MỞ ĐẦU
Năm học 2010 – 2011 là năm học thực hiện thực hiện chủ đề :“ Đổi mới công tác quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục”. Điều đó cũng vừa là một động lực, vừa là trách nhiệm của mỗi người giáo viên trong tình hình giáo dục luôn đổi mới và phát triển như hiện nay. Đổi mới phương pháp, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học ; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.
Vật lí là một môn học khoa học thực nghiệm, mở ra trong các em một thế giới khoa công nghệ mới; hơn nữa toàn bộ chương trình vật lí 8 đều hướng nghiên cứu vào Ngành cơ học và nhiệt học phong phú và đa dạng gần gủi với cuộc sống thực tế.
Chương trình Vật Lý 8 là phần mở đầu giai đoạn hai của chương trình Vật Lý THCS, nên những yêu cầu về khả năng tư duy trừu tượng, khái quát, cũng như yêu cầu về mặt định lượng trong việc hình thành các khái niệm và định luật Vật lý đều cao hơn các lớp ở giai đoạn một. Chính vì thế mà sách giáo khoa Vật Lý 8 có yêu cầu cao hơn về mặt logíc và sự chặt chẽ, tính hệ thống và sự hoàn chỉnh của lý thuyết so với chương trình vật lý ở giai đoạn một. Chính vì thế vấn đề “giải bài toán Vật lý định lượng” ở giai đoạn này cũng có yêu cầu chặt chẽ về tính tư duy logíc và khoa học. Để tạo cho học sinh có những nắm bắt cơ bản về cách phân tích và giải bài toán định lượng trong Vật lý, làm nền tảng cho những năm học sau này. Đồng thời từng bước tạo cho các em có một phong cách làm việc tư duy logíc trong khoa học nói chung và khoa học thực nghiệm nói riêng phù hợp với yêu cầu đặt ra.
Với những lý do trên tôi đã suy nghĩ và đã mạnh dạn xây dựng Giải pháp hữu ích:
“PHÁP GIẢI BÀI` TOÁN ĐỊNH LƯỢNG VẬT LÝ 8” với mong muốn đây là giải pháp cho một phần nhỏ mở đầu về cơ học và nhiệt học có thể áp dụng cho nhiều mục, nhiều bài học khác có nội dung tương tự trong toàn bộ chương trình.



THỰC TRẠNG
1. Thuận lợi:
Các thầy cô giáo còn trẻ nên cũng rất năng động và hết sức giúp đỡ các em trong vấn đề học tập cũng như mọi vấn khác đề trong cuộc sống.
Bên cạnh đó các em được ăn ở tập trung tại trường nên vấn đề tổ chức cho các em học nhóm cũng diễn ra dễ dàng hơn.
Đặc biệt tất cả các học sinh ở nội trú đều là các học sinh khá giỏi ở cấp tiểu học mới được tuyển vào nên vấn đề học tập của các em cũng tốt hơn so với các trường khác trong huyện.
Một thuận lợi nữa là trường đã có phòng học bộ môn nên vấn đề hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm cũng dễ dàng hơn.
Trường THCS DTNT Đam Rông nơi tôi đang công tác tuy mới được thành lập nhưng trường đã có trang bị hệ thống máy chiếu đầy đủ.
Giáo viên sử dụng thành thạo trong việc sọan giáo án điện tử, sử dụng tranh ảnh, thí nghiệm ảo, mô hình và một số phần mềm tiện ích khác trên máy tính, có tinh thần học hỏi để nâng cao nghiệp vụ tay nghề, có nhiều cố gắng để đưa thêm các hình ảnh, ngoài hình ảnh trong sách giáo khoa vào việc minh họa cho tiết dạy.
Phần lớn học sinh ngoan, có thái độ học tập rất nghiêm túc.
2. Khó khăn:
Trường THCS DTNT huyện Đam Rông là một trường thuộc diện khó khăn nhất so với các trường DTNT của tỉnh Lâm Đồng. Trình độ dân trí còn thấp, đa số học sinh là người dân tộc thiểu số. Tình hình kinh tế còn rất nhiều khó khăn, nhận thức về việc học của con em mình rấn hạn chế .... Đó là những nguyên nhân dẫn đến quá trình nhận thức khoa học của học sinh còn rất nhiều khó khăn.
Bên cạnh đó trường được thành lập cách đây không lâu, đội ngũ cán bộ giáo viên còn non trẻ cả về tuổi đời cũng như trình độ tay nghề, kinh nghiệm giảng dạy chưa nhiều, cũng có một số người chưa thực sự tâm huyết với nghề và ý thức gắn bó lâu dài với trường chưa cao. Tài liệu tham khảo cho học sinh hầu như chưa có gì đặc biệt là chương trình sách giáo khoa mới.
Với thực trạng đó và yêu cầu của chương trình sách giáo khoa mới, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học cộng với đặc
nguon VI OLET