác hoạt động biến đổi CT-XH  hình thức cao nhất và hoạt động thực nghiệm KH là hình thức đặc biệt nhằm thu nhận những  tri thức về hiện thực khách quan.

Lý luận với nghĩa chung nhất là sự khái quát những kinh nghiệm thực tiễn là tổng hợp các tri thức về tự nhiên, XH đã được tích lũy trong quá trình lịch sử của con người.

-  Như vậy lý luận là sản phẩm cao của nhận thức, là những  tri thức về bản chất, quy luật của hiện thực.

-  Là sản phẩm của quá trình nhận thực nên bản chất của lý luận là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan

* Mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và lý luận

Trong quan hệ với lý luận thực tiễn có vai trò quyết định, vì thực tiễn là hoạt động vật chất, còn lý luận là sản phẩm của hoạt động tinh thần. Vai trò quyết định của thực tiễn đối với lý luận thể hiện ở chổ :

-  Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức (lý luận). Thực tiễn còn là tiêu chuẩn của lý luận .

-  Thông qua hoạt động thực tiễn, lý luận mới được vật chất hoá, hiện thực hoá, mới có sức mạnh cải tạo hiện thực.

Thực tiễn có vai trò quyết định đối với lý luận song theo CNDV biện chứng, lý luận có sự tác động trở lại đối với thực tiễn.

-  Lý luận có vai trò trong việc xác định mục tiêu, khuynh hướng cho hoạt động thực tiễn, vì thế, có thể nói, lý luận là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn.

-  Lý luận có vai trò điều chỉnh hoạt động thực tiễn là cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả hợn.

-  Lý luận CM có vai trò to lớn trong thực tiễn CM. Lênin viết : “Không có lý luận CM thì không thể có phong trào CM”.

Giữa lý luận và thực tiễn cò sự liên hệ, tác động qua lại tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển. Bởi vậy, sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên lý cao nhất của TH  Mác-Lênin.

* Quan điểm thực tiễn

-  Quan điểm thực tiễn đòi hỏi khi xem xét sự vật hiện tượng phải gắn với thực tiễn, phải theo xát sự phát triển của thực tiễn đđiều chỉnh nhận thức cho sự phù hợp với sự phát triển của thực tiễn, phải lấy thực tiễn, hiệu quả của thực tiễn để kiểm tra những  kết luận của nhận thức, kiểm tra những  luận điểm của lý luận.

-  Quan điểm thực tiễn còn đòi hỏi những  khái niệm của chúng ta về sự vật phải được hình thành , bổ sung và phát triển bằng con đường thực tiễn, trên cơ sở thực tiễn chứ klhông phải bằng con đường suy diển thuần túy, không phải bằng con đường tư biện.

Do đó nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn và phải tổng kết kinh nghiệm thực tiễn , phải bổ sung phát triển lý luận (do thực tiễn luôn vận  động và phát triển nên phải thường xuyên tổng kết xem nó thừa thiếu nhằm bổ sung phát triển nó cho phù hợp). Nắm vững quan điểm này có ý nghĩa trong việc góp phần hạn chế bệnh giáo điều và bệnh chủ quan duy ý chí (trong tư duy và trong hoạt động thực tiễn).

Phân tích phê phán bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều và luận điểm của Đảng 

Kinh nghiệm thực tiễn có vai trò rất quan trọng đối với lý luận, kinh nghiệm chính là cơ sở để tổng kết, khái quát thành lý luận. Kinh nghiệm là căn cứ để chúng ta không ngừng xem xét lại, bổ sung, sửa đổi, phát triển lý luận. Tri thức lý luận hình thành tổng kết khái quát kinh nghiệm nhưng lại phải thông qua tư duy trưù tượng của cá nhân nhà lý luận cho nên nó cũng chứa đựng khả năng không chính xác xa rời thực tiễn. Vì vậy tri thức lý luận phải được thể nghiệm trong thực tiễn để khẳng định, bổ sung sửa đổi hoàn thiện. Mặt khác lý luận một khi đã được hình thành nó không phải thụ động mà có vai trò độc lập tương đối của nó. Lý luận tác động trở lại đối với thực tiễn hướng d6ãn chỉ đạo hoạt động thực tiễn, dự báo dự đón tình hình và phương hướng hoạt động thực tiễn trong tương lai…

Chúng ta coi trọng những kinh nghiệm thực tiễn và không ngừng tích lũy vốn kinh nghiệm quý báu đó. Như nếu chỉ dừng lại ở trình độ kinh nghiệm, chỉ dựa vào những  hiểu biết ở trình độ kinh nghiệm, thoả mãn với vốn kinh nghiệm của bản thân coi kinh nghiệm  là tất cả, tuyệt đối hoá kinh nghiệm đồng thời coi nhẹ lý luận, ngại học tập, nghiên cứu lý luận, ít am hiểu lý luận vươn lên để nắm lý luận, không quan tâm tổng kết kinh nghiệm đđề xuất lý luận….thì rất dễ mắc bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa.

Mặt khác, thaí độ thực sự coi trọng lý luận đòi hỏi phải ngăn ngừa bệnh giáo điều chủ nghĩa. Nếu tuyệt đối hoá lý luận đồng thời coi thường kinh nghiệm thực tiễn, coi lý luận là bất di bất dịch, việc nắm lý luận chỉ dừng lại ở những  nguyên lý chung trừu tượng, không chú ý đến những  hoàn cảnh lịch sử cụ thể của sự vận dụng lý luận thì dễ mắc bệnh giáo điều.

Thực chất của những sai lầm của bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều là vi phạm sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Cho nên trong công tác lý luận cần từ bỏ lối nghiên cưú một cách kinh viện thuần túy chỉ biết giải thích khái niệm bằng khái niệm chứng minh lý luận bằng lý luận tức là hoàn toàn quanh quẩn trong vương quốc tư duy thuần túy, cần chống đối lối tư duy bắt chước sao chép rập khuôn, thoát ly thực tế bất chấp những  đặc điểm truyền thống và điều kiện cụ thể của đất nước,của dân tộc. trong quá trình đổi mới pphải quan tâm dự báo tình hình, kịp thời phát hiện và giải quyết đúng đắng những  vấn đề mới nảy sinh trên tinh thần kiên định thực hiện đường lối đổi mới; tăng cường tổng kết thực tiễn và không ngừng hoàn chỉnh lý luận về con đường xây dựng CNXH ở nước ta. Mỗi chủ trương chính sách biện pháp KTXH dù là đúng đắn nhất thì trong quá trình thực hiện bên cạnh mặt tích cực là chủ yếu cũng thường có những  hệ quả tiêu cực nhất định, những  vấn đề mới nảy sinh, cần phải dự kiến trước và theo dỏi để chủ động ngăn ngừa, giải quyết. tránh suy nghỉ giản đơn một chiều đến khi thấy có vấn đề mới nảy sinh, có mặt tiêu cực mới xuất hiện thì hoang mang hốt hoảng. Không vì gặp khó khăn mà dao động và quay lại những cách là sai lầm cũ. Công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu thì càng xuất hiện những vấn đề mới liên quan đến nhận thức về CNXH và con đường xây dựng CNXH. Do đó tổng kết thực tiễn là phương pháp căn bản trong hoạt động lý luận, là một phương pháp căn bản để khắc phục bệnh giáo điều, bệnh kinh nghiệm, để thực hiện sự thống nhất giữa lý luận và thục tiễn. Lý luận xét cho cùng là từ thực tiễn đúc kết , khái quát lên , không có thực tiễn và kinh nghiệm thực tiễn thì không có lý luận. Nhấn mạnh tổng kết thực tiễn không có nghĩa là xem nhẹ nghiên cứu cơ bản, lý luận cơ bản càng tiếp cận với những  vấn đề cụ thể bao nhiêu càng phải có những quan điểm chung cơ bản bấy nhiêu.

Vì thế ĐH 7 ĐCS VN khẳng định : “chỉ có tăng cường tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận thì công cuộc đổi mới mới trở thành hoạt động tự giác, chủ động và sáng tạo, bớt được những  sai lầm và những  bước đi quanh co, phức tạp”.Hơn lúc nào hết muốn lãnh đạo công cuộc đổi mới đi đến thắng lợi Đảng ta phải nâng cao trình độ hiểu biết và năng lực tổ chức thực tiễn từ việc phát hiện và nắng vững quy luật vận động của đời sống XH ta, của bản thân Đảng cho đến hiểu biết về thế giới về thời đại.Tổng kết thực tiễn tổng kết những  cái mới, đang hàng ngày hàng giờ nảy sinh trogn đời sống đất nước và cả thế giới tiếp thu những  thành quả trí tuệ của loài người. Chỉ trên cơ sở ấy Đảng mới có thể đưa ra được đường lối chủ trương đúng đắng tránh được những  sai lầm, khuyết điểm và làm cho đường lối chủ trương được thực hiện thắng lợi./.

  Câu 10: Phân tích cơ sở lý luận và yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Việc tuân thủ nguyên tắc này sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn?

Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lê nin nói chung và lý luận  nhận thức nói riêng. Việc nắm vững chủ nghĩa Mác – Lê nin nói chúng và nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn có ý nghĩa hết sức quan trọng trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Đặc biệt là đối với cán bộ, đảng viên trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay.

Theo quan điểm của Mác xít, Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội và bản thân con người.

Lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, những quy luật của các sự vật, hiện tượng.

1. Nguồn gốc của lý luận: Lý luận được hình thành từ kinh nghiệm, trên cơ sở tổng kết, khái quát những tri thức kinh nghiệm, nhưng lý luận không hình thành một cách tự phát từ kinh nghiệm và không phải mọi lý luận đều trực tiếp xuất phát từ kinh nghiệm. Do tính đọc lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những dữ liệu kinh nghiệm. Muốn hình thành lý luận, con người phải thông qua quá trình nhận thức kinh nghiệm, đó là quá trình quan sát sự lặp đi lặp lại diễn biến của các sự vật, hiện tượng. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là tri thức kinh nghiệm.

Chức năng cơ bản của lý luận: có hai chức năng là chức năng phản ánh hiện thực khách quan, giúp con người hiểu rõ những lĩnh vực hiện tượng của thế giới xung quanh và chức năng phương pháp luận, giúp con người vạch ra các phương pháp để hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của chính mình.

2. yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn

a. Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và là tiêu chuẩn của lý luận; lý luận hình thành, phát triển phải xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

- Thực tiễn là cơ sở của lý luận: Đối với chủ nghĩa Mác, thực tiễn trước hết là sự hoạt động sản xuất vật chất, nó là cơ sở sinh sống của con người , nó quyết định sự sinh tồn của xã hội. Lý luận xuất hiện trên cơ sở của thực tiễn, nó là kết quả tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của con người. Không có thực tiễn thì không có lý luận khoa học. Thực tiễn đề ra những vấn đề mà lý luận cần phải làm sáng tỏ, cần phải giải đáp. Chỉ có lý luận nào gắn với thực tiễn, phục vụ cho nhu cầu thực tiễn và được thực tiễn kiểm tra thì mới có lý do để tồn tại lâu dài.

- Thực tiễn là động lực của lý luận: Hoạt động thực tiễn góp phần làm hoàn thiện các mối quan hệ của con người với tự nhiên, với xã hội. Thực tiễn mà trước hết là thực tiễn sản xuất vật chất đã thúc đẩy các ngành khoa học ra đời, các lý luận phát triển.

Thực tiễn là mục đích của lý luận: Mục đích chủ yếu của lý luận là nâng cao năng lực hoạt động của con người trong thế giới hiện thực khách quan để đem lại cho con người ngày càng nhiều lợi ích nhằm thỏa mãn  nhu cầu ngày càng cao và đa dạng, để đáp ứng nhu cầu đó phải thông qua hoạt động thực tiễn, hoạt động thực tiễn sẽ biến đổi tự nhiên và xã hội theo mục đích của con người. Lý luận quay về xâm nhập vào thực tiễn, hướng dẫn, chỉ đạo thực tiễn, làm cho thực tiễn ngày càng hiệu quả hơn.

Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận: Lý luận chỉ được coi là chân lý khi nó phù hợp với hiện thực khách quan mà nó phản ánh, và nó được thực tiễn kiểm nghiệm. C. Mác nói: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt đến chân lý khách quan hay không hoàn toàn không phải là vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý”. Thừa nhận thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận, cần chú ý những vấn đề sau:

- Thực tiễn chỉ là tiêu chuẩn chân lý của lý luận khi thực tiễn đạt đến tính toàn vẹn của nó.

- Thực tiễn có nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Nếu lý luận chỉ khái quát một giai đoạn nào đó của thực tiễn thì lý luận có thể xa rời thực tiễn.

Ngoài tiêu chuẩn thực tiễn còn có thể có những tiêu chuẩn khác như: tiêu chuẩn logic, tiêu chuẩn giá trị…

Qua đó, yêu cầu xây dựng lý luận phải xuất phát từ thực tế, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn. Nếu xa rời thực tiên sẽ dẫn đến các sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, quan liêu,…tức lý luận suông.

b. Lý luận phải được vận dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong lịch sử; Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận

Hoạt động của con người muốn có hiệu quả nhất thiết phải có lý luận soi đường: Chính nhờ có lý luận soi đường, hoạt động thực tiễn của con người mới có hiệu quả và đạt được mục đích mong muốn. Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận vì lý luận có khả năng định hướng mục tiêu, xác định lực lượng, vạch ra các phương pháp, biện pháp thực hiện. Lý luận còn dự báo được khả năng phát triển các mối quan hệ  thực tiễn, dự báo được những rủi ro có thể xảy ra, những hạn chế, thất bại có thể có trong quá trình hoạt động. Chính vì vậy, C.Mác đã nói: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất, nhưng lý luận sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó xâm nhập vào quần chúng”. Khi vận dụng lý luận vào thực tiễn cần lưu ý:

- Phân tích một cách cụ thể mỗi tình hình. Nếu vận dụng lý luận một cách máy móc, giáo điều, kinh viện thì chẳng những hiểu sai giá trị của lý luận mà còn làm phương hại đến thực tiễn, làm sai lệch thống nhất tất yếu giữa lý luận và thực tiễn.

- Từ lý luận chúng ta cần xây dựng các mô hình dành cho hoạt động thực tiễn hướng theo những mục khác nhau. Cần đưa ra những dự báo về các diễn biến, các mối quan hệ, lực lượng tiến hành và những phát sinh của nó trong quá trình phát triển để phát huy các nhân tố tích cực, hạn chế những yếu tố tiêu cực nhằm đạt kết quả cao.

- Phải bám sát diễn biến của thực tiễn để kịp thời điều chỉnh, bổ sung những khiếm khuyết của lý luận, hoặc thay đổi lý luận cho phù hợp với thực tiễn.

- Lý luận có thể mang lại hiệu quả, hoặc không mang lại hiệu quả, hoặc kết quả chưa rõ ràng. Khi đó, giá trị của lý luận do thực tiễn quy định. V.I.Lê nin nhận xét rằng: “thực tiễn cao hơn nhận thức, vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến, mà cả tính hiện thực trực tiếp”.

3. Việc tuân thủ nguyên tắc này sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn:

Nếu chúng ta tuân thủ nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tức là nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn và phải tổng kết kinh nghiêm thực tiễn, phải bổ sung phát triển lý luận (do thực tiễn luôn vận động và phát triển nên phải thường xuyên tổng kết xem nó xem nó thừa thiếu nhằm bổ sung phát triển nó cho phù hợp). Nắm vững quan điểm này có ý nghĩa trong việc góp phần hạn chế trong việc mắc phải sai lầm của bệnh giáo điều và bệnh kinh nghiệm trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.

Bệnh kinh nghiệm là khuynh hướng tư tưởng tuyệt đối hóa kinh nghiệm, coi thường lý luận khoa học, khuếch đại vai trò thực tiễn, hạ thấp vai trò lý luận. Người mắc bệnh kinh nghiệm thường thỏa mãn với vốn kinh nghiệm bản thân, không chịu học để nâng cao trình độ lý luận, coi thường khoa học kỹ thuật, thiếu nhìn xa trông rộng, dễ bảo thủ trì trệ và sẽ bị thất bại trong thực tiễn khi điều kiện, hoàn cảnh thay đổi. Hồ chí minh đã nói: “có kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng như một mắt sáng một mắt mù”.

Bệnh giáo điều là khuynh hướng tư tưởng cường điệu vai trò lý luận, coi nhẹ thực tiễn, tách rời lý luận khỏi thực tiễn, thiếu quan điểm lịch sử cụ thể, áp dụng  kinh nghiệm một cách rập khuôn, máy móc. Bệnh giáo điều biểu hiện rất đa dạng như:

- Bệnh sách vở, hiểu lý luận một cách trù tượng, nặng về diễn giải những gì đã có trong sách vở mà không đối chiếu với cuộc sống. Đề ra những chủ trương và chính sách không xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể của thực tiễn đất nước mà xuất phát từ sách vở.

- Vận dụng sai lý luận vào thực tiễn, chỉ biết trích dẫn, không quan tâm đến thực tiễn, không bổ sung, điều chỉnh lý luận.

- Tiếp nhận những nguyên lý của CNXH khoa học một cách đơn giản, phiến diện mang tính chất cảm tính, từ đó biến chúng thành những tín điều và áp dụng rập khuôn chủ nghĩa xã hội của nước ngoài vào xây dựng chủ nghĩa xã hội trong nước. Áp dụng rập khuôn, máy móc kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước khác; áp dụng chính sách kinh tế thời chiến vào thời bình.

Chủ tịch HCM yêu cầu “phải học tập tinh thần CN Mác – Lê nin, học tập lập trường quan điểm và phương pháp của CN Mác –Lê nin để áp dụng giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta”. Người còn khẳng định: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc căn bản của CN. Mác – Lê nin, thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành lý luận mù quáng, lý luận mà không có thực tiễn là lý luận suông”. HCM luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải luôn luôn hiểu rõ và thấm nhuần phương châm lý luận cách mạng không phải là giáo điều mà là kim chỉ nam cho hành động cách mạng, lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc mà đầy đủ tính sáng tạo lý luận luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ thực tiễn của cuộc sống. Với cách nhìn đó tuy đề cao lý luận, nhưng người không xem thường kinh nghiệm. Người rất coi trọng tổng kết kinh nghiệm coi đó là một biện pháp để thống nhất lý luận và thực tiễn, vừa nâng cao trình độ lý luận vừa nâng cao khả năng hoạt động thực tiễn.

Tóm lại, coi trọng tổng kết là một phương pháp căn bản trong hoạt động lý luận. Đó cũng là phương pháp cơ bản để khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều, thực hiện sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Qua tổng kết thực tiễn mà sửa đổi, phát triển lý luận đã có, bổ sung hoàn chỉnh đường lối, chính sách, hình thành lý luận mới, quan điểm mới để chỉ đạo sự nghiệp đổi mới xã hội.

Câu 11: Hình thái  kinh tế xã hội là gì? Vạch ra ý nghĩa của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội? phân tích tư tưởng của Mac “sự phát triển hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử - tự nhiên” Đảng cộng sản Việt Nam đã vận dụng học thuyết hình thai KT-XH như thế nào vào thực tiễn cách mạng Việt Nam hiện nay.

Học thuyết Mác xít về hình thái kinh tế xã hội là nội dung cơ bản của CNDVLS của triết học Mác – Lênin; nó chẳng những chỉ rõ kết cấu của các xã hội cụ thể, mà còn vạch rõ những quy luật nội tại, cơ bản chi phối sự vận động phát triển của đời sống xã hội nói chung, cũng như xã hội trong những giai đoạn lịch sử cụ thể. Như vậy học thuyết Mác xít về HTKT-XH là cơ sơ lý luận và phương pháp luận của các khoa học xã hội, là hòn đá tảng cho mọi nghiên cứu về xã hội, và do đó là 1 trong những nền tảng lý luận của CNXH khoa học. Vậy, hình thái kinh tế xã hội là gì ?

Hình thái kinh tế  - xã hội là một phạm trù của Chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định với một kiểu Quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với trình độ nhất định của lực lượng sản xuất (LLSX) và với một kiến trúc thượng tầng (KTTT) tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất (QHSX) ấy.

Cấu trúc của Hình thái KT - XH bao gồm ba yếu tố cơ bản là: lực lượng sản xuất, QHSX và KTTT. Ba yếu tố cơ bản này có quan hệ biện chứng với nhau và trở thành tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các xã hội cụ thể. Đây là căn cứ khoa học để xem xét bản chất của một chế độ xã hội và phân biệt nó với một chế độ xã hội khác.

Ý nghĩa của học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội :

Học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội ra đời là một cuộc Cách mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử xã hội. Nó chỉ ra rằng động lực của lịch sử chính là hoạt động thực tiễn của con người dưới tác động của quy luật khách quan. Học thuyết Mác cũng nhấn mạnh vai trò quyết định xét đến cũng của nhân tố cơ sở hạ tầng của kinh tế, song không giờ coi nhân tố kinh tế là nhân tố duy nhất quyết định trong lịch sử.

Trong các quy luật khách quan, học thuyết Mác khẳng định quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong mọi xã hội, làm cho xã hội loài người phát triển từ thấp đến cao.

Học thuyết Mác cũng chỉ ra rằng quá trình lịch sử tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự mà còn bao hàm cả trường hợp bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội nhất định trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể nhất định.

-  Tóm lại, học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội công cụ lý luận giúp chúng ta nhận thức được những quy luật phổ biến đang tác động và chi phối sự vận động của xã hội, là phương pháp khoa học để nghiên cứu xã hội và là cơ sở lý luận cho việc hoạch định con đường đi lên CNXH ở nước ta.

Sự vận động, phát triển và thay thế nhau của các Hình thái kinh tế- xã hội trong lịch sử được qui định bởi mối quan hệ biện chứng giữa chính các yếu tố cấu thành Hình thái kinh tế –xã hội, hình thành nêu những quy luật phổ biến của xã hội đó là: quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX; quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa Cơ sở hạ tầng và KTTT; những quy luật tác động trong xã hội có đối kháng giai cấp, đặc biệt là quy luật đấu tranh giai cấp. 

Trước hết học thuyết hình thái kinh tế xã hội, chỉ rõ rằng : sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát phát triển  của xã hội; xã hội muốn tồn tại và phát triển thì phải có quá trình sản xuất và tái sản xuất, cũng như vai trò của sản xuất vật chất trong đời sống xã hội.

Sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên .

Thực tế cho chúng ta thấy, lịch sử  xã hội loài người vận động phát triển liên tục không ngừng từ thấp đến cao và sẽ trải qua 5 hình thái KT - XH kế tiếp nhau. Đó là các hình thái KT - XH: Công sản nguyên thuỷ; Chiếm hữu nô lệ; Phong kiến;  Tư bản chủ nghĩa; cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là CNXH. Quá trình này không phụ thuộc vào ý thức yếu tố chủ quan của bất cứ cá nhân hay lực lượng sản xuất nào, mà nó tuân theo các quy luật kinh tế khách quan vốn có của đời sống  xã hội, mà trước hết và cơ bản là quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX. Tuy nhiên, trong những điều kiện đặc biệt khi có điều kiện khách quan, chủ quan ở thời đại cho phép, thì một quốc gia nào đó có thể diễn ra sự phát triển đặc thù. Tức là bỏ qua một giai đoạn nào đó trong tiến trình lịch sử  để bước vào một giai đoạn cao hơn mà không nhất thiết phải từng tự qua năm hình thái KT - XH, nhưng vẫn đảm bảo từ thấp đến cao tuân theo các quy luật đặc thù của xã hội.    

Lịch sử nhân loại đã chứng minh, hàng loạt quốc gia trên thế do những điều kiện thuận lợi nhất định, đã bỏ qua một vài hình thái KT - XH nào đó để vượt lên một hình thái KT - XH cao hơn. Mác gọi đây là khả năng ‘rút ngắn”, là quá trình lịch sử đặc thù. Quy luật kế thừa của lịch sử loài người luôn cho phép cộng đồng nào đó, trong những điều kiện nhất định, do tác động của nhân tố bên trong và bên ngoài có thể bỏ qua giai đoạn phát triển nhất định để vươn tới trình độ tiên tiến của nhân loại. Lịch sử đã chứng minh , sự giao lưu, hợp tác với các trung tâm phát triển cao về sản xuất vật chất kỹ thuật, văn hoá, chính trị. . . cho phép một số nước kém phát triển hơn ‘đi tắt” Tuy nhiên, nếu “rút ngắn” một cách nóng vội, bất chấp quy luật khách quan sẽ rơi vào “bệnh” chủ quan, duy ý chí.

Học thuyết hình thái KT – XH là cơ sở lý luận  để chúng ta nghiên cứu  mô hình xây dựng CNXH ở Việt Nam. Nhận thức và vận dụng đúng nguyên tắc này giúp ta tăng cường hệ thống chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ của nhân dân,  củng cố và hoàn thiện Nhà nước  kiểu mới thích ứng với sự phát triển đa dạng các thành phần kinh tế định hướng đi lên XHCN, tạo điều kiện giải phóng sức lao động, đẩy nhanh  sự phát triển của LLSX, sản xuất kết hợp với tăng cường dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mô hình mà chúng ta xây dựng kết hợp đồng thời kiến trúc thượng tầng lẫn cơ sở hạ tầng mới, phù hợp với đặc điểm riêng có và những điều kiện  đặc thù của Việt Nam. Hiện nay, nước ta đang quá độ lên CNXH trong hoàn cảnh quốc tế  có nhiều biến đổi sâu sắc, cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ, vấn đề quốc tế hóa, toàn cầu hóa có ảnh hưởng không nhỏ đến công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế của nước ta. Tuy là một quốc gia chưa qua giai đoạn phát triển TBCN, song với những điều kiện lịch sử trong nước và quốc tế hiện tại việc quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN hoàn toàn có thế thực hiện được. Điều đó, hoàn toàn phù hợp với quy luật lịch sử - tự nhiên của học thuyết Mác về sự vận động phát triển của các hình thái KT –XH.

Nếu quay ngược lại dòng thời gian chúng ta sẽ nhìn thấy sự sụp đổ của hệ thống các nước XHCN ở Đông Au và Liên Xô trước đây, chủ yếu là do trong công cuộc cải tạo và xây dựng đất nước đã mắc phải một số sai lầm về chủ quan, không vận dụng đúng các quy luật khách quan về hình thái KT - XH cụ thể là : tuyệt đối hoá trong nhận thức, vận dụng và điều chỉnh cơ chế không phù hợp với sự vận động và biến đổi của thế giới. Trong lĩnh vực kinh tế, duy trì quá lâu tình trạng sản xuất nhỏ, xây dựng QHSX mới không phù hợp với trình độ của LLSX dẫn đến kìm hảm sự phát triển kinh tế, gây khủng hoảng kinh tế...dẫn đến hệ thống XHCN trên thế giới phải lâm vào tình trạng thoái trào. Đó là cái giá đắt mà những người cộng sản đã phải trả, và cũng là bài học xương máu mà Đảng cộng sản Việt Nam đã rút ra để tiến hành hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới từ đại hội lần Đảng thứ VI đến nay.

Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm, đầy khó khăn thậm chí đã rơi vào giai đoạn khủng hoảng trầm trọng về kinh tế do việc vận dụng chưa đúng các quy luật khách quan, nhất là về phạm trù hình thái KT - XH.

Thật vậy, trước thời kỳ đổi mới quan điểm con đường đi lên CNXH của nước ta là quá độ thẳng trực tiếp từ sản xuất nhỏ lên CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. Tức là không có trung gian, không chấp nhận kinh tế hàng hoá, phủ nhận kinh tế thị trường, bỏ qua kinh tế nhiều thành phần, phủ nhận những bước đi mà CNTB khi chiến thắng chế độ phong kiến đã từng thực hiện, trong khi đó LLSX chúng ta còn yếu kém, lạc hậu…  Kết quả trong thời gian dài đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế, xã hội trầm trọng. Bài học kinh nghiệm xương máu ấy đã được Đảng ta đánh giá trong đại hội VII một trong những sai lầm là bệnh chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan và đã phân tích những biểu hiện cụ thể của căn bệnh trong một số lĩnh vực : Nóng vội trong cải tạo XHCN, xoá bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần ; có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp năng; duy trì quá lâu cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp; có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả tiền lương; công tác tư tưởng và tổ chức cán bộ phạm nhiều khuyết điểm nghiêm trọng.

Nguyên nhân cơ bản mà Đảng ta đã chỉ ra đó là về mặt nhận thức, sự yếu kém lạc hậu về tư duy lý luận dẫn đến việc nhận thức và vận dụng các quy luật đang hoạt động trong thời kỳ quá độ, từ đó cho ra đời những chủ trương chính sách thiếu căn cứ khoa học, xa rời với thực tế. Sai lầm về chủ quan duy ý chí.

Những sai phạm nêu trên đã đưa XH Việt Nam rơi vào khủng hoảng. Thực tế, người lao động không còn động lực trực tiếp về lợi ích để phấn đấu, không phát huy, tạo môi trường thuận lợi để khai thác hết tiềm năng, thế mạnh của các thành phần kinh tế nên sức sản xuất vật chất bị đình trệ, kìm hảm làm cho đời sống nhân dân cực kỳ khó khăn, xã hội rối ren, phức tạp, người dân mất niềm tin nơi nhà nước. Nhìn nhận vấn đề trên, có thể kết luận chủ yếu do khả năng yếu kém trong nhận thức thực tiển, yếu kém trong nghiên cứu CN Mác – Lênin nên mô hình XD CNXH đã bị chệch hướng so với mô hình được Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng.

Từ đại hội Đảng lần thứ VI đến nay đảng ta thực hiện đường lới đổi mới đất nước, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội cũng được đổi mới và xác định ngày càng rõ nét và đúng đắn phù với quá trình lịch sử-tự nhiên đặc thù của nước ta. Đại hội VIII của Đảng ta chỉ ra rằng “ Con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng xác định rõ hơn”  đến đại hội đảng lần thứ IX của Đảng thì cho rằng “ Chúng ta nhận thức ngày càng rõ hơn về con đường đi lên CNXH ở nước ta”, và khẳng định “ con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa…”. Như vậy, chúng ta không bỏ qua những thành tựu về khoa học công nghệ và cơ sở vật chất,  tiếp tục chọn lọc kế thừa và điều chỉnh để phát triển thành quả đó ngày càng tốt hơn; không được bỏ qua kinh tế hàng hoá thị trường, không được bỏ qua những thành tựu kinh nghiệm mà chủ nghĩa tư bản đạt được; đặc biệt không để mất vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản và vai trò quản lý điều hành của nhà nước vô sản. đại hội IX của Đảng còn nêu rõ những nội dung, nhiệm vụ cụ thể mà con đường đi lên CNXH ở nước ta phải thực hiện đó là :Phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặn đường, tiếp tục đẩy mạnh CNH-HĐH; Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; Tiếp tục thực hiện đường lối kinh tế đối ngoại mở cửa. Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện thắng lợi nội dung, nhiệm vụ đấu tranh giai cấp trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN; đảm bảo tuyệt đối sự lãnh đạo của đảng cộng sản, xem đó là nhân tố quyết định giữ vững định hướng XHCN; phát triển lực lượng sản xuất, phải gắn với việc đồng thời xây dựng và hoàn thiện cả quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng theo định hướng XHCN; Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hoá giáo dục, đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; Kết hợp phát triển KT - XH với quốc phòng an ninh  và phải đảm bảo cho được kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể trở thành nền tảng kinh tế quốc dân…             

Có như vậy chúng ta mới có thể tạo ra sự biến đổi về chất của XH, trên tất cả các lĩnh vực dù biết rằng đó là một  sự nghiệp rất khó khăn phức tạp trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặn đường để thực hiện bằng được mục tiêu cuối cùng là ước nguyện của cả dân tộc : xây dựng thành công CNXH theo mô hình đã được xác định trong Cương lĩnh Đảng lần thứ VII. Đó là một xã hội  “Do nhân dân dân lao động làm chủ; Có một nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các TLSX chủ yếu; Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Con người được giải phóng khỏi áp bức bốc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động. Có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới”. Cương lĩnh ấy  đại hội IX Đảng xác định  mục tiêu chung cụ thể trước mắt cần đạt tới của thời kỳ quá độ là “ độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh…một nước XHCN phồn vinh, nhân dân hạnh phúc” và chỉ rõ “ Đến năm 2020 cơ bản đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.

Qua tổng kết thực tiển phong phú với không ít những thành công rực rỡ và những mặt còn hạn chế trong những năm qua. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta đã đề ra chủ trương :” XD CNXH bỏ qua chế độ TBN tạo ra sự biến đổi về chất của XH, trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế XH có tính chất quá độ”(VKIX-T85) là hoàn toàn đúng với quy luật khách quan và theo đường lối đó chúng ta hoàn toàn có khả năng để  thực hiện thành công CNXH bởi vì:

 Thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới và theo quy luật tiến hoá của lịch sử : loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.

 Thế kỷ 21 là thế kỷ khoa học và công nghệ có bước phát triển nhảy vọt, kinh tế trí thức ngày càng có vai trò nổi bật trong sự ảnh hưởng đến quá trình phát triển của lực lượng sản xuất của các quốc gia; toàn cầu hoá kinh tế đang là một xu thế khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều các nước tham gia, trong đó có nước ta; cơ sở vật chất kỹ thuật nước ta ngày càng được tăng cường, kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội phát triển nhanh, tích luỹ nội bộ kinh tế tăng trưởng qua từng năm và cơ cấu kinh tế nước ta có bước chuyển biến tích cực theo hướng hiện đại, vấn đề lương thực cơ bản đã được giải quyết và đã có xuất khẩu cao, nhiều năm liền chúng ta là nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới; đất nước còn nhiều tiềm năng to lớn về tài nguyên và lao động.

       Tình hình chính  trị- xã hội ổn định, quốc phòng an ninh được tăng cường; đặc biệt giữ vững được sự lãnh đạo của Đảng, đảng luôn thể hiện chính trị vững vàng và có đường lối lãnh đạo đúng đắn; Nhà nước đã có nhiều cố gắng lớn trong việc điều hành quản lý; quan hệ đối ngoại luôn được mỡ rộng hội nhập kinh tế quốc tế được chủ động và đạt hiệu quả tốt. Nhờ vậy chúng ta tranh thủ được ngoại lực, nguồn vốn công nghệ, kinh nghiệm quản lý , mỡ rộng thị trường để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá.

 Mặt khác nhân dân ta có phẩm chất tốt. Toàn dân, toàn quân ta tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng; phát huy được lòng yêu nước và tinh thần dũng cảm, đoàn kết nhất trí, cần cù năng động sáng tạo,  tiếp tục thực hiện đổi mới, ra sức xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xa hội chủ nghĩa.

 Với kết quả đạt được qua gần 20 năm đổi mới và những tiền đề khách quan chủ quan như trên, dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng cộng sản Việt Nam, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta nhất định sẽ thành công như mong đợi./.

 

Câu 12: Phân tích nội dung cơ bản của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tại sao nói quy luật này là quy luật cơ bản và phổ biến nhất của xã hội loài người. Đảng cộng sản Việt nam đã vận dụng quy luật này như thế nào vào quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.

Phân tích nội dung cơ bản của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của LLSX:

Sự tồn tại của một phương thức sản xuất được quy định bởi sự thống nhất biện chứng giữa LLSX ở trình độ phát triển nhất định với quan hệ sản xuất tương ứng. Sự vận động phát triển của phương thức sản xuất bị quy định bởi sự tác động biện chứng giữa LLSX và QHSX. Như vậy qua sự tác động biện chứng giữa QHSX và LLSX phù hợp sẽ hình thành một phương thức sản xuất mới. Phương thức sản xuất chính là cách thức con người tiến hành sản xuất vật chất ở từng giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loại người.

LLSX: Chính là năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất (biểu hiện quan hệ giữa con người với quá trình chinh phục giới tự nhiên). LLSX là toàn bộ các lực lượng được con người sử dụng trong quá trình sản xuất vật chất. LLSX bao gồm các yếu tố cơ bản thống nhất với nhau là người lao động với sức mạnh về thể lực và trí lực, kỹ năng lao động cụ thể và tư liệu sản xuất mà trước hết là công cụ lao động và sau đó là phương tiện lao động.

+ Trong các yếu tố của LLSX thì nhân tố người lao động có vai trò quan trọng và quyết định nhất, là chủ thể của quá trình hoạt động thực tiễn, không chỉ là người chế tạo ra mà còn là người sử dụng và phát huy phẩm chất của TLSX, từ đó tạo ra của cải vật chất ngày càng nhiều, qua đó người lao động còn phát triển về thể lực và trí lực lẫn kỹ năng lao động. Ngày nay trong thời đại cách mạng khoa học công nghệ, vai trò của lao động trí tuệ ngày càng đóng vai trò quyết định trong sản xuất.

+ Bên cạnh đó yếu tố công cụ lao động cũng có vai trò rất quan trọng trong LLSX, CCLĐ không ngừng được cải tiến, biến đổi và hoàn thiện trong quá trình sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu tăng năng suất lao động. Sự thay đổi của CCLĐ làm biến đổi toàn bộ TLSX, qua đó biến đổi toàn bộ LLSX. Trình độ của CCLĐ chính là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn để phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử nhân loại.

+ Ngoài ra ngày nay vai trò của khoa học đối với sự phát triển của sản xuất và của xã hội ngày càng trở nên quan trọng. KHCN đã thâm nhập sâu vào qúa trình sản xuất và  trở thành “ LLSX trực tiếp”.

Như vậy: LLSX bao gồm trình độ (trình độ của CCLĐ; trình độ của người lao động) và tính chất (tính cá nhân và tính xã hội). Sự thay đổi trình độ và tính chất của LLSX trong tiến trình phát triển của xã hội). Kết hợp giữa người lao động (sức LĐ) với tư liệu SX. Thì người LĐ giữ vai trò quyết định. LLSX chính là nội dung kinh tế kỹ thuật của quá trình sản xuất xã hội.

QHSX: là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất vật chất. Quan hệ sản xuất bao gồm ba mặt là quan hệ sở hữu về TLSX, quan hệ trong tổ chức và quản lý quá trình sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động làm ra. Ba quan hệ này thống nhất biện chứng với nhau, trong đó: quan hệ sở hữu về TLSX giữ vai trò quyết định đối với quan hệ tổ chức quản lý SX và quan hệ phân phối sản phẩm. QHSX là hình thức kinh tế xã hội của quá trình sản xuất xã hội.

QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX: Trong PTSX thì LLSX và QHSX tồn tại gắn liền với nhau, thống nhất biện chứng với nhau, trong đó LLSX là nội dung còn QHSX là hình thức. LLSX thì thường xuyên biến đổi, QHSX thì ổn định tương đối. Chính sự tác động biện chứng giữa LLSX và QHSX trong một PTSX nhất định đã tạo nên quy luật cơ bản, phổ biến của sự vận động phát triển của xã hội: Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX. Cụ thể như sau:

+ LLSX quyết định QHSX: Khi phương thức sản xuất mới ra đời, QHSX được xây dựng phù hợp với trình độ phát triển hiện có của LLSX, tuy nhiên do LLSX không ngừng phát triển đến trình độ nhất định, khi đó QHSX không còn phù hợp với LLSX. QHSX giờ đây đã trở thành “Xiềng xích” kìm hãm, ngăn cản sự phát triển của LLSX. Do nhu cầu khách quan của sự phát triển tất yếu dẫn tới sự thay thế QHSX cũ bằng QHSX mới phù hợp với trình độ phát triển mới của LLSX. Sự thay thế QHSX này cũng đồng nghĩa với việc thay thế phương thức sản xuất cũ bằng một phương thức sản xuất  mới. (Sự tương quan giữa LlSX và QHSX thay đổi: từ chổ phù hợp dẫn đến bất phù hợp, dẫn đến mâu thuẫn, dẫn đến giải quyết mâu thuẫn)

Ngày nay, cuộc cách mạng kinh tế xảy ra xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, xây dựng QHSX mới phù hợp với trình độ phát triển mới của LLSX. Do người lao động thì không ngừng lao động sản xuất, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật diễn ra, yêu cầu trình độ phát triển của LLSX phải cao hơn, khi đó QHSX cũ không còn phú hợp (mâu thuẫn), để giải quyết mâu thuẩn này phải thông qua cuộc cách mạng kinh tế, dẫn tới mâu thuẩn giai cấp, cách mạng xã hội xảy ra (lượng đổi, chất đổi). LLSX quyết định QHSX.

+ QHSX tác động đến LLSX: Do QHSX có tính độc lập tương đối và tác động trở lại LLSX, hơn nữa QHSX quy định mục đích của sản xuất, chi phối trực tiếp đến hoạt động và lợi ích của người tham gia sản xuất, đến thái độ của người lao động, đến tổ chức và phân công lao động xã hội,…nên nó có thể tác động đến sự phát triển của LLSX. Khi QHSX phù hợp với trình độ phát triển (tính chất) của LLSX thì nó thúc đẩy LLSX phát triển, ngược lại thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX. Tuy nhiên sự kì hãm đó chỉ mang tính tạm thời, vì vai trò quyết định thuộc về LLSX, vì vậy sự kìm hãm đó cũng sẽ bị xóa bỏ bằng cách thay thế bởi QHSX mới phù hợpvới trình độ phát triển của LLSX. Tuy nhiên quá trình thay thế này không diễn ra một cách đơn giản, tự giác mà nó phụ thuộc vào năng lực tự giác của con người. Trong xã hội có giai cấp quá trình này diễn ra thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.

Tại sao nói quy luật này là quy luật phổ biến nhất của xã hội loài người. Phổ biến được thông qua 3  quy luật cơ bản của xã hội loài người:

- Quy luật sự phù hợp giữa QHSX và LLSX (đã trình bày phía trên)

- Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng:

+ CSHT nào thì KTTT nấy: tất cả yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều trực tiếp, gián tiếp phụ thuộc vào CSHT và do CSHT quy định; trật tự kinh tế xét đến cùng quy định trật tự chính trị; giai cấp nào thống trị trong kinh tế thì giai cấp đó sẽ thống trị trong chính trị và vì vậy thống trị trong toàn bộ kiến trúc thượng tầng.

+ CSHT thay đổi thì KTTT cũng thay đổi theo: Biến động, mâu thuẫn trong kinh tế, sớm muộn cũng gây ra những biến động, mâu thuẩn trong chính trị.

+ CSHT cũ mất đi, CSHT mới ra đời thì KTTT cũ cũng sẽ mất đi để KTTT mới ra đời. Tuy nhiên đây là một quá trình khó khăn, lâu dài, phức tạp (đấu tranh giữa cái mới và cái cũ,..)

- Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội:

+ Tồn tại xã hội quyết định nội dung, bản chất (YTXH chỉ là sự phản ánh của TTXH và luôn phụ thuộc vào TTXH) nguồn gốc, nguyên nhân (mỗi khi TTXH (PTSX,…) biến đổi thì YTXH sớm muộn sẽ biến đổi theo (các thời kỳ lịch sử khác nhau có những lý luận, quan điểm, tư tưởng xã hội khác nhau), hình thức thể hiện của YTXH (YTXH tồn tại trong TTXH và thông qua TTXH, vì vậy không có TTXH thì không có YTXH).

- TTXH quyết định vai trò, tác dụng của YTXH

YTXH chỉ có vai trò và tác dụng trong đời sống xã hội khi và chỉ khi nó thâm nhập được vào TTXH và tác động thông qua TTXH (thông qua và nhờ vào hoạt động thực tiễn có ý thức của con người).

Không đơn giản trực tiếp, phải thông qua các khâu trung gian, không phải bất cứ tư tưởng (YTXH) nào cũng phản ánh rõ ràng, trực tiếp các quan hệ kinh tế của thời đại, mà chỉ khi nào xét đến cùng thì chúng ta mới thấy rõ các mối quan hệ kinh tế được phản ánh bằng cách này hay cách khác trong các tư tưởng ấy. YTXH có tính độc lập tương đối, TTXH thay đổi rồi nhưng tư tưởng tình cảm vẫn còn tồn tại day dẳng, vì YTXH phản ánh nên thay đổi sau.

Quy luật này là quy luật cơ bản nhất:

Ví nó tác động đến sự thay đổi của PTSX, tức là thay đổi kinh tế, mà kinh tế thay đổi sẽ làm chính trị thay đổi, xã hội thay đổi, đời sống vật chất thay đổi, kéo theo đời sống tinh thần cũng thay đổi. Các thời đại khác nhau là khác nhau ở phương thức sản xuất, muốn có thời đại mới tốt đẹp hơn, cao cả hơn phải có phương thức sản xuất cao hơn, mang lại năng suất cao hơn.

Quy luật phổ biến nhất:

Vì nó tác động từ khi loài người xuất hiện đến nay và mãi về sau. Phổ biến vì nó tác động đến mọi hình thái kinh tế xã hội, bất cứ xã hội nào, quy luật này đều tác động đến nên gọi là phổ biến, phổ biến vì lúc nào cũng có và nó chi phối những cái khác.

Đảng ta đã vận dụng quy luật này như thế nào vào quá trình xây dựng CNXH ở nước ta:

Nước ta là nước có nền kinh tế kém phát triển, LLSX đa dạng khác nhau, do vậy ta phải xây một QHSX đa dạng phù hợp LLSX đa dạng đó như: Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, mỗi thành phần kinh tế ứng với một quan hệ sở hữu, một kiểu tổ chức, quản lý,…như thế nào cho phù hợp với sự đa dạng của LLSX.

LLSX nước ta đa dạng, thấp kém, nên muốn có một xã hội mới phải tạo ra LLSX mới, do vậy phải thực hiện CNH, HĐH để phát triển LLSX ở trình độ nhất định. Chủ trương của Đảng ta, lấy giáo dục đào tạo, phát triển công nghệ là quốc sách hàng đầu để phát triển LLSX và không ngừng điều chỉnh QHSX phù hợp với LLSX để kích thích cho sự phát triển LLSX ở nước ta (cứ qua mỗi kỳ Đại hội Đảng ta đều điều chỉnh lại QHSX sao cho phù hợp với LLSX trong tình hình thực tiễn. Vừa qua, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) cũng đã xác định điều đó.

 

Câu 13: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Đảng CSVN đã vận dụng mối quan hệ biện chứng này như thế nào vào quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay?

 

Mỗi xã hội trong lịch sử có một kiểu những quan hệ vật chất cơ bản nhất ứng với những lực lượng sản xuất (LLSX) đó là những Quan hệ sản xuất (QHSX). Phù hợp với kiểu QHSX đó là một hệ thống những quan hệ về chính trị, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật...Những quan hệ chính trị, tinh thần này được thể hiện thông qua những thiết chế xã hội tương ứng như : Nhà nước, Đảng phái, tòa án, giáo hội và các tổ chức xã hội khác...Sự liên hệ và tác động lẫn nhau giữa những quan hệ kinh tế của xã hội và các quan hệ kinh tế đó được chủ nghĩa duy vật lịch sử phản ánh trong các phạm trù Cơ sở hạ tầng (CSHT) và Kiến trúc thượng tầng (KTTT), trong nguyên lý về quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT

Cơ sở hạ tầng là tổng hợp những quan hệ sản xuất tạo thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định. Một xã hội đang ở trong thời kỳ quá độ thì cơ sở hạ tầng của nó mang tính quá độ, tức là  có sự đan xen giữa quan hệ sản xuất tàn dư tồn tại cùng với mầm móng quan hệ sản xuất mới.

Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật … cùng với những thiết chế xã hội tương ứng của chúng như Nhà nước, chính đảng, giáo hội, các đoàn thể chính trị - xã hội hình thành nên một cơ sở hạ tầng nhất định. Mỗi bộ phận của kiến trúc thượng tầng có quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau và tác động đến cơ sở kinh tế (đặc biệt là vai trò của Nhà nước chính đảng và hệ tư tưởng chính trị). Kiến trúc thượng tầng cũng mang tính giai cấp rõ rệt.

* Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

Quan điểm duy vật Mác xít khẳng định rằng sự vận động và phát triển  hình thái KT-XH còn bị chi phối bởi quy luật về  mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Quy luật này khẳng định rằng cơ sở hạ tầng (kinh tế) là quan hệ cơ bản quyết định kiến trúc thượng tầng và kiến trúc thượng tầng sinh ra từ cơ sở hạ tầng nhưng nó có vai trò to lớn tác động mạnh mẽ trở lại cơ sở hạ tầng.

Cơ sở hạ tầng với tính cách là cơ cấu kinh tế hiện thực sản sinh ra một kiến trúc thượng tầng tương ứng qui định tính chất, cơ cấu và mục đích hoạt động của kiến trúc thượng tầng. Khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì kiến trúc thượng tầng phải thay đổi theo nhưng sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng diễn ra khá lâu dài, một cách biện chứng.

Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng thể hiện qua vai trò định hướng chính trị cho hoạt động kinh tế theo yêu cầu mục đích của giai cấp thống trị, mà trong đó Nhà nước là thiết chế quan trọng nhất khi tác động trở lại kinh tế. Kiến trúc thượng tầng cũng có nhiệm vụ bảo vệ và phát triển cơ sở kinh tế đã sinh ra nó. Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đến cơ sở hạ tầng có thể diễn ra 2 khả năng sau đây : một là phù hợp với tính tất yếu kinh tế, với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất thì có tác dụng thúc đẩy kinh tế phát triển; hai là do yếu kém và sai lầm của kiến trúc thượng tầng tác động không phù hợp với quy luật kinh tế thì sẽ kìm hãm sự phát triển của đời sống kinh tế. Trong những trường hợp đặc biệt, kiến trúc thượng tầng có thể tác động làm đảo lộn nhanh chóng cơ sở hạ tầng nhưng suy đến cùng thì kiến trúc thượng tầng vẫn bị kinh tế quyết định

 Đảng CSVN đã vận dụng mối quan hệ biện chứng này như thế nào vào quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay

Lịch sử xã hội loài người đã trãi qua 4 hình thái KTXH, đó là : chế độ công sản nguyên thủy, chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đang trãi qua thời kỳ quá độ của CNXH, giai đoạn đầu tiên của CNCS. Mác cho rằng không phải quốc gia, dân tộc nào cũng nhất thiết phải trải qua tất cả các hình thái kinh tế - xã hội đã có trong lịch sử. Do những điều kiện khách quan và chủ quan nhất định, một quốc gia, dân tộc nào đó có thể bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội nhất định nào đó để tiến lên một hình thái kinh tế - xã hội tiến bộ hơn. Đó cũng là quá trình lịch sử tự nhiên nhưng mang tính đặc thù, rút ngắn lịch sử. Tuy nhiên, phát triển rút ngắn đòi hỏi phải có những điều kiện khách quan và chủ quan mới có thể thực hiện được. Lê-nin cũng đã nói con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội có thể có những hình thức khác nhau; điều đó tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Theo người, hình thức quá độ trực tiếp là con đường phát triển tuần tự từ CNTB lên CNXH; còn hình thức quá độ gián tiếp là con đường phát triển rút ngắn, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đi lên CNXH. Mọi sự phát triển rút ngắn đều phải nhằm mục đích cuối cùng là tạo ra sự phát triển vượt bậc, thậm chí là nhảy vọt của lực lượng sản xuất và do vậy, về thực chất, phát triển rút ngắn chỉ có thể là rút ngắn các giai đoạn hay bước đi trong tiến trình phát triển liên tục của lực lượng sản xuất

Dựa vào học thuyết của Mác – Lênin về hình thái kinh tế - xã hội, Đảng ta đã vận dụng những lý luận này vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, chọn lựa con đường phát triển rút ngắn - tức là đi lên CNXH không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Sự chọn lựa đó dựa trên những yếu tố khách quan và chủ quan như sau :

Về khách quan, thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới và theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH. Văn kiện Đại hội IX đã chỉ rõ mặc dù trước mắt CNTB vẫn còn tiếp tục phát triển nhưng nó không giải quyết được mâu thuẩn cơ bản giữa quan hệ sản xuất đã lạc hậu với lực lượng sản xuất phát triển mạnh, từ đó làm cho lực lượng sản xuất chưa phát triển đúng với tiềm năng của nó, dẫn đến những suy thoái kinh tế tất yếu xảy ra và cùng với nó là sự khủng hoảng về chính trị. Bỡi lẽ, phương thức sản xuất TBCN làm cho quy mô của các công ty tư bản sẽ ngày càng lớn do hệ quả của các cuộc khủng hoảng kinh niên và mang tính tàn phá của nền kinh tế tư bản. Cùng với chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa, sự phân cực xã hội là vô cùng sâu sắc, sự phân hóa giàu nghèo được đẩy tới đỉnh điểm. Ở đây của cải ngày càng tập trung vào một số nhỏ các cá nhân là những triệu phú và tỉ phú; ở cực đối lập là những người sống dưới mức nghèo khổ ở các nước tư bản phát triển và đông đảo những người cùng khổ, đói rét ở các nước tư bản đang phát triển. Mặt khác, nội dung vật chất của chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa là giá trị thặng dư mang hình thức giá trị trao đổi (tức là vàng bạc hay tiền tệ), làm cho lòng thèm khát tăng lao động thặng dư và khát vọng làm giàu trên cơ sở đó được đẩy tới cực độ. Hệ quả của thực tế đó chắc chắn sẽ đúng như sự tiên đoán của C. Mác: "cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, chính cái nền tảng trên đó giai cấp tư sản đã sản xuất và chiếm hữu sản phẩm của nó, đã bị phá sập dưới chân giai cấp tư sản. Trước hết, giai cấp tư sản sinh ra những người đào huyệt chôn chính nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều tất yếu như nhau".             

Mặt khác, thế kỷ XXI là thế kỷ khoa học và công nghệ có những bước nhảy vọt, kinh tế trí thức ngày càng có vai trò nổi bật trong sự ảnh hưởng đến quá trình lực lượng sản xuất của các quốc gia. Bên cạnh đó, toàn cầu hóa  và hội nhập kinh tế quốc tế đối với mọi nước, nhất là các nước đang phát triển, vừa là thời cơ vừa là thách thức. Đối với nước ta, thời cơ lớn hơn thách thức. Chúng ta chẳng những có khả năng tiếp cận những tiến bộ KHKT, tranh thủ nắm bắt và vận dụng những thành tựu khoa học và công nghệ sản xuất, trình độ sản xuất, kỹ năng lao động, trình độ tổ chức và quản lý sản xuất của con người để nhanh chóng xây dựng lực lượng sản xuất hiện đại mà còn có khả năng tạo ra thời cơ nếu ta có đường lối đúng, có bản lĩnh để thực hiện đường lối đó. 

Trong thời gian qua nền kinh tế ở Việt Nam đã đạt được những kết quả quan trọng như: tăng trưởng GDP ở nhịp độ cao,  cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng của công nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỉ trọng nông nghiệp. Cơ cấu của từng ngành cũng có sự chuyển dịch dần theo hướng phát huy lợi thế cạnh tranh hơn đối với thị trường trong và ngoài nước. Tỉ lệ huy động vốn cho đầu tư phát triển có xu hướng tăng , các nguồn lực trong xã hội được huy động tốt hơn, đặc biệt trong khu vực kinh tế tư nhân, đầu tư cho cơ sở hạ tầng có tiến bộ, năng lực sản xuất của nhiều ngành tăng lên.

Về chủ quan, Qua hơn 20 năm thực hiện những nội dung đối mới đó, nền kinh tế nước ta đã có những bước chuyển tích cực trong việc xây dựng nền tảng cơ sở vật chất cho CNXH. Tăng trưởng kinh tế nhanh,  cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường, mở rộng quan hệ quốc tế. Tỷ lệ đói nghèo giảm với khoảng 25 triệu người thoát khỏi đói nghèo. Song song với sự thành tựu về kinh tế là sự đổi mới về kiến trúc thượng tầng bắt đầu từ việc đổi mới về chính trị. Đảng cộng sản Việt Nam đã chứng tỏ một bản lĩnh chính trị vững vàng và đường lối lãnh đạo đúng đắn. Nhà nước đã có nhiều cố gắng trong việc điều hành và quản lý đất nước. Chúng ta đã có bài học của ba mươi năm lãnh đạo xây dựng kinh tế trong hòa bình với tư cách của một Đảng cầm quyền duy nhất của một nước có gần 90 triệu dân vốn cần cù, thông minh và giàu nghị lực sáng tạo. Đó là những yếu tố chủ yếu đảm bảo sự thành công cho sự nghiệp xây dựng CNXH

Qua nghiên cứu, tổng kết thực tiển với tư duy quan điểm mới Đảng ta đã nhìn nhận vấn đề bỏ qua “giai đoạn” hay “thời kỳ” đơn thuần là rút ngắn thời gian trên cơ sở có được những điều kiện, thời cơ và tiền đề vật chất quan trọng nhất đó là sự phát triển của LLSX và sự trưởng thành của giai cấp vô sản. Cụ thể hoá nội dung “bỏ qua”, đại hội ĐBTQ lần IX của Đảng đã nêu rõ :”Bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của QHSX và KTTT TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh LLSX, xây dựng nền KT hiện đại”. Nghĩa là chúng ta thừa nhận sự tồn nền KT nhiều thành phần theo định hướng XCHN. Có tiếp nhận, cải tạo các quan hệ sản xuất cũ và tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát huy mọi thành phần kinh tế, nâng sức sản xuất của XH, tạo ra thật nhiều sản phẩm phong phú có sức cạnh tranh trên thị trường. Đồng thời thông qua sự nghiệp CNH-HĐH – đây là nội dung mang tính quyết định và đột phá nhằm nâng tầm về chất của LLSX và xây dựng LLSX cần thiết cho chế độ mới. Sự nghiệp CNH phải đi đôi với HĐH nghĩa là trong xu thế tất yếu của toàn cầu hoá kinh tế và trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học công nghệ ngày nay chúng ta tiếp tục đường lối kinh tế đối ngoại rộng mở, hoà nhập đi trước đón đầu, mở cửa hiện đại hoá ra bên ngoài tiếp thu những thành tựu khoa học hiện đại của nhân loại, chú trọng phát triển kinh tế theo chiều sâu đó là xây dựng LLSX phát triển với thiết bị hiện đại, công nghệ hàng đầu, đặc biệt là đào tạo lực lượng lao động có trình độ chuyên môn hoá cao là điều kiện cần thiết để nền KT phát triển nhanh, bền vững và hiệu quả.

Tóm lại ”XD CNXH bỏ qua chế độ TBCN tạo ra sự biến đổi về chất của XH, trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn phức tạp, cho nên phải trãi qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặn đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế XH có tính chất quá độ” là  quan điểm đúng đắn của Đảng ta trong việc vận dụng một cách hiệu quả mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, phù hợp với  tình hình đất nước. Phù hợp với tiến trình lịch sử – tự nhiên của sự phát triển xã hội.

 

Câu 14: Chủ nghĩa duy vật lịch sử là gì? Giải thích luận điểm của V.I.Lê nin: Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mac là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Một lý luận hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay đổi cho sự lộn xộn và sự tùy tiện, vẫn ngự trị từ trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử và chính trị”.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về xã hội của triết học Mác-Lênin, là kết quả của sự vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng  phép biện chứng duy vật vào việc nghiên cứu đời sống xã hội  lịch sử nhân loại. Chủ nghĩa duy vật lịch sử là một trong ba bộ phận hợp thành của triết học macxit, khoa học về những quy luật chung nhất của xã hội, là hai phát kiến khoa học của Mác đã đặt cơ sở khoa học cho sự tồn tại, phát triển học thuyết của mình.

Theo V.I.Lênin: Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Một lý luận hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay đổi cho sự lộn xộn và sự tùy tiện, vẫn ngự trị từ trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử và chính trị”.

Bởi vì:

Chủ nghĩa duy vật trong lịch sử triết học trước Mác nói chung chỉ thể hiện trong quan niệm về tự nhiên, khi chuyển sang lĩnh vực xã hội thì các nhà duy vật thường rơi vào các quan điểm duy tâm. Chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng tách rời nhau, chưa có sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng. Chưa có sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, chưa thấy hết vài trò thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và tiêu chuẩn của chân lý, chưa nhận thức hết ý nghĩa thực tiễn cao nhất của triết học là hướng đến phát triển xã hội và giải phóng con người. Xem triết học là khoa học của mỗi khoa học, chưa xác định đúng mối quan hệ giữa triết học với các khoa học cụ thể.

Nhưng đến khi quan niệm của Mác về chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chỉ ra quy luật vận động của lịch sử xã hội loài người, sự thay thế của các hình thái kinh tế - xã hội, quy luật biện chứng giữ lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có vai trò quyết định. Các quan hệ về kinh tế, cơ sở hạ tầng quyết quyết định các quan hệ về chính trị, kiến trúc thượng tầng.

Triết học duy vật lịch sử cũng phát hiện ra vai trò xứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, giai cấp công nhân phối hợp với các giai cấp khác trong xã hội thực hiện cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và hướng mục tiêu cuối cùng  là giải phóng con người ra khỏi mọi áp bức, bất công, xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng, văn minh, đó là chủ nghĩa cộng sản. Với bản chất duy vật triệt để, triết học Mác trở thành công cụ vĩ đại để nhận thức và cải tạo thế giới, tạo ra bước phát triển mới về chất, một sự nhảy vọt so với các hệ thống triết học khác trong lịch sử.

Triết học Mác đã thống nhất trong thế giới quan duy vật với phương pháp luận biện chứng. Kế thừa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong triết học cổ điển Đức, Mác đã xây dựng nên chủ nghĩa duy vật biện chứng, hình thức phát triển cao trong nhất của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng duy vật, hình thức phát triển cao nhất của phép biện chứng trong lịch sử triết học, với tính cách là khoa học về sự phát triển của thế giới tự nhiên, lịch sử xã hội loài người và tư duy.

Chỉ ra được sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Triết học Mác không chỉ là lý luận khoa học phản ánh bản chất, quy luật của sự vận động và phát triển của thế giới, mà quan trọng hơn, đó là học thuyết nhằm mục đích cải tạo thế giới. Vì vậy sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản của triết học Mác.

Triết học Mác đã chỉ rõ vai trò thực tiễn và sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn mới thực sự được xem là một nguyên tắc căn bản, chi phối mọi hoạt động con người. Sự ra đời của triết học Mác đã xác định đúng mối quan hệ giữa triết học với các khoa học cụ thể, đoạn tuyệt với quan niệm coi triết học là khoa học của mỗi khoa học, nhưng đồng thời cũng không cho phép chủ nghĩa thực chứng cô lập, tách triết học ra khỏi khoa học cụ thể. Khi xác định đúng đối tượng của triết học là nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, triết học Mác không những không tách rời, mà trái lại, nó đòi hởi phải thực hiện mối liên hệ mật thiết, đúng đăng giữa triết học với các khoa học chuyên ngành.

Thống nhất giữa tính khoa học với tính cách mạng. Bản chất khoa học của triết học Mác đã bao hàm trong minh bản tính cách mạng của nó và bản chất cách mạng của triết học Mác cũng đã thể hiện trong bản tính học của nó. Tính khoa học càng sâu sắc, tức phản ánh càng đúng các quy luật khách quan chi phối sự phát triển thế giới, thì khi quá trình vận dụng nó vào hiện thực để cải tạo thế giới càng diễn ra hiệu quả, tức tính cách mạng được thể hiện càng cao, càng triệt để.

Thông qua hoạt động cải tạo thế giới, qua vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản, triết học Mác đã chứng minh sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chế độ xã hội chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử. “Chỉ có chủ nghĩa duy vật, triết học của Mác là đã chỉ cho giai cấp vô sản con đường phải theo để thoát khỏi chế độ nô lệ về tinh thần, trong tất cả các giai cấp bị áp bức đã sống lay lắt từ trước tới nay”. Triết học Mác là vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản, còn giai cấp vô sản là vũ khí của triết học Mác trong cuộc đấu tranh vì xã hội tương lai. Đồng thời, thông qua hoạt động cải tạo thế giới triết học Mác không ngừng được điều chỉnh, bổ sung để phản ánh đúng thế giới khác quan.

Bản chất khoa học và cách mạng trong triết học Mác biểu hiện ở bản chất khoa học và cách mạng của phép biện chứng, Mác cho rằng: “Dưới dạng hợp lý của nó, phép biện chứng chỉ đem lại sự giận dữ và kinh hoàng cho giai cấp tư sản và bọn tư tưởng gia giáo điều của chúng mà thôi, vì trong quan biện tích cực về cái hiện đang tồn tại, phép biện chứng động thời cùng bao hàm cả quan niệm về sự phủ định cái hiện đang tồn tại đó, về sự diệt vong tất yếu của nó; vì mỗi hình thái đã hình thành đều được phép biện chứng xét ở trong sự vận động, tức là xét cả mặt nhất thời của hình thái đó; vì phép biện chứng không khuất phục trước một cái gì cả, và về thực chất thì nó có tính phê phán và cách mạng”.

Sự phát triển của các lĩnh vực khoa học khác nhau trong việc nghiên cứu thế giới tự nhiên và xã hội đặt cơ sở cho những khái quát mạng tính phổ biến của triết học. Mặt khác, những kết luận của triết học trở thành cơ sở của thế giới quan khoa học và phương pháp luật chung nhất cho sự phát triển của các lĩnh vực khoa học. thực tiễn khoa học đã chứng minh, những thành tựu nghiên cứu của các khoa học về tự nhiên và xã hội là tiền đề, cơ sở khoa học cho hệ thông phạm trù, quy luật triết học đồng thời, ngược lại hệ thống phạm trù, quy luật triết học định hướng cho sự phát triển hợp quy luật của các lĩnh vực khoa học khác nhau.

Không có triết học duy vật biện chứng khoa học hiện đạim không thể có những bước tiến dài và vững chắc. Sự phát triển của khoa học hiện đại ngày nay càng chứng minh cho mối liên hệ thống nhất giữa khoa học với triết học Mác trên con đường nhận thức và cải tạo thế giới.

Tóm lại, nghiên cứu chủ nghĩa duy vật lịch sử là nghiên cứu toàn bộ xã hội với tất cả các mặt, các quan hệ xã hội, các quá trình có liên hệ nội tại và tác động lẫn nhau của xã hội, những quy luật chung nhất phổ biến nhất của sự phát triển xã hội. Vì Mác viết: “các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”. Đó là biểu hiện của tính hiện thực, tính thực tiễn vô cùng sâu sắc trong triết học Mác –Lê nin.

Câu 15: Hãy giải thích và chứng minh luận điểm sau đây của Lênin:

“ Chỉ có đem quy những quan hệ xh vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ SX vào trình độ của những LLSX thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”

 I. Khái niệm:

 Xã hội – Bộ phận đặc thù của tự nhiên:

 Sự tác động qua lại giữa xã hội và tự nhiên:

 * Tự nhiên: Theo nghĩa rộng tự nhiên là toàn bộ thế giới vật chất vô cùng, vô tận.

 Quá trình tiến hóa của tự nhiên từ vô cơ        hữu cơ     sự sống. Từ đơn bào                 đa bao. Từ động vật bậc thấp                    động vật bậc cao       con người xuất hiện.

- Con người xuất hiện:

 + Là kết quả của các các quy luật sinh học. Đó là quá trình biến dị, di truyền đột biến trên và đấu tranh sinh tồn ( để thích nghi với môi trường sống và để cơ thể sinh học ngày càng hoàn chỉnh)

 + Là kết quả của quá trình lao động, bởi: khi con người tác động vào tự nhiên, cơ thể con người ngày càng phát triển hoàn chỉnh hơn       bộ não phát triển. khi tác động vào tự nhiên, con người phải có quan hệ với nhau ( theo một phương thức nhất định).

Do đó, xuất hiện nhu cầu trao đổi với nhau        ngôn ngữ xuất hiện. cho nên, chính lđ là tác nhaanquan trọng hàng đầu thúc đẩy quá trình chuyển biến từ động vật thành con người. Đó chính là quá trình chuyển biến từ cộng đồng mang tính bầy đàn, hành đọng theo bản năng thành cộng đồng xã hội.

Xã hội: xã hội là hình thái vận động cao nhất của thế giới vật chất, là biểu hiện tổng số những mối liên hệ và những quan hệ của những cá nhân, hình thái vận động này lấy con người và sự tác động lẫn nhau giữa con người với con người làm nền tảng.

Xã hội là một bộ phận đặc thù của tự nhiên. Hệ thống tự nhiên xã hội là một chỉnh thể, trong đó yếu tố tự nhiên và yếu tố xã hội tác động qua lại với nhau, quy định sự tồn tại và phát triển của nhau.

* Vai trò của các yếu tố tự nhiên:

 - Tự nhiên là nguồn gốc của xã hội.

 - Tự nhiên là môi trường tồn tại và phát triển của xã hội.

 * Khái niệm môi trường: Là toàn bộ những điều kiện tự nhiên và nhân tạo mà trong đó con người sinhy sống. Môi trường bao gồm: môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.

 * Vai trò của yếu tố xã hội:

 - Thông qua lao động con người cải biến tự nhiên nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình

 - Thông qua hoạt động cải biến tự nhiên, con người tự hoàn thiện mình.

 - Tự nhiên cung cấp các nguồn vật chất để con người tồn tại và phát triển. Ngược lại chính trong quá trình sử dụng các nguồn vật chất đó, con người đã biến đổi tự nhiên.

 - Trong quá trình trao đổi chất này, nếu con người không kiểm tra, điều tiết việc ssuwr dụng, khai thác, bảo quản quản các nguồn vật chất của tự nhiên thì sẽ khủng hoảng sinh thái, sẽ phá vỡ sự cân bằng của hệ thống tự nhiên xã hội, sự sống của con người và loài người sẽ bị đe dọa.

Chính vì vậy, con người phải nắm chắc các quy luật tự nhiên, kiểm tra, điều tiết hợp lý việc bảo quản, khai thác sử dụng và tái tạo các nguồn vật chất của tự nhiên, để đảm bảo sự cân bằng của hệ thống tự nhiên – xã hội. Ngược lại, nếu bất chấp quy luật thì sẽ phá vỡ cân bằng hệ thống tự nhiên, xã hội con người sẽ bị tự nhiên trả thù, sẽ xảy ra khủng hoảng môi trường sinh thái.

Vai trò của dân số trong sử phát triển của xã hội

+ Khái niệm dân số: Là lượng người sinh sống trong một vùng, lãnh thổ nhất định.

+ Khái niệm này bao hàm nhiều mặt như: số lượng dân cư, chất lượng dân cư, mật độ dân cư.

* Vai trò các mặt này trong sự phát triển xã hội biểu hiện vai trò của dân số trong sự phát triển xã hội.

* Vai trò của số lượng dân cư: Số lượng dân cư là số lượng người của dân số phản ánh khả năng cung cấp lực lượng lao động của xã hội. Điều này được thể hiện qua chỉ số về thể lực tính theo lao động cơ bắp.

* Vai trò của chất lượng dân cư: chất lượng dân cư là chất lượng người của dân số, thể hiện sức mạnh, trí lực của con người như: thông minh, kĩ năng, kĩ xảo…

Ngoài ra mật độ dân cũng ảnh hưởng trực tiếp tới nguồn lao động, phân công lao động… và sự gia tăng dân số cũng ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng dân cư, chất lượng dân cư. Dân số tăng chậm                    khó khăn về lương thực, nhà ở, y tế, giáo dục…

Lực lượng sản xuất: Là biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất:

LLSX thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất.

Kết cấu của LLSX bao gồm;

 + Người lao động ( yếu tố quan trọng nhất)

 + Tư liệu sản xuất: Tư liệu lao động ( công cụ lao động và phương tiện lao động); đối tượng lao động ( có sẵn trong tự nhiên hoặc đó qua chế biến)

 Tất cả các yếu tố này có quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau trong quá trình sản xuất, trong đó công cụ lao động là yếu tố động, cách mạng và quan trọng, là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế.

Trong sự phát triển của LLSX, khoa học ngày càng đóng vai trò to lớn và quan trọng trong sản xuất. Ngày nay khoa học phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đỏi to lớn trong sản xuất và trong đời sống xã hội.

Chính Mác đã đưa ra dự kiến khoa học trở thành “ LLSX trực tiếp” và đến nay dự kiến đó càng sáng tỏ.

Những phát minh khoa học trở thành điểm xuất phát cho ra đời những ngành sản xuất mới, máy móc thiết bị và công nghệ mới, nguyên vật liệu mới và nguồn năng lượng mới.

Khoa học thấm vào mọi yếu tố trong quá trình sản xuất, trong kết cấu của LLSX. Với cuộc cách mạng khoa học công nghệ, lao động trí tuệ ngày càng đóng vai trò chính – đó chính là đặc trưng của LLSX hiện đại.

Tại Đại hội VIII, Đảng ta vạch ra mục tiêu đối với sự phát triển sản xuất nói chung, của khoa học công nghệ nước ta nói riêng như sau: Từ nay đến 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp.

Quan hệ sản xuất:

KN: là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất. Quan hệ sản xuất gồm ba mặt; quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra.

Quan hệ sx do con người tạo ra, nhưng nó hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.

Ba mặt của QH sản xuất thống nhất với nhau tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động phát triển không ngừng của LLSX.

Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định 2 quan hệ còn lại

Quan hệ tổ chứ và quản lý sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình sản xuất

Quan hệ về phân phối sản phẩm sản xuất ra kích thích trực tiếp đến lợi ích của con người nên nó tác động đến thái độ của con người trong lao động sx, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất phát triển.

Hình thái kinh tế - xã hội:

KN: là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu QHSX đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của LLSX và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những QHSX ấy.

 Phải đem quy các quan hệ sản xuất vào trình độ của lực lượng sản xuất:

 QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX. Giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của LLSX có mối quan hệ biện chứng. Chúng đều là hai mặt của phương thức sản xuất chúng tồn tại không thể tách rời nhau, tác động qua lại với nhau tạo thành quy luật về sự phù hợp. QHSX phải phù hợp với sự phát triển của LLSX và trình độ của LLSX.

 Trình độ đó là:

 Trình độ công cụ lao động: trong từng giai đoạn lịch sử, thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên.

 Trình độ tổ chức và phân phối lao động.

 Trình độ kinh nghiệm và kĩ năng lao động của con người.

 Sự vận động, phát triển của LLSX quyết định và làm thay đổi QHSX cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sả xuất mới ra đời, khi đó QHSX xuất phù hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu SX và do đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó.

 LLSX quyết định đến QHSX, nhưng QHSX cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của LLSX. QHSX quy điịnh mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng của khoa học và công nghệ… do đó tác động đến sự phát triển của LLSX. Nếu QHSX phù hợp thì nó sẽ thúc đẩy sự phát triển của LLSX, và ngược lại nó sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX.

 Trong 2 mặt của phương thức sản xuất. Sản xuất là yếu tố động, biến đổi và phát triển theo chiều tiến lên của nền sản xuất xã hội, còn mặt QHSX thì tương đối ổn định. Khi LLSX phát triển đến một trình độ mới ở mức độ cao hơn thì sẽ xuất hiện mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX, sự phù hợp giữa QHSX với LLSX sẽ chuyển thành không phù hợp, khi đó QHSX lỗi thời sẽ kìm hãm LLSX phát triển mâu thuẫn trở nên gay gắt tất yếu sẽ dẫn đến việc xã hội phải xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế vào đó là quan hệ sản xuất mới phù hợp, khi đó QHSX lỗi thời sẽ dẫn đến việc xã hội phải xóa bỏ quản QHSX của LLSX. Khi đó LLSX sẽ quyết định sự hình thành và phát triển mối QH chung. Khong sớm hay muộn QHSX cũng biến đổi cho phù hợp với sự phát triển của LLSX. Vì thế nên ta đem quy các QHSX vào trình độ của LLSX. Tuy vậy QHSX cũng có tính chất độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của LLSX. QHSX quyết điịnh mục đích của SX, tác động đến con người trong lao động sản xuất, biết tổ chức và phân công lao động xã hội đến ứng dụng khoa học công nghệ. Do đó nó tác động đến sự phát triển của LLSX.

 Tuy nhiên việc giải quyết mâu thuẫn giữa QHSX và LLSX không phải đơn giản nó phải thông qua nhận thức và hoạt động cải tạo xã hội của con người trong xã hội có giai cấp phải thông qua đấu tranh giai cấp.

 Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của LLSX là quy luật phổ biến tác động đến toàn bộ tiến trình ls của nhân loại. Phương thức sản xuất củ được thay thế bằng phương thức sản xuất mới là việc xh cũ được thay thế bằng xh mới tiến bộ hơn phù hợp hơn với quy luật.

 Hình thái kinh tế - xh lại là một quá trình lịch sử tự nhiên:

 Phạm trù hình thái kinh tế - xh:

 Hình thái kt-xh là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật ls dùng để chỉ xh ở từng giai đoạn ls nhất định của LLSX và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những QHSX ấy.

 Hình thái kt-xh là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, trong đó có các mặt cơ bản là LLSX, QHSX và KTTT. Mỗi mặt của hình thái kt-xh có vị trí riêng và tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau.

 LLSX là nền tảng vật chất – kỹ thuật của mỗi hình thái kt-xh. Hình thái kt-xh khác nhau có LLSX khác nhau. Suy đến cùng, sự phát triển của LLSX quyết định sự hình thành, phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kt-xh.

 QHSX là “quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định tất cả mội QHXH khác”. QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX và tác động tích cực trở lại LLSX.

 Các quan điểm về chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học v.v… các thiết chế tương ứng được hình thành, phát triển trên cơ sở các QHSX tạo thành KTTT của xh. KTTT được hình thành và phát trieern phù hợp với cơ sở hạ tầng.

 Sự phát triển của các hình thái kt-xh là quá trình lịch sử - tự nhiên.

 Xh loài người đã phát triển trải qua nhiều hình thái kt-xh nối tiếp nhau. Trên cơ sở phát hiện ra các quy luật vận động phát triển khách quan của xh, C.Mác đã đi đến kết luận: “Sự phát triển của những hình thái kt-xh là một quá trình ls tự nhiên”.

 Hình thái kt-xh là một hệ thống, trong đó, các mặt không ngừng tác động quan lại lẫn nhau tạo thành các quy luật vận động, phát triển khách quan của xh.

 Nguồn gốc sâu xa của sự vận động phát triển của xh là ở sự phát triển của LLSX. Chính sự phát triển của LLSX đã quyết định, làm thay đổi qhsx. Đến lượt mình, QHSX thay đổi sẽ làm cho kiến trúc thượng tầng thay đổi theo, và do đó mà hình thái kinh tế - xã hội cũ được thay thế bằng hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn, tiến bộ hơn.

 Giá trị khoa học của học thuyết hình thái kinh tế - xh.

 Trước Mác, chủ nghĩa duy tâm giữ vai trò thống trị trong khoa học xã hội. Sự ra đời học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đã đưa lại cho khoa học xh một phương pháp nghiên cứu thự sự khoa học.

Câu 16: Giai cấp là gì? Bằng lý luận và thực tiễn, chứng minh rằng: “Trong mọi thời đại, những tư tưởng của giai cấp thống trị là những tư tưởng thống trị. Điều đó có nghĩa là giai cấp nào là lực lượng vật chất thống trị trong xã hội thì cũng là lực lượng tinh thần thống trị trong xã hội”.

1- Giai cấp là gì: Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác không những chỉ ra nguồn gốc cơ bản của giai cấp là từ cơ sở kinh tế, mà còn chỉ ra đặc trưng cơ bản của giai cấp cũng là đặc trưng kinh tế. Trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, V.I.Lênin đã đưa ra định nghĩa về giai cấp như sau:

“Người ta gọi giai cấp, những tập đoàn to lớn, những tập đoàn này khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịc sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ về phần của cải ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định”.

2- Bằng lý luận và thực tiễn chứng minh …:

Những luận điểm cơ bản: Trước hết ta tìm hiểu về nguồn gốc và kết cấu giai cấp:

-       Nguồn gốc giai cấp: Trong xã hội có nhiều nhóm người, tập đoàn người được phân biệt bằng những đặc trưng khác nhau: tuổi tác, giới tính, dân tộc, chủng tộc, quốc gia, nghề nghiệp … Trong những sự khác nhau đó, có một số là do nguyên nhân tự nhiên, một số khác là do nguyên nhân xã hội. Những sự khác biệt đó tự nó không sản sinh ra sự đối lập về xã hội. Chỉ trong những điều kiện xã hội nhất định mới dẫn đến sự phân chia xã hội thành những giai cấp khác nhau.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định sự phân chia xã hội thành giai cấp là do nguyên nhân kinh tế. Sản xuất xã hội dần dần phát triển, việc sử dụng công cụ bằng kim loại làm cho năng suất lao động tăng lên đã dẫn tới sự phân công lại lao động trong xã hội: chăn nuôi tách khỏi trồng trọt, sản xuất thủ công cũng dần dần trở thành một ngành tương đối độc lập với nông nghiệp, lao động trí óc tách khỏi lao động chân tay. Với lực lượng sản xuất mới, chế độ làm chung, ăn chung nguyên thủy không còn thích hợp nữa, sản xuất gia đình cá thể trở thành hình thức sản xuất có hiệu quả hơn. Tư liệu sản xuất và sản phẩm làm ra trở thành tài sản riêng của từng gia đình. Sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất xuất hiện và dần dần thay thế sở hữu cộng đồng nguyên thủy. Chế độ tư hữu ra đời dẫn đến tới sự bất bình đẳng về tài sản trong nội bộ công xã. Xã hội phân hóa thành những giai cấp khác nhau, giai cấp bóc lột thống trị và giai cấp bị bóc lột, bị thống trị. Như vậy, sự phân chia xã hội thành giai cấp là kết quả tất nhiên của chế độ kinh tế dựa trên sự chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Sự hình thành giai cấp diễn ra theo hai con đường:

- Thứ nhất, sự phân hóa bên trong nội bộ công xã thành kẻ bóc lột và người bị bóc lột.

- Thứ hai, những tù binh bị bắt trong chiến tranh giữa các bộ lạc không bị giết như trước mà bị biến thành nô lệ.

Chế độ có giai cấp đầu tiên trong lịch sử xã hội loài người là chế độ chiếm hữu nô lệ, tiếp theo là chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa là bước phát triển cuối cùng và cao nhất của xã hội có giai cấp.

 Kết cấu giai cấp: Mỗi kiểu xã hội có giai cấp đối kháng đều tồn tại một kết cấu giai cấp riêng của nó. Trong kết cấu giai cấp của xã hội bao giờ cũng bao gồm các giai cấp cơ bản đối lập nhau, các giai cấp không cơ bản và tầng lớp trung gian.

Các giai cấp cơ bản đối lập nhau là các giai cấp do phương thức sản xuất của xã hội sinh ra. Đó là các giai cấp: chủ nô và nô lệ (trong phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ), địa chủ và nông nô (trong phương thức sản xuất phong kiến), tư sản và vô sản (trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa). Quan hệ giữa các giai cấp này là quan hệ bóc lột và bị bóc lột, thống trị và bị trị. Trong các xã hội này không thể có sự bình đẳng về địa vị và quyền lợi cho các giai cấp. Cuộc đấu tranh giữa các giai cấp cơ bản quyết định xu hướng, tính chất của sự vận động xã hội.

Các giai cấp không cơ bản là các giai cấp tàn dư của phương thức sản xuất cũ dể lại như: chủ nô và nô lệ (trong giai đoạn đầu của phương thức sản xuất phong kiến), địa chủ và nông nô trong giai đoạn đầu của phương thức sản xuất tư bản) …; hay các giai cấp mầm mống của phương thức sản xuất tương lai như giai cấ tư sản và giai cấp công nhân (trong giai đoạn cuối của phương thức sản xuất phong kiến – thời kỳ công trường thủ công).

Ngoài ra, bất kỳ xã hội có giai cấp nào cũng có một số tầng lớp trung gian là sản phẩm của chính phương thức sản xuất đang thống trị, là kết quả của quá trình phân hóa xã hội không ngừng diễn ra. Đó là tầng lớp bình dân (trong phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ), tiểu tư sản (trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa), tầng lớp trí thức tồn tại trong bất kỳ xã hội có giai cấp nào. Tầng lớp trí thức có vai trò rất quan trọng trong các hoạt động kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa …

Quan điểm về vai trò của quan hệ giữa người và người về vật chất đối với quan hệ giữa người và người về tinh thần. Về điều này, C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Trong mọi thời đại, những tư tưởng của giai cấp thống trị là những tư tưởng thống trị. Điều đó có nghĩa là giai cấp nào là lực lượng vật chất thống trị trong xã hội thì cũng là lực lượng tinh thần thống trị trong xã hội. Giai cấp nào chi phối những tư liệu sản xuất vật chất thì cũng chi phối luôn cả những tư liệu sản xuất, thành thử nói chung những tư tưởng của những người không có tư liệu sản xuất tinh thần cũng đồng thời bị giai cấp thống trị đó chi phối. Những tư tưởng thống trị không phải là cái gì khác mà chỉ là sự biểu hiện tinh thần của những quan hệ vật chất thống trị, chúng là những quan hệ vật chất thống trị được biểu hiện dưới hình thức tư tưởng; do đó là sự biểu hiện của chính ngay của những quan hệ làm cho một giai cấp trở thành giai cấp thống trị; do đó, đó là những tư tưởng của sự thống trị của giai cấp ấy”

Quan hệ giữa con người với con người có hai loại là quan hệ vật chất và quan hệ tinh thần; trong đó, theo C.Mác và Ph.Ăngghen, quan hệ vật chất quyết định quan hệ tinh thần. Quan điểm đúng đắn này của C.Mác và Ph.Ăngghen về xã hội là cơ sở phương pháp luận khoa học vô cùng quan trọng để chúng ta xem xét và phân tích chính xác các vấn đề quan trọng và phức tạp của triết học xã hội, như bản chất của chiến tranh, bản chất của nhà nước và pháp luật, bản chất của chính trị, đạo đức và tôn giáo…

Trong lịch sử, từ xa xưa cho đến nay, vẫn thường xuyên xảy ra những cuộc chiến tranh tàn khốc mà thoạt nhìn, chúng ta dễ lầm tưởng đó là những cuộc chiến tranh thuần túy vì những tư tưởng nào đó (thuần túy vì tôn giáo, vì độc lập dân tộc, vì tự do, vì nhân nghĩa...). Thực ra thì không phải như vậy. Nguyên nhân xâu sa của mọi cuộc chiến tranh giữa người và người là sự tranh giành các tư liệu sinh hoạt (thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo...). Tranh giành về tư tưởng nào đó nếu có thì chỉ là nguyên nhân phái sinh chứ không phải là nguyên nhân sâu xa của các cuộc chiến tranh. Thông thường, để gây ra một cuộc chiến tranh thì người gây chiến phải tìm một lý do tư tưởng nào đó, tức là phải coi cuộc chiến chiến tranh ấy là “hợp lý”, “có  giá trị phổ biến”. Điều này cũng đúng đối với các hành vi bạo lực của nhà nước dùng để trấn áp sự phản kháng của những người không chấp hành pháp luật của nhà nước.  “Thật ra, mỗi giai cấp mới thay thế cho giai cấp thống trị trước mình, muốn thực hiện được mục đích của mình, đều nhất thiết phải biểu hiện lợi ích của bản thân mình thành lợi ích chung của mọi thành viên trong xã hội hay nói một cách trừu tượng: phải gắn cho những tư tưởng của bản thân mình một hình thức phổ biến, phải biểu hiện những tư tưởng đó thành những tư tưởng duy nhất hợp lý, duy nhất có giá trị phổ biến”. Nhà nước tư sản “chẳng phải là cái gì khác mà chỉ là hình thức tổ chức mà những người tư sản buộc phải dùng đến để bảo đảm lẫn cho nhau sở hữu và lợi ích của họ, ở ngoài nước cũng như ở trong nước”, “nhà nước là hình thức mà các cá nhân thuộc một giai cấp thống trị dùng để thực hiện lợi ích chung của họ và là hình thức dưới đó toàn bộ xã hội công dân của một thời đại được biểu hiện một cách tập trung”.

Quan điểm trên đây, về thực chất, chính là quan điểm về mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.

Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của nó, giữa chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng và kiến trúc thượng tầng tác động trở lại cơ sở hạ tầng.

Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng

Cơ sở hạ tầng sinh ra kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng của một xã hội nhất định như thế nào, tính chất của nó ra sao, giai cấp đại diện cho nó thế nào thì hệ thống tư tưởng chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học, v.v. và các quan hệ; các thể chế tương ứng với những tư tưởng ấy cũng như vậy.

Cơ sở hạ tầng quyết định sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng. Sự biến đổi đó xảy ra trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội, cũng như từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác.Trong xã hội có đối kháng giai cấp, sự biến đổi đó diễn ra thông qua cuộc đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp.

Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng là quy luật phổ biến của mỗi hình thái kinh tế - xã hội.

Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng

Sự tác động tích cực của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng thể hiện trước hết ở chức năng chính trị - xã hội của kiến trúc thượng tầng nhằm bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó; đấu tranh xoá bỏ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ.

Các bộ phận khác nhau của kiến trúc thượng tầng đều tác động đến cơ sở hạ tầng bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng có tác động to lớn nhất và trực tiếp đối với cơ sở hạ tầng.

Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội, kiến trúc thượng tầng có những quá trình biến đổi nhất định. Quá trình đó càng phù hợp với cơ sở hạ tầng thì sự tác động của nó đối với cơ sở hạ tầng càng có hiệu quả; ngược lại, quá trình đó không theo cùng chiều với quy luật vận động của cơ sở hạ tầng thì nó sẽ cản trở sự phát triển của cơ sở hạ tầng.

Trong thời đại ngày nay, vai trò của kiến trúc thượng tầng tăng lên rõ rệt, càng thể hiện với tư cách là một yếu tố tác động mạnh mẽ đến tiến trình lịch sử. Song nếu quá nhấn mạnh hoặc thổi phồng vai trò của kiến trúc thượng tầng đến mức phủ định tính tất yếu kinh tế của xã hội, thì sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm chủ quan, duy y chí.

sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong thời kỳ quá độ ở nước ta

Cơ sở hạ tầng trong thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền với các hình thức sở hữu tương ứng với các thành phần kinh tế khác nhau, thậm chí đối lập nhau, cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế thống nhất theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Về xây dựng kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa ở nước ta,Đảng ta đã khẳng định: lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng cho mọi hoạt động tinh thần của xã hội. Xây dựng hệ thống chính trị xã hội xã hội chủ nghĩa mang tính chất giai cấp công nhân, do đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, bảo đảm cho nhân dân thực sự là người chủ của xã hội. Các tổ chức, bộ máy tạo thành hệ thống chính trị - xã hội không tồn tại như một mục đích tự thân mà vì phục vụ con người, thực hiện cho được lợi ích và quyền lực thuộc về nhân dân lao động.

Mỗi bước phát triển của cơ sở hạ tầng hoặc kiến trúc thượng tầng là một bước giải quyết mâu thuẫn giữa chúng. Việc phát triển và củng cố cơ sở hạ tầng, điều chỉnh và củng cố các bộ phận của kiến trúc thượng tầng là một quá trình diễn ra trong suốt thời kỳ quá độ.

Sự định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần thì hoạt động định hướng của kiến trúc thượng tầng chính trị không chỉ bó hẹp trong kinh tế quốc doanh mà phải hoạt động bao quát cả trong những thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nhằm từng bước xã hội hoá nền sản xuất với những hình thức và bước đi thích hợp theo hướng: kinh tế quốc doanh được

Củng cố và phát triển ở những vị trí chủ  đạo, kinh tế tập thể dưới hình thức thu hút phần lớn những người sản xuất nhỏ trong các ngành nghề, các hình thức xí nghiệp, công ty cổ phần phát triển mạnh,kinh tế tư nhân và gia đình phát huy được mọi tiềm năng, các tập đoàn kinh doanh lớn có sức chi phối trong nền kinh tế được hình thành.

Đảng ta đã vận dụng mối quan hệ biện chứng này vào quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay:

Nhà nước với tư cách là một yếu tố cơ bản của kiến trúc thượng tầng, luôn có tác động toàn diện tới mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội; không ngừng đổi moi hệ thống chính trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, nâng cao vai trò của tổ chức quần chúng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc; phát triển văn hóa, xây dựng văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân.

Trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, cần vận dụng và quán triệt quan hệ  biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng là kết cấu kinh tế đa thành phần trong đó có thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể và nhiều thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể và nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Tính chất đan xen quá độ về kết cấu của cơ sở kinh tế vừa làm cho nền kinh tế sôi động, phong phú, vừa mang tính chất phức tạp trong quá trình thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một kết cấu kinh tế năng động, phong phú, được phản chiếu lên kiến trúc thượng tầng và đặt ra đòi hỏi khách quan là nền kiến trúc thượng tầng cũng phải được đổi mới để đáp ứng đòi hỏi của cơ sở kinh tế. Như vậy kiến trúc thượng tầng mới có sức mạnh đáp ứng kịp thời đòi hỏi của cơ sở hạ tầng.

Tuy nhiên, việc đổi mới cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là việc rất phức tạp. Điều quan trọng trước hết là cần sớm hình thành và thống nhất những quan điểm xử lý thiết yếu: Thứ nhất, cần một phương pháp tiếp cận vấn đề một cách cụ thể không làm theo cách “cháy đâu chữa đấy” từ đó tìm ra nguyên nhân chủ yếu của vấn đề để đưa ra những luận chứng có tính khả thi; Thứ hai, cần theo dõi chặt chẽ, khai thác sàng lọc và xử lý các loại tín hiệu của nền kinh tế một cách kịp thời trên cơ sở chủ chương chính sách thích hợp khuyến khích các hoạt động kinh tế lành mạnh đồng thời phải xây dựng một cơ chế điều hành kinh tế cho phép thâu lượm đánh giá, xử lý kịp thời mọi tín hiệu kinh tế trong phạm vi cả nước; Thứ ba, hoàn thiện các thủ tục tài chính, tăng cường kỷ cương pháp luật trong điều hành tài chính quốc gia từ trung ương đến từng người sản xuất.

 

Câu  17  : Anh/Chị hãy phân tích quan điểm của triết học Mac-Lênin về bản chất con người và về vấn đề giải phóng con người.

1/ Quan điểm của triết học Mac-Lênin về bản chất con người

a. Con người là một thực thể sinh vật – xã hội

- Khoa học và thực tiễn đã chứng tỏ rằng, tiền đề đầu tiên của sự tồn tại người là sự sống của thể xác

Thể xác sống của con người chính là sản phẩm tiến hóa lâu dài của tự nhiên, là sự tiếp tục phát triển của tự nhiên. Ph.Aêngghen viết : “Bản thân chúng ta với cả xương thịt, máu mủ và đầu óc chúng ta là thuộc về giới tự nhiên”. Do vậy, trước hết nó bị chi phối bởi các quy luật tự nhiên sinh học như : quy luật trao đổi chất giữa cơ thể với môi trường, quy luật biến dị và di truyền, quy luật tiến hóa …

- Sự tồn tại của con người còn gắn liền trực tiếp với sự tồn tại của xã hội

Để thỏa mãn các nhu cầu của mình, con người phải tiến hành lao động sản xuất, qua đó tạo thành các mối quan hệ xã hội và xã hội; trong đó “ xã hội sản sinh ra con người với tính cách là con người như thế nào thì con người cũng sản sinh ra xã hội như thế”. Sự tồn tại xã hội của con người gắn liền với sự tồn tại của ý thức.

- Con người là một thực thể sinh vật – xã hội, trong đó có sự tác động đan xen của ba hệ thống nhu cầu (nhu cầu sinh học, nhu cầu xã hội, nhu cầu tinh thần) và ba hệ thống quy luật (quy luật sinh học, quy luật xã hội, quy luật tinh thần)

Mỗi hệ thống nhu cầu và quy luật này đều có vị trí, vai trò và tác dụng của mình trong sự tồn tại và phát triển của con người đồng thời chúng tham gia vào việc quy định bản chất của nó; trong đó hệ thống nhu cầu và quy luật xã hội luôn giữ vị trí trung tâm và có vai trò quyết định.

Các nhu cầu của con người, dù là nhu cầu vật chất hay tinh thần, mang tính tự nhiên và xã hội, đều được quy định bởi lịch sử, nhưng con người hoàn toàn có thể tự điều chỉnh, tự kiểm tra các nhu cầu và hoạt động của mình.

Con người tồn tại trong thế giới không phải như các sinh vật khác, mà tồn tại với tư cách là chủ thể của quá trình nhận thức và hành động cải tạo thế giới, cải tạo xã hội và cải tạo chính bản thân con người.

b. Con người là chủ thể của lịch sử

- Triết học Mac-Lênin cho rằng, con người là sản phẩm của lịch sử (sản phẩm của điều kiện tự nhiên và điều kiện xã hội) đồng thời chính là chủ thể sáng tạo ra quá trình lịch sử ấy-lịch sử của con người. Đó là quá trình hoạt động có ý thức của con người nhằm mục đích cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và cải tạo chính bản thân con người.

- Trên cơ sở vận dụng phép biện chứng duy vật, C.Mác đã khảo sát bản chất con người bắt đầu từ hoạt động thực tiễn, từ trong hoàn cảnh xã hội lịch sử cụ thể.

- “Bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”, luận điểm này cho thấy, con người là một thực thể có tính loài. Đặc tính “loài” của con người hiện thực tức là tính người. Tính người bao gồm toàn bộ các thuộc tính vốn có của con người, trong đó có ba thuộc tính cơ bản nhất đó là : thuộc tính tự nhiên, thuộc tính xã hội và thuộc tính tư duy.

- “Bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”, quan hệ xã hội ở đây được hiểu là tổng thể các quan hệ mà con người đã có, đang có và trong chừng mực nào đó còn bao hàm cả những quan hệ trong tương lai.

- Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội, nhưng con người bao giờ cũng là con người riêng biệt, con người cụ thể, ứng với những thời đại, những giai đoạn lịch sử nhất định, với từng tập đoàn người, đồng thời nó cũng mang bản chất chung của nhân loại, phát triển trong toàn bộ lịch sử loài người.

2/ Quan điểm của triết học Mac-Lênin về giải phóng con người

- Triết học Mac-Lênin là triết học vì con người. Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mac và Ph.Aêngghen đã viết : “vĩnh viễn giải phóng toàn thể xã hội khỏi ách bóc lột, ách áp bức” song “xã hội không thể nào giải phóng cho mình được, nếu không giải phóng cho mỗi cá nhân riêng biệt”. Như vậy, tư tưởng giải phóng con người, giải phóng nhân loại là tư tưởng xuyên suốt, là cái cốt lõi của Triết học Mac- Lênin.

- Triết học Mac-Lênin không phải là triết học đầu tiên đề cập đến vấn đề giải phóng con người. Vấn đề giải phóng con người đã được nhiều học thuyết triết học đề cập đến, nhưng do hạn chế bởi lịch sử , do chưa hiểu đúng về con người, về bản chất con người, cho nên khi xác định giải phóng con người là giải phóng đối tượng nào, bằng các nào, giải phóng như thế nào … các học thuyết triết học trong lịch sử đã đưa ra nhiều quan điểm khác nhau nhưng chưa có được câu trả lời thích đáng.

- Triết học Mac-Lênin, trên cơ sở giải thích đúng đắn và khoa học về con người, về bản chất con người, đã xác định “bất kỳ sự giải phóng nào cũng bao hàm ở chỗ là nó trả thế giới con người, những quan hệ của con người về với bản thân con người”, “là giải phóng người lao động thoát khoải lao động bị tha hóa”. Có thể nói rằng , vấn đề “tha hóa con người” và giải phóng con người chiếm vị trí trung tâm trong quan niệm của C.Mác về đời sống xã hội. “Tha hóa” là biến thành cái bản chất khác với bản chất ban đầu. “Tha hóa con người”, theo C.Mác là con người không còn là chính mình mà trở thành tồn tại khác, cái đối lập với mình. Và nguyên nhân của sự “tha hóa con người” là do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và sự nô dịch nhiều mặt đối với con người gây ra.

- Theo triết học Mac-Lênin, sự “tha hóa con người” là do hoạt động của chính con người tạo ra, vì thế, con người bằng hoạt động tích cực của mình, có thể xoá bỏ được sự “tha hóa” cho mình.

 

+ Cần phải xóa bỏ “chế độ sở hữu tư sản” thứ “ sở hữu vận động trong sự đối lập giữa hai cực tư bản và lao động” nó chính là nguồn gốc sinh ra mọi nô dịch con người trong xã hội tư bản.

+ Sự nghiệp xóa bỏ “tha hóa”, giải phóng cho con người là sự nghiệp của quần chúng nhân dân lao động, trong đó, giai cấp vô sản là lực lượng nòng cốt và quyết định. Bởi vì chỉ có giai cấp vô sản mới có khả năng đem lại tự do và bình đẳng thực sự cho mọi người.

+ Sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng nhân loại là một quá trình lâu dài. Nó phụ thuộc chủ yếu vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, vào các điều kiện vật chất tất yếu cho sự nghiệp giải phóng ấy./.

 

 

-HẾT-

 

nguon VI OLET