Quan hệ đối ngoại của triều Nguyễn trước khi thực dân Pháp xâm lược Đại Nam

539013_216278998498771_17938307_a.jpg

 


 

 

Giới thiệu

 

Vấn đề đối ngoại giữa các quốc gia luôn là một điểm nhấn then chốt trong tiến trình của lịch sử. Ngoại giao là một yếu tố quan trọng đóng vai trò then chốt thúc đẩy kinh tế, xã hội quốc gia phát triển. Không một quốc gia trong giai đoạn hiện nay đóng kín cửa mà không thực hiện công tác ngoại giao với các quốc gia khác. Cũng không có một nước nào phát triển một cách ổn định, bền vững nếu nước đó không trao đổi, buôn bán với nước ngoài.

Lịch sử Việt Nam đã trải qua mấy nghìn năm lịch sử với biết bao sự hi sinh của các vị anh hùng dân tộc, các đồng bào chiến sĩ để ngày hôm nay chúng ta hưởng được nền độc lập, tự do. Do đó, một mặt chúng ta tôn trọng, biết ân, tôn vinh những đóng góp to lớn ấy. Mặt khác, chúng ta phải rút kinh nghiệm từ những sai lầm trong quá khứ để từ đó giúp chúng ta cũng cố xây dựng, phát triển, nâng cao tiềm lực kinh tế, chính trị của quốc gia mình.

Từ trước đến nay, những vấn đề của triều Nguyễn đã thu hút được đông đảo sự chú ý của học giả trong và ngoài nước. Riêng trong lĩnh vực ngoại giao, những đóng góp và hạn chế của triều Nguyễn trong tiến trình xây dựng đất nước trong nửa đầu thế kỷ XIX (1802 – 1858), đã và đang đặt ra nhiều vấn đề thời sự và khoa học trong nghiên cứu lịch sử nói chung và lịch sử ngoại giao nói riêng.

Nhận thấy, tầm quan trọng của việc nghiên cứu bộ môn Lịch sử Việt Nam, đặc biệt là đường lối đối ngoại. Nhóm 5 kính gửi tới thầy và các bạn một số nguồn tư liệu về quan hệ đối ngoại của triều Nguyễn trước khi thực dân Pháp xâm lược nước ta nhằm củng cố và nâng cao hiểu biết đối ngoại, cũng như rút ra được những bài học về công tác ngoại giao phục vụ cho nghề nghiệp sau này.

 Trong bài làm này, chúng ta sẽ chú trọng khảo sát đường lối đối ngoại của Việt Nam với các nước phương Tây qua các thời kỳ vua Gia Long (1802 – 1820), thời vua Minh Mạng (1820 – 1840), thời vua Thiệu Trị (1841 – 1847) và Tự Đức (1847 – 1858). Ngoài ra, chúng ta cũng tìm hiểu công tác đối ngoại của triều Nguyễn với các quốc gia truyền thống là Trung Quốc, Chân Lạp, Champa…

Mặt dù đã bỏ ra nhiều công sức trong việc biên soạn, nghiên cứu để rút ra những kiến thức cốt lõi cho bài nghiên cứu, sai sót là điều khó tránh khỏi. Nhóm 5 rất mong nhận được sự đóng góp từ Thầy cũng như các bạn để nhóm có thể hoàn thành bài nghiên cứu. Nhóm 5 xin chân thành cảm ơn. Sau đây là bài thu hoạch:


Nội dung chính bài tiểu luận

I. QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI CỦA TRIỀU NGUYỄN VỚI CÁC NƯỚC PHƯƠNG TÂY

1. Quan hệ đối ngoại của triều Nguyễn thời vua Gia Long (1802 – 1820)

a. Bối cảnh trong nước, quốc tế và khu vực

Năm 1802, sau khi đánh bại triều Tây Sơn, làm chủ toàn bộ lãnh thổ Đàng Trong và Đàng Ngoài cũ, Nguyễn Ánh lên ngôi vua niên hiệu là Gia Long, lập ra nhà Nguyễn. Vua Gia Long lên ngôi trong bối cảnh mà thế giới và trong nước có nhiều biến động phải đối mặt với nhiều vấn đề cấp bách mà lịch sử đặt ra.

Trong giai đoạn này, trên thế giới, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đang ở vào giai đoạn phát triền cực thịnh làm cho nhu cầu về thuộc địa của các nước lớn tăng cao. Các cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa được đẩy mạnh. Vùng Châu Á rộng lớn là một miếng mồi ngon cho các nước đế quốc.

Trước sự bành trướng của các nước đế quốc, nhiệm vụ của các quốc gia châu Á lúc này là bảo vệ nền độc lập dân tộc. Có rất nhiều quốc gia châu Á đã không chống chọi được sức mạnh vũ bão của chủ nghĩa thực dân phương Tây ngoại trừ Nhật Bản và Thái Lan sớm nhận thức được cục diện chính trị thế giới và đã có những bước đi phù hợp để bảo vệ chủ quyền.

Bên cạnh đó, lúc bấy giờ, vấn đề tôn giáo cũng là một bài toán cho triều Nguyễn bởi sự xâm nhập của đạo Thiên Chúa – một công cụ phục vụ đắc lực cho sự xâm lược thuộc địa của các nước phương Tây. Các giao sĩ đã trở thành những kẻ tiên phong cho chính quốc trong việc truyền bá, giảng đạo, núp bóng với danh nghĩa giáo sĩ, thầy tu. [1]

b. Quan hệ của triều Nguyễn với các nước phương Tây thời vua Gia Long (1802 – 1820)

Trong quan hệ với Pháp, sau khi lên cầm quyền, vua Gia Long đã cho những người Pháp có công giúp cho ông ta về nhiều mặt trong cuộc chiến chống Tây Sơn làm quan trong triều. Họ được đối đãi rất hậu, mỗi khi vào chầu vua họ không cần phải lễ lạy mà chỉ khấu đầu năm cái.

Nhìn chung, dưới triều vua Gia Long, quan hệ thương mại Việt – Pháp còn chưa bị gây khó khăn. Việc buôn bán giữa hai nước diễn ra khá thuận lợi. Vua Gia Long tạo điều kiện cho thương nhân, ưu tiên cho họ nhưng không cho họ đặc quyền nào. Mọi đề nghị ký kết các hiệp ước thương mại từ Pháp đều bị vua Gia Long từ chối.

Trong quan hệ với nước Anh, quan hệ Việt Anh không phát triển thuận lợi vì trước khi Gia Long lên ngôi giữa vua Gia Long và người Anh đã có xích mích khi một chiếc thuyền buôn của chúa Nguyễn do Pháp chỉ huy đã bị người Anh bắt giữ.

Khi vua Gia Long lên ngôi (1802), người Anh bắt đầu đặt mối quan hệ thông thương với Việt Nam. Năm 1803, J.W. Roberts đến Việt Nam để đặt quan hệ thông thương với triều đình Huế  nhưng đã bị vua Gia Long từ chối.

Năm 1804, người Anh lại sai sứ đến Việt Nam hiến phẩm vật và đưa thư xin cho được đi lại buôn bán ở Đà Nẵng. Vua Gia Long lại tiếp tục từ chối nhận quốc thư phẩm vật của người Anh. Tuy nhiên, Gia Long cũng chỉ thị: “từ nay người Anh muốn đến buôn bán ở Việt Nam thì sẽ được đối xử như với người của bất cứ nơi nào khác”.

Sau đó, phái bộ Anh tiếp tục 3 lần đưa thư xin được đặt quan hệ thông thương nhưng đều bị vua Gia Long từ chối. Về sau, do nhu cầu mua vũ khí, người Anh vẫn đem hàng hoá đến bán nhưng vua Gia Long vẫn giữ thái độ kỳ thị. Nhìn chung, dưới thời vua Gia Long, nhà vua có thái độ thiện chí với các thương đoàn người Pháp nhưng lại có thành kiến với người Anh. Nhà vua cho họ là bọn Man Di, lòng dạ khó lường, phải ngăn ngừa từ xa do vậy việc buôn bán với người Anh bị hạn chế.

Về phần quan hệ với Hoa Kỳ, năm 1802, một công ty tàu biển lớn của Hoa Kỳ đã phái một chiếc tàu tên là Fame đến Việt Nam tìm kiếm nguồn hàng mới là đường và cà phê. Ngày 21/5/1803 tàu cập cảng Đà Nẵng và đã được vua Gia Long cấp phép buôn bán.Nhờ giấy phép của vua Gia Long, tàu chạy dọc bờ biển tìm chỗ buông neo, buôn bán nhưng gió thổi mạnh tàu không vào được bờ.Ngày 10/6/1803, tàu Fame rời Việt Nam đi Phi Luật Tân.

Mười sáu năm sau, cũng có nhiều tàu Mĩ đến Việt Nam và họ nhận được sự đón tiếp tử tế từ phía quan lại Việt Nam cũng như nhân dân. Nhìn chung, tất cả các tàu Mĩ đến Việt Nam thời kỳ này đều nhắm vào mục đích tìm kiếm thị trường và thiết lập quan hệ giao thương với Việt Nam. Có thể nói, thời vua Gia Long, quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ chưa phát triển.

c. Vấn đề đạo Thiên Chúa trong quan hệ của triều Nguyễn với các nước phương Tây thời Gia Long (1802 – 1820)

Đây là một vấn đề gây ra sự trở ngại trong quan hệ giữa nhà nước phong kiến Việt Nam với các nước phương Tây, đặc biệt là với nước Pháp. Do mối quan hệ gần gũi với Bá Đa Lộc và chịu ơn người Pháp trong cuộc chiến với triều Tây Sơn, Gia Long vẫn cho đạo Thiên Chúa được truyền bá tương đối thuận lợi. Các giáo sĩ người Pháp đã đẩy mạnh việc phát động trong dân chúng ở Việt Nam phát triển các cơ sở Đạo Thiên Chúa, thu nạp giáo dân trên cơ sở khuếch trương thế lực chính trị và tinh thần cho nước Pháp…Vua Gia Long thực sự lo ngại việc này, nhất là khi các giáo sĩ Pháp ủng hộ việc nhà vua đưa con trai hoàng tử Cảnh lên làm vua thay vì hoàng tử Đảm. Vua Gia Long đã khinh bỉ đạo Thiên Chúa từ đó.

Nhìn chung, trong suốt thời kỳ của mình, Gia Long chủ trương ôn hoà. Ông không thể chống đạo một cách công khai, cũng không thể “cải đạo”. Ông hiểu rõ hơn ai sự nguy hiểm từ những người đi truyền đạo, ảnh hưởng của Thiên Chúa giáo với hoàng tử Cảnh và các thần dân của mình. Trong tình thế vừa cậy nhờ người Pháp xong, Gia Long chưa thể cấm đạo và làm mất lòng người Pháp ngay lập tức được. Ông từng ra lệnh: “Từ rày về sau, dân các tỉnh, xã nào có nhà thờ Gia Tô đổ nát thì phải đưa trình quan trấn mới được tu bổ lại, còn việc xây dựng nhà thờ mới đều cấm chỉ”.

Vua Gia Long có thái độ và cách ứng xử mang tính dung hoà trong quan hệ với Pháp, nhưng cương quyết và cứng rắn từ chối mọi yêu cầu từ phía nhà nước Pháp. Ông không hề chống lại các giá trị vật chất – tinh thần phương Tây, ông bảo vệ các truyền thống dân tộc Việt Nam. Vua Gia Long thể hiện một đối sách ngoại giao nhu hoà, uyển chuyển qua vấn đề tôn giáo. Chính sách ngoại giao mềm dẻo đã giúp Gia Long rất nhiều trong việc ổn định đất nước sau một thời gian dài nội chiến.

2. Quan hệ đối ngoại của triều Nguyễn thời vua Minh Mạng (1820 – 1840)

a. Bối cảnh trong nước, quốc tế và khu vực đường lối ngoại giao của Minh Mạng

Vua Minh Mạng từ nhỏ vốn là người thông minh, tôn sùng Nho giáo và đặc biệt không thiện cảm cho lắm với tôn giáo phương Tây, vì vậy Gia Long quyết định chọn vua Minh Mạng lên nắm quyền với mong muốn làm những việc mà ông chưa làm được.

Thời bấy giờ, sự bành trướng mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản phương Tây bằng nhiều thủ đoạn khác nhau đang là mối đe dọa cho nền độc lập của các quốc gia châu Á.

Ngoài ra, vấn đề tôn giáo cũng là nhân tố tác động đến chính sách ngoại giao của vua Minh Mạng. Núp dưới chiêu bài đi truyền giáo, các giáo sĩ phương Tây và tôn giáo của mình ngày càng xâm nhập mạnh mẽ vào trong nước, ảnh hưởng đến nền Nho giáo chính thống và ngày càng phục vụ đắc lực cho chính sách xâm lược thuộc địa của các nước tư bản.

Minh Mạng về cơ bản trung thành với đường lối chính trị của cha mình. Ông tỏ ra dứt khoát trong việc khước từ người phương Tây, kể cả người Pháp.

Ta có thể thấy rằng, từ năm 1820 đến năm 1825, thời gian này vua Minh Mạng mới kế vị ngai vàng, ông cần ổn định quyền lực cá nhân, ổn định triều chính, nên ông chưa có thể điều chỉnh lớn trong chính sách ngoại giao với các nước phương Tây. Đường lối ngoại giao của ông thời kỳ này được triển khai trên cơ sở truyền thống.

Trong khoảng thời gian từ 1825 cho đến 1831, sự hiện diện của các nước tư bản phương Tây ở châu Á ngày càng gia tăng là một lời cảnh báo cho vua Minh Mạng về sự an nguy của đất nước. Ông tiếp tục củng cố triều đại và đất nước trên nền tảng của ý thức hệ Nho giáo để chống đỡ các tư tưởng mới lạ của phương Tây, chủ yếu là đạo Thiên Chúa.

Việc bang giao với nước ngoài có hạn và truyền giáo bị cấm nhưng Minh Mạng vẫn cho phép tàu buôn các nước tới buôn bán (nhưng chỉ được phép thông thương tại cảng Đà Nẵng). Như vậy, vấn đề buôn bán với phương Tây không bị triều đình Huế ngăn cấm, nhưng vì lí do an ninh và vấn đề truyền giáo nên triều đình Huế chỉ cho mở cửa biển Đà Nẵng để thuyền buôn phương Tây đến trao đổi hàng hoá. Do vậy, Minh Mạng với các nước phương Tây không hoàn toàn bế quan toả cảng mà có mở cửa song rất hạn chế.

Sự kiện Lê Văn Khôi khởi binh dấy loạn đã đặt vấn đề ngoại xâm cho triều Nguyễn suy ngẫm.Lê Văn Khôi cầu cứu Xiêm La và trong cuộc nổi loạn này có sự tham gia của các giáo sĩ người Pháp. Vua Minh Mạng đã tăng cường đường lối ngoại giao biệt lập với Pháp vì nên độc lập, an ninh quốc gia có nguy cơ bị xâm phạm.

Từ năm 1832 đến năm 1837 đường lối ngoại giao của triều Nguyễn đối với Pháp hoàn toàn không mang tính chất ôn hoà nữa khi vua Minh Mạng không muốn tiếp xúc với các nước phương Tây. Nhưng cuộc chiến tranh thuốc phiện lần thứ nhất ở Trung Hoa là một hồi chuông cho các quốc gia châu Á còn đóng kín cửa.Ông cho rằng nếu cứ tiếp tục đường lối ngoại giao như cũ thì một cuộc xung đột Việt Pháp có thể xảy ra giống như ở Trung Quốc.

Trước sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản phương Tây, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, cũng như tình hình các quốc gia phong kiến lần lượt rơi vào tay giặc, vua Minh Mạng đã có những nhận thức mới như phòng vệ những nơi hiểm yếu trên bờ biển. Vua Minh Mạng cũng hiểu cần phải có sự tăng cường thăm dò dự định của các cường quốc ở châu Âu để làm thay đổi chính sách ngoại giao của mình. Giai đoạn 1838 – 1840 được coi là thời kỳ định hợp tác quốc tế của vua Minh Mạng.

b. Quan hệ của triều Nguyễn với các nước phương Tây thời vua Minh Mạng (1820 – 1840)

Về quan hệ nước ta với Pháp, trong những năm đầu lên ngôi, đường lối chính trị của Minh Mạng so với Gia Long không có thay đổi lớn. Với Pháp, nhà vua vẫn thể hiện thiện chí, lòng biết ơn, nhưng khi tình hình quan hệ quốc tế ngày một thay đổi, nước Pháp sau khi ổn định tình hình trong nước tìm cách nối lại những liên hệ với Việt Nam nhằm đạt được những cam kết với nước ta trên lĩnh vực thương mại, chính trị. Thời gian này được xem là giai đoạn hòa hoãn (1820 – 1824) trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước phương Tây dưới thời Minh Mạng.

Đi theo đường lối đối ngoại của vua Gia Long đã hoạch định, Minh Mạng khi lên ngôi vẫn đối xử nhã nhặn, hoà hoãn với Pháp. Năm 1821, J.B. Chaigneau được vua Pháp cử sang Việt Nam dâng thư và phẩm vật của vua Luis XVIII đồng thời xin lập thương ước. Minh Mạng cho phép người Pháp đến buôn bán ở Việt Nam nhưng từ chối việc thành lập một thương ước giữa hai nước.Ngay lần đầu tiên, Minh Mạng đã phủ nhận việc giao hảo với người Pháp.Chính phủ Pháp hy vọng sẽ đạt được vài kết quả tốt về thông thương nhưng không ngờ sứ giả của vua Pháp lại nhận được sự bất hợp tác từ triều đình Huế.

Năm 1822, 1824, 1825 Luis XVIII lại phái thuyền đến Việt Nam dâng quốc thư và phẩm vật xin giao hiếu và thông thương nhưng Minh Mạng cũng từ chối đồng thời không nhận thư và phẩm vật của vua Pháp. Những hành động cùa người Pháp đều mong muốn xác định độc quyền của Pháp đối với Việt Nam, trong phạm vi cạnh tranh với các nước tư bản khác nhưng đều không thành.

Minh Mạng từ chối các thương ước nhưng ông không cấm tàu bè và thương nhân Pháp và các nước khác đến Việt Nam buôn bán. Dù dè chừng và thận trọng trong quan hệ với Pháp, nhưng Minh Mạng vẫn định hướng đường lối ngoại giao mà Gia Long đã đề ra trong năm đầu trị vì của ông.

Từ năm 1825 – 1831, tình hình nước ta có nhiều khó khăn như: thiên tai, dịch bệnh lan tràn. Tình trạng đói kém xảy ra làm cho xã hội rối loạn. Năm 1825, có vụ nổi dậy tại trấn Nghệ An, qua năm 1826, người Thổ nổi lên ở Nam Định…Phong trào nổi dậy ở miền Bắc rất mạnh đến năm 1827 triều đình mới ổn định được. Trong nước thì khó khăn như vậy, bên ngoài lại nhiều biến cố xảy đến với các quốc gia lân cận: Anh chiếm một phần Miến Điện…Minh Mạng không thể không lo ngại đến các thế lực phương Tây, ông dè dặt hơn đối với người Pháp. Ngay cả với hai người Pháp còn lại ở triều đình là Vannier và Chagneau cũng bị một số quan lại xa lánh.

Trong khoảng thời gian từ 1825 – 1831, tất cả các nhân viên mà Pháp cử sang làm công tác ngoại giao với triều Minh Mạng đều không thể thuyết phục được triều Nguyễn kí kết những hiệp ước mà họ mong muốn. Năm 1831 có thể coi là năm chấm dứt những cố gắng ngoại giao của Pháp hòng kí kết hòa ước kể cả ngoại giao lẫn thương mại với triều Nguyễn. Mặc dù sau năm 1831 vẫn có các tàu Pháp cập bến Đã Nẵng, nhưng họ không mang tính chất ngoại giao nữa.  Nguyên nhân của sự thất bại này không chỉ thuộc về sự bảo thủ hay cứng rắn trong đường lối chính sách đối ngoại của triều Nguyễn, mà còn do những âm mưu chính trị của thực dân Pháp. Những sứ giả người Pháp sang Việt Nam thường với ý đồ phô trương thanh thế, lực lượng và có những yêu cầu vô lý khó chấp nhận, thậm chí có những sứ đoàn đi mang theo những giáo sĩ thâm nhập trái phép lãnh thổ Việt Nam. Đến năm 1832 thì Pháp hoàn toàn không tìm cơ hội giao thương và tiếp xúc chính trị với Việt Nam nữa.[2]

Sau khi chiến tranh thuốc phiện kết thúc với phần thắng thuộc về Anh quốc, đã gây nên sự phấn khích cho các nươc Âu - Mĩ giấc mộng bành trướng tại châu lục rộng lớn này trở thành hiện thực gần gũi hơn với các nước phương Tây. Triều đình Huế nhận thức nhanh chóng vấn đề trên, tiếp theo đó là sự bất thành của việc “cấm đạo”, “bài đạo” ở trong nước, có thể nhận thấy, dù có ngăn cản, hạn chế, việc truyền đạo vẫn cứ được tiến hành. Càng ngăn cản thì lòng tin của giáo dân càng tăng lên, có nhiều trường hợp “tử vì đạo” xảy ra.

Vua Minh Mạng nhận thức rõ đường lối ngoại giao của mình sẽ không có hiệu quả thực tế trong hoàn cảnh này. Tình hình mới đã đặt triều đình Huế trước sự lựa chọn: tiếp tục đi theo con đường ngoại giao kểu phương Đông, hoặc mở cửa tiếp xúc với phương Tây. Minh Mạng đã chọn con đường thăm dò để “mở cửa”. Cuối năm 1839, để đối phó với tình hình biến động đang xảy ra dồn dập xung quanh, Minh Mạng cho tăng cường phòng bị những nơi quan yếu, hải cảng, xây nhiều đồn lũy kiên cố phòng bị các cửa biển, tăng số lượng thuyền chiến… Điều này cho thấy Minh Mạng khi bắt đầu thăm dò để đổi mới đường lối đối ngoại, ông vẫn có ý thức tăng cường sức mạnh phòng bị đất nước, đề cao cảnh giác với bên ngoài. Sau đó, ông bắt đầu tiến hành các bước thăm dò để đi đến một chính sách hợp tác với phương Tây.

Đặc biệt, Minh Mạng đã cử một sứ đoàn sang Pháp và Anh nhằm mục đích thương thuyết và thiết lập quan hệ chính thức với hai nước này. Sứ đoàn có nhiệm vụ làm việc để đi tới kí kết một hiệp ước liên minh chính trị - kinh tế với Anh và Pháp mua hàng hóa. Sứ đoàn sang Pháp do quan Tư vụ Trần Viết Xương đẫn đầu.

Tháng 11-1840, sứ đoàn Việt Nam đến Pháp, Trần Viết Xương vận động xin gặp hoàng đế Pháp, nhưng Luis Philippe từ chối. Pháp bắt bẻ sứ thần ta không mang quốc thư và thành phần sứ không thuộc phẩm hàm đúng hàng sứ giả. Phía Pháp cho rằng chính sứ của ta không thể đại diện cho vua Nguyễn.Cũng vào lúc này tại Paris đã có những ảnh hưởng không có lợi cho phái bộ.Với những bản tường trình của các vị thừa sai đang hoạt động ở Việt Nam gửi về cho Hội ngoại quốc truyền giáo ở Paris. Vài tháng trước khi phái đoàn Việt Nam sang Paris, giáo hoàng Gregoire XVI đã viết một là thư cho giáo sĩ ở Việt Nam nói về cảnh khổ cực của giáo sĩ Pháp tại Việt Nam. Bức thư đã gây nên sự căm hờn trong giới Thiên Chúa giáo tại Pháp.

Có thể nói đây là cơ hội sau cùng cho mối quan hệ Việt – Pháp nhưng đã bị bỏ lỡ. Sau thất bại ngoại giao tại Pháp, sứ đoàn của Việt Nam lên đường sang nước Anh, nhưng tại đây, sứ mệnh cũng bất thành, đoàn Việt Nam lên đường trở về Pháp. Khi đoàn về tới Huế, vua Minh Mạng đã băng hà vào ngày 21/1/1841.

Về quan hệ với Hoa Kỳ, vào cuối năm 1832, phái đoàn Hoa Kỳ đầu tiên đã đến Việt Nam xin đặt quan hệ thông thương. Vua Minh Mạng từ chối nhưng vẫn cho phép phái đoàn Mĩ được buôn bán ở đây nhưng phải tuân theo luật pháp của quốc gia áp dụng cho người nước ngoài; ngoài ra Minh Mạng còn chỉ định nếu người Mĩ tới lần nữa thì cho tàu đậu tại Sơn Trà, họ được phép thông thương ở đây nhưng không được phép xây nhà ở hay mở phố mua bán.

Bốn năm sau, năm 1836, chính phủ Hoa Kỳ một lần nữa lại cử phái đoàn tới Việt Nam. Việc này chứng tỏ chính phủ Mĩ rất chú ý tới việc thông thương với các nước ở khu vực châu Á. Lần này vua Minh Mạng có thái độ rộng rãi, hòa dịu chấp nhận tiếp phái đoàn, nhưng khi sứ Quảng Nam ra tới Đà Nẵng thì Ed.Roberts bị bệnh nặng phải rời cảng.

Nhìn chung, chúng ta có thể thấy, những ý định và mong muốn của phía Hoa Kỳ thiết lập quan hệ giao thương với Việt Nam đã diễn ra trong khuôn khổ các quan hệ bình thường giữa hai quốc gia có độc lập chủ quyền nhưng đáng tiếc là không đạt kết quả như mong đợi.

 

Về quan hệ với nước Anh, đối với người Anh, vua Minh Mạng thể hiện đường lối ngoại giao hoàn toàn bị động trước tình thế và tránh xa người Anh giống như người Pháp. Các chuyến đi của các phái đoàn Anh quốc đến Việt Nam đã không thành công khi không ký được một hiệp ước ngoại giao giữa hai nước. Theo chỉ thị của vua Minh Mạng, tàu Anh có quyền đến buôn bán tại các hải cảng như hải cảng Sài Gòn, cửa Hàn (Đà Nẵng), Thuận An (Huế).

Đầu năm 1837, một tàu buôn người Anh qua bãi Hoàng Sa bị cạn, hơn 90 người phải ghé vào trú ở bãi biển Bình Định. Khi biết tin, vua Minh Mạng cho bố trí chỗ ở và cung cấp tiền gạo cho họ. Chủ tàu và những quan chức người Anh trên tàu rất cảm động. Minh Mạng còn cho Nguyễn Tri Phương và một số người tuỳ tùng đem tàu đưa những người Anh này sang Hạ Châu (Singapore) để từ đấy họ về nước.

Về cuối đời, trước sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản phương Tây vua Minh Mạng phần nào đã có những nhận thức mới. Cuối năm 1839 đầu năm 1840, Minh Mạng đã cho người đi các nơi để tận mắt quan sát kỹ thuật phương Tây. Đặc biệt, ông còn cử một phái đoàn sang châu Âu để xem xét tình hình tại các nước này, dò la thái độ của các nước, trong đó cố gắng điều đình với chính phủ Pháp nhằm đặt quan hệ hữu nghị. Tất cả những việc làm đó chứng tỏ thái độ mềm dẻo của Minh Mạng với người phương Tây trước tác động của tình hình thế giới và khu vực.

Vua Minh Mạng cũng đã tổ chức một phái bộ sang Anh với mong muốn thiết lập mối quan hệ ngoại giao với nước Anh. Ngày đầu tiên đến London, sứ bộ xin yết kiến với Thủ tướng Anh Melbourn và Bộ trưởng Palmerston.Trong buổi tiếp xúc, Palmerson đã từ chối đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam.

c. Chính sách cấm đạo của triều Nguyễn dưới thời Minh Mạng (1820 – 1840)

Chính sách “bài đạo” dưới triều vua Minh Mạng là một nhân tố tạo nên sự cản trở và khó khăn lớn trong quan hệ Việt Nam với các nước phương Tây, chủ yếu là Pháp trong thời kỳ này. Thực chất, chính sách này bắt nguồn từ nhu cầu tự vệ và ý thức của giai cấp phong kiến cầm quyền trong vấn đề bảo vệ độc lập dân tộc và thống nhất văn hoá truyền thống, Việc truyền đạo vào thời điểm này không đơn thuần là truyền bá tôn giáo mà ẩn theo nó là một âm mưu xâm lược.

 

Vào lúc bấy giờ, các giáo sĩ đã lợi dụng danh nghĩa truyền giáo để đi sâu vào địa phương của Việt Nam, tiến hành điều tra, dò xét tình hình các mặt rồi báo cáo về nước. Họ còn mua chuộc, dụ dỗ lôi kéo dân chúng chống lại triều đình, báo cáo các tin quan trọng cho Chính phủ Pháp. Đ đối phó lại, triều đình Huế đã có những biện pháp cứng rắn như bắt bớ, giam cầm, thậm chí là xử tử các giáo sĩ.Vua Minh Mạng đã cho thấy một cách ứng xử lúng túng, vụng về đối với nước Pháp. Ông đã cho ban hành 5 chỉ dụ liên quan đến vấn đề “cấm đạo”, nhưng biện pháp mà ông đưa ra chưa có hiệu quả. Triều đình nhà Nguyễn bấy giờ thiếu sáng suốt khi chưa phân biệt lòng yêu nước và đức tin của tôn giáo để có những chủ trương, đường lối phù hợp.

 

Đáng lí ra, triều đình Huế phải chủ động mở cửa đón các giáo sĩ vào, đồng thời biết tích cực sớm duy tân đất nước, làm cho dân giàu nước mạnh thì sẽ nâng cao lòng yêu nước của giáo dân để họ gắn bó với triều đình và chính nhân dân sẽ giúp cho chính quyền địa phương phát hiện ra những âm mưu xâm lược từ nước ngoài tới.

d. Đánh giá đường lối đối ngoại thời vua Minh Mạng

Trong 20 năm trị vì vua Minh Mạng đã thực hiện một đường lối ngoại giao rõ ràng có định hướng, có điều chỉnh cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử mới. Dưới thời vua Minh Mạng, Việt Nam trở thành một quốc gia có uy tín và thể hiện được sự tự cường trong khu vực. Có thể nói, chính sách ngoại giao ‘không phương Tây” là một chính sách sai lầm có tính nhất quán mà vị vua khởi nghiệp là Gia Long đặt ra, các vị vua kế cận triển khai thực hiện và hứng chịu hậu quả.

Nói về vua Minh Mạng và những chính sách của ông còn có nhiều điều phải bàn. Từ khi lên ngôi cho đến lúc băng hà, trong vòng hai mươi năm trị vì đất nước, Minh Mạng có lúc được coi là “Minh quân” của Việt Nam bởi những công lao đối với lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung và văn hoá Việt Nam nói riêng. Nhưng ông cũng bị coi là một “bạo chúa” của triều Nguyễn bởi những chính sách cấm đạo ngặt nghèo.

 

3. Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và các nước phương Tây thời kỳ Thiệu Trị ( 1841 - 1847 ) và Tự Đức ( 1847 - 1858 )

a. Bối cảnh trong nước, quốc tế và khu vực

Ngày 12-12-1841, Thiệu Trị trở thành vị vua thứ ba của nhà Nguyễn lúc ông 34 tuổi.Ngay khi vừa mới lên ngôi, Thiệu Trị đã phải đối diện với những khó khăn trong nước và tình hình phức tạp trên thế giới.

Trong nước thì các cuộc khởi nghĩa của nhân dân liên tục diễn ra.Những cuộc đàn áp đẫm máu của triều đình nhà Nguyễn đã làm cho tình hình trong nước thêm rối ren, mất ổn định.

Ở khu vực, thì triều đình Huế gặp sự chống đối mạnh mẽ từ phía Chân Lạp khi các quan lại Việt Nam áp dụng chế độ cai trị hà khắc lên đất nước này, do vậy uy tín của Việt Nam đối với Chân Lạp sụp đổ, Thiệu Trị phải cho rút quân về. Đó là chưa kế đến những cuộc chiến tranh dai dẳng với Xiêm làm cho triều đình nhà Nguyễn phải tốn nhiều công sức và vật lực.

Trong lúc đó, chủ nghĩa tư bản phương Tây tăng cường bành trướng của chúng đối với các quốc gia châu Á và đã đạt được mục đích của mình: Anh buộc Trung Quốc phải ký hiệp ước Nam Kinh năm 1842, nhượng Hồng Kong cho người Anh và cho tàu thuyền các nước này tự do buôn bán trên năm cửa bề quan trọng của Trung Quốc. Pháp cũng được tự do truyền đạo ở Trung Quốc khi buộc nước này kí hiệp ước Hoàng Phố năm 1844. Không dừng lại ở Trung Quốc, các nước Tư bản phương Tây bắt đầu mở cuộc bành trướng cùa mình sang các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.Thắng lợi của Pháp tại Trung Quốc đã tạo điều kiện thuận lợi cho Pháp can thiệp vào Việt Nam với ý đồ đạc được những quyền lợi tương tự như ở Trung Quốc.

Vua Thiệu Trị mất cuối năm 1847, Tự Đức lên thay. Đến lúc này chế độ phong kiến thời Nguyễn trên đường suy thoái. Tình hình trong nước lâm vào hoàn cảnh khó khăn hơn bao giờ hết, tài chính cạn kiệt, nông nghiệp sa sút, công thương nghiệp bế tắc, nhân dân lầm than, đói khổ, do đó phong trào đấu tranh của nhân dân ngày càng phát triên mạnh mẽ. Việc Tự Đức lên ngôi gây ra một phản ứng mạnh mẽ của những người cùng cha khác mẹ làm cho nội bộ vương triều mâu thuẫn, rối ren.

Trong khi đó, ở bên ngoài, các nước tư bản phương Tây, đặc biệt là thực dân Pháp đang có điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh công cuộc xâm lược Việt Nam bằng bạo lực. Chính sách “ cấm đạo, giết đạo” từ thời Minh Mạng cũng là tiền đề cho sự can thiệp của thực dân Pháp tại Việt Nam.

Tình hình trong nước rối ren, bên ngoài thì thực dân Pháp đang lâm le xâm lược. Tất cả đã làm cho triều đinh Huế và cá nhân Tự Đức đứng trước những thử thách vô cùng nghiệt ngã, chính sách đối ngoại của ông, chủ yếu với các nước phương Tây đến đây cũng bị chi phối nghiêm trọng và là vấn đề nổi cộm trong chính sách ngoại triều Nguyễn dưới thời Tự Đức.

b. Quan hệ của triều Nguyễn với các nước phương Tây dưới thời Thiệu Trị và Tự Đức

Trong quan hệ với Hoa K, nhìn chung, chúng ta thấy nổ lực của Hoa Kỳ trong suốt hơn 50 năm đầu thế kỉ XIX là nhằm thương lượng và kí kết Hiệp ước thương mại với Việt Nam, song mục đích của họ đã không dẫn tới một kết quả tốt đẹp nào. Điểm chung của các chuyến đi sang nước ta thời đó, về phía người Mỹ với tư cách là Đặc phái viên của Chính phủ, đều có chuẩn bị chu đáo của những người có trách nhiềm và có thiện chí. Vì thế sự thất bại của các chuyến đi ấy, trách nhiệm không thuộc phía Hoa Kỳ mà chính là thuộc về triều đình Huế. Các vua đầu nhà Nguyễn với sự đố kỵ, sự thiểu cận, thực hiện chính sách “bế quan tỏa cảng” nên sự cự tuyệt quan hệ với các nước phương Tây, trong đó có Hoa Kỳ.

Trong quan hệ với nước Anh, dưới thời Thiệu Trị, quan hệ giữa Việt Nam và Anh quốc không phát triển.Tuy nhiên, Thiệu Trị lại có chính sách nhân đạo cho các tàu buôn Anh quốc. Họ được ghé vào bờ lấy nước, lấy củi, tránh bão tố, cho miễn thuế nhập cảng và tổ chức cứu hộ khi tàu thuyền bị lâm nạn.

Tháng 9-1847, Toàn quyền Anh ở Hồng Kong là John Davis dãn đầu một chiến hạm và một tàu máy tới cửa Hàn (Đà Nẵng), mang theo quốc thư của Nữ hoàng Anh, một mặt xin triều đình Huế cho quân Anh được đóng đồn trển bờ với điều kiện treo cờ cả hai nước Anh và Việt Nam, mặt khác đề nghị hai nước cùng nhau thương ước và liên minh quân sự để chống lại mọi tấn công của Pháp có thể xảy ra. Nhưng Thiệu Trị cảnh giác với ý đồ của thực dân Anh, nên từ chối không tiếp.Viên quan trấn giữ Đã Nẵng là Tôn Thất Thường và viên chỉ huy hai tàu chiến Anh đã tranh luận nhiều ngày về việc này. Triều đình Huế đã đem nhiều quà tặng  cho họ. Đến mười ngày sau họ mới đi.Như vậy, quan hệ Việt Nam với Anh quốc dưới triều Nguyễn chấm dứt ở đây.

Về quan hệ với nước Pháp, đường lối chính sách đối ngoại phương Tây, đặc biệt đối với Pháp thời Thiệu Trị không có gì thay đổi so với Minh Mạng. Nhưng Thiệu Trị tỏ ra ôn hòa hơn trong vấn đề truyền đạo. Cụ thể, ông đã ra lệnh phóng thích 5 giáo sĩ Pháp đang chịu án tử hình. Nhìn chung, Thiệu Trị có những nhân nhượng trong vấn đề tôn giáo, theo ông “phải tìm nhiều cách để giảng dụ, khai hóa, khiến cho đổi lỗi làm lành”. Triều Nguyễn bắt đầu hòa hoãn thì lúc này Pháp đã xúc tiến công việc gây cấn can thiệp vào nước ta.

 

Do sự khiêu khích của Pháp mà quan hệ Việt Nam với Pháp trở nên căng thẳng. Vua Thiệu Trị đã bàn với triều thần việc chiến tranh, vua cho tăng cường đồn lũy, đúc thêm súng...

Từ năm 1843 đến năm 1847, Pháp đã phái thuyền tới Đà Nẵng 3 lần để thị uy triều Nguyễn đang đối diện với thức thách của thời đại, trách nhiệm đối với đất nước của triều đại phong kiến này ngày càng nặng nề hơn trước gấp bội. Đặc biệt, vào tháng 3 năm 1847, một hạm đội Pháp kéo đến Đà Nẵng phô trương thanh thế.Rút kinh nghiệm của những lần trước, lần này triều đình Huế đã có tăng cường phòng bị.Thiệu Trị cho điều động từ Huế vào nhiều thuyền chiến, điều động binh lính các tỉnh vào phối hợp với lực lượng tại chỗ của Quảng Nam để bảo về cửa biển. Bất chấp sự chuẩn bị của triểu Nguyễn, ngày 15/4/1847, hạm đội Pháp đã nổ súng tấn công vào quân đội nhà Nguyễn, làm chìm 5 chiếc thuyền đồng của ta và tàn sát nhiều người, sau đó rút lui.

Sau vụ khiêu khích trắng trợn của Pháp, vua Thiệu Trị tức giận, thay đổi thái độ quan hệ với các thương nhân và giáo sĩ người phương Tây. Đồng thời, Thiệu Trị gấp rút xây dựng thêm nhiều thàn lũy và pháo đài, đặt thêm đại bác phòng thủ ở các nơi hiểm yếu ở mặt biển.Trong lúc tình hình đang căng thẳng, triều đình Huế còn chưa có đối sách thích hợp thì Thiệu Trị qua đời.

Cuối năm 1847, Tự Đức lên ngôi.Chính sách không quan hệ với phương Tây vẫn được Tự Đức tiếp tục thực hiện.

Tự Đức kế vị ngai vàng trong hoàn cảnh nước ta  khó khăn hơn bao giờ hết: thương mại bế tắc, dân chúng đói khổ. Đương đầu với những phức tạp trong nước, đối diện với đại họa “bạch quỷ”, những tham vọng của phương Tây, vua Tự Đức không hề có một sự đối mới nào trong nội Trị và ngoại giao. Việt Nam vẫn tiếp tục đóng cửa trong quan hệ với các nước tư bản phương tây cho đến thời vua Tự Đức. Như vậy, quan hệ Việt Nam và Pháp cho đến thời Tự Đức vẫn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là qua vấn đề cấm đạo.

Trước những hành động ngày càng trắng trợn và lộ liễu của Pháp, Tự Đức đã ra lệnh cho quân dân ở các nơi xung yếu như các cửa biển Đà Nẵng, Thuận An tăng cường phòng thủ, đắp thành lũy, tăng cường súng đại bác. Nhưng rồi vì tốn kém nên Tự Đức không thực hiện nữa. Trong khi đó thì ở trong nước, lại tăng cường chính sách cấm đạo, tạo thêm lí dó cho tư bản nước ngoài có cớ xâm lược Việt Nam.

Những hành động cấm đạo điên cuồng của Tự Đức diễn ra giữa lúc điều kiện xâm lược của thực dân Pháp chín muồi. Ngày 22-4-1857, Napoleon III quyết định thành lập Hội đồng Nam Kì nhằm xét lại hiệp ước Versailles năm 1787, với âm mưu dựa vào sự kiện này mà hợp pháp hóa việc mang quân sang đánh chiếm Việt Nam. Liền sau đó một kế hoạch hành binh được vạch ra, và đến tháng 7/1857, Napoleon III thông qua quyết định vũ trang xâm lược Việt Nam.

Sau khi đánh xong Quảng Châu  và sau khi cùng với Anh buộc Trung Quốc phải kí hiệp ước Thiên Tân, quân Pháp do Rigault chỉ huy hợp lực với quân Tây Ban Nha do đại tá Palaca chỉ huy, cùng kéo thẳng xuống biển phía Nam. Ngày 31-8-1858, quân Pháp nổ súng tấn công bán đảo Sơn Trà, mở màn cho cuộc chiến Tranh xâm lược Việt Nam, qua đó chấm dứt thời kì ngoại giao hòa bình giữa Việt Nam và Pháp.

c. Chính sách cấm đạo của triều Nguyễn thời Thiệu Trị ( 1841-1847) và Tự Đức (1847-1858)

Trong những năm đầu mới lên ngôi, Thiệu Tr vẫn duy trì những sắc lệnh cấm đạo thời Minh Mạng, song cũng không thêm ra một chỉ thị nào.

Sau sự kiện gây cấn của đô đốc Celile năm 1847, Thiệu Trị đã chỉ thị cho các quan địa phương phải thi hành lệnh bắt đạo đúng theo lệnh của vua Minh Mạng. Đồng thời vua nhắc lại điều cấm đạo cho các quan chức trong kinh ngoài tình: “Đạo Gia Tô là tà giáo, làm mê hoặc lòng người rất sâu sắc, không những cám dỗ làm cho tiều dân u mê mà cả những nhiều trong quan chứa cũng có say mê không tnh!”. [3]

Sau khi lên ngôi, trước những hoạt động của cách giáo sĩ càng ngày càng được đẩy mạnh, Tự Đức tiếp tục có những chinh sách cấm đạo sai lầm nghiêm trọng. Năm 1848, vua ban chỉ dụ cấm đạo.Tiếp đó trong năm 1851, 1855, vua lại ban ra 2 lệnh khác, đuổi các giáo sĩ ngoại quốc vẫn lún lút vào Việt Nam. Nội dung các đạo dụ này có những quy định hà khắc như buộc đá vào cổ rồi ném xuống biển những người nước ngoài ở Việt Nam giảng đạo. Nhiều giáo sĩ nước ngoài bị sát hại, nhiều nhà thờ bị đốt. Trước tình hình đó, giáo sĩ về nước cầu cứu, yêu cầu chính phủ Pháp phải có thái độ quyết liệt với Việt Nam để bảo vệ giáo sĩ và việc truyền đạo.

Trong một thời gian dài sau đó, các giáo sĩ phải chuyển sang hoạt động bí mật. Vừa thực hiện việc truyền giáo, các giáo sĩ đồng thời tiến hành điều tra tình hình để báo cáo về nước, yêu cầu chính phủ Pháp phải vũ trang can thiệp gấp vào Việt Nam.Những việc này càng làm cho vua Tự Đức thêm tức giận. Tháng 7 – 1857, Tự Đức lại ban hành thêm một đạo dụ cấm đạo nữa mở màn cho một thời kỳ tàn sát mới, tạo thêm lý do cho tư bản nước ngoài có thêm lý do cho tư bản nước ngoại có cớ xâm lược nước ta về sau.

d. Đánh giá đường lối ngoại giao của vua Thiệu Trị và Tự Đức

Qua những sự kiện diễn ra trong quan hệ giữa Việt Nam và các nước phương Tây dưới thời vua Thiệu Trị ta thấy rõ ông khá sáng suốt sự bành trướng của phương Tây thông qua việc truyền giáo. Vua Thiệu Trị cũng là một người hiểu rõ mối quan hệ gắn bó giữa truyền giáo và xâm lược vũ trang của các nước phương Tây và trăn trở rất nhiều về một biện pháp để đối phó hữu hiệu. Thực tế cho thấy, từ năm 1847, khi thương thuyền Pháp đến Đà Nẵng, vua Thiệu Trị đã nhận thức tình thế nguy hiểm của đất nước, ông đã cho chuẩn bị phòng thủ Đà Nẵng.

Tuy nhiên, qua 7 năm với vai trò người lãnh đạo đất nước, Thiệu Trị không có 1 sự thay đổi mới nào Trong công việc nội Trị lần ngoại giao, vì vậy đường lối đối ngoại của Việt Nam dưới thời Thiệu Trị cũng không khác gì so với các thời trước. Thiệu Trị tiếp tục lãnh đạo một đất nước khép kín mà Gia Long đã vạch ra, Minh Mạng Triển khai và Thiệu Trị tiếp tục thực hiện.

Thực tế kéo dài cho đến năm 1858, 9 năm trôi qua Thiệu Trị chết, vua Tự đức cũng không đủ mạnh dạn để có một giải pháp thay đổi thích hợp đối phó với Pháp. Vua Thiệu Trị và Tự Đức đã tiến hành hạn thương và cấm đạo, tưởng đó là biện pháp hàng đầu ngăn chặn nọc độc xâm lược từ gốc nhưng không ngờ, những biện pháp này làm khủng hoảng xã hội trong nước thêm sâu sắc, làm gia tăng mâu thuẫn với Pháp và cuối cùng họ đã dùng bạo lực để giải quyết. Năm 1858, Pháp nổ súng tấn công Việt Nam, quan hệ Việt - Pháp bước sang một giai đoạn mới, trở thành quan hệ đối kháng, giữa nước xâm lược và nước bị xâm lược.


II. QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI CỦA TRIỀU NGUYỄN VỚI CÁC NƯỚC TRUYỀN THỐNG

1. Quan hệ ngoại giao với Trung Quốc

Chính sách ngoại giao: thuần phục nhà Thanh.

Vua Gia Long thường cử người sang cống nạp, cầu phong. Năm 1802, vua Gia Long cử người sang cống nạp, cầu phong và xin đổi quốc hiệu là Nam Việt. Năm 1804, nhà Thanh cử Tề Bố Sấm sang sắc phong cho Gia Long nhưng không vào Huế mà chỉ dừng lại ở Bắc thành Thăng Long, Gia Long phải ra Bắc nhận sắc phong.

Giống như vua cha, Minh Mạng chủ trương tiếp tục triều cống và giữ quan hệ ngoại giao hữu hảo với nhà Thanh. Khi lên ngôi, ông đã nhận sự phong vương của vua nhà Thanh. Tuy nhiên, các vua Việt Nam thời nhà Nguyễn duy trì đường lối đối nội tự chủ. Theo nhận xét của giáo sư Yu Insun, các vua nhà Nguyễn chỉ xưng thần với nhà Thanh một cách hình thức, còn thực chất họ cho rằng họ bình đẳng với nhà Thanh. Các phái đoàn đi cống của Việt Nam ngoài việc đưa đồ tiến cống còn thực hiện việc trao đổi mua bán sản phẩm không có trong nước, vì Trung Quốc không cho phép thương nhân Việt Nam sang Trung Quốc, còn Việt Nam duy trì lệnh cấm dân chúng xuất cảnh để ngăn chặn việc xuất lậu vật phẩm sang Trung Quốc như gạo, muối, vàng bạc, đồng, sừng trâu, ngà voi, v.v...

Việc duy trì quan hệ triều cống chỉ có ý nghĩa tượng trưng, vì đến cuối đời Minh Mạng, cứ bốn năm một lần nhà Nguyễn mới phải cử sứ sang cống, đồng thời nhà Thanh cắt giảm yêu cầu vật phẩm triều cống cho triều Tây Sơn và nhà Nguyễn chỉ còn phân nửa so với nhà Lê, nên giá trị vật chất không đáng kể. Tuy nhiên các đoàn đi sứ đều được lệnh ghi chép cẩn thận tình hình bên Trung Quốc để báo cáo lại cho nhà vua.Các sứ thần không hoàn thành nhiệm vụ này đều bị trách phạt. Đây có lẽ là một phần lý do khiến vua Minh Mạng có thể nhận định đúng việc nhà Thanh ngày càng suy yếu, và dự đoán chính xác nhà Thanh sẽ thất bại trong cuộc xung đột với nước Anh một khi cuộc chiến tranh Nha phiến nổ ra.

Năm 1849, nhà Thanh vào Huế sắc phong cho Tự Đức. Tuy nhà Nguyễn thuần phục nhà Thanh nhưng vẫn luôn bảo vệ chủ quyền quốc gia và danh dự dân tộc.

2. Vấn đề ngoại giao với các quốc gia khác

Về hai quốc gia láng giềng là Chân Lạp  Xiêm La, thời kỳ Gia Long cai trị cũng là thời kỳ Việt Nam khẳng định ảnh hưởng của mình: năm Đinh Mão (1807), vua Chân Lạp là Nặc Ông Chân không theo Xiêm La nữa mà xin về thần phục vua Việt Nam là Nguyễn Ánh, lập lệ cống tiến mỗi 3 năm 1 lần. Ba người em của Nặc Ông Chân (Ang Chan II) là Nặc Ông Nguyên (Ang Suguon), Nặc Ông Lem tức Nặc Ông Em (Ang Im), và Nặc Ông Đôn (Ang Duong) muốn tranh quyền của anh mình nên sang Xiêm La cầu cứu. Xiêm La đòi Nặc Ông Chân chia quyền nhưng ông từ chối, Xiêm La liền cho quân sang đánh và buộc Nặc Ông Chân bỏ chạy sang cầu cứu Việt Nam. Vua Gia Long viết thư trách cứ Xiêm La và Xiêm La đáp lại là họ chỉ giúp anh em Nặc Ông Chân giảng hòa chứ không đối kháng với Việt Nam. Gia Long liền cho Lê Văn Duyệt kéo 10.000 quân sang buộc Xiêm La cho Nặc Ông Chân về nước và rút quân hoàn toàn ra khỏi Chân Lạp. Lê Văn Duyệt dâng sớ xin xây thành Nam Vang (Phnom Penh) và thành La-Lêm. Khi xây xong Gia Long cho một tướng tên là Nguyễn Văn Thụy đem 1.000 quân sang trấn giữ và xác lập quyền "bảo hộ" của Việt Nam tại Chân Lạp

Trong quan hệ với Xiêm La, trở lại lịch sử, từ những năm 1781, vụ nổi loạn ở Xiêm đã đẩy Nguyễn Ánh và Xiêm la từ chỗ đối kháng trở thành đồng minh. Việt Nam và Thái lan đang ở thế cân bằng. Khi Nguyễn Ánh liên tiếp gặp thất bại trước Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã cầu viện Xiêm La giúp phân tán lực lượng Tây Sơn. Một mặt, Nguyễn Ánh cũng giúp Xiêm đánh Miến Điện và Mã Lai, đồng thời thu nhận một số binh tướng từ Đại Việt sang đất Xiêm để củng cố lực lượng đánh Tây Sơn. Nguyễn Ánh cho quân đánh chiếm Chân Lạp, giữ quan hệ hòa hiếu với Xiêm La, yên ổn với Vạn Tượng. Chính sách đối ngoại vô cùng mềm dẻo và khôn khéo. Sau này khi Nguyễn Ánh đánh bại Tây Sơn, lên ngôi hoàng đế, quan hệ giữa hai nước vẫn được duy trì, Gia Long thường xuyên cử người sang thong hiếu và tặng quà cho vua Xiêm. Nhưng khi Nguyễn Ánh mấtvào thời Minh Mạng, giữa Xiêm La (Thái Lan, do nhà Chakri trị vì) với Đại Nam thường xảy ra chiến tranh. Năm 1827, quân Xiêm xâm lược Vạn Tượng (Vientiane), vua xứ này là A Nộ (Anouvong) chống không nổi, phải cầu cứu triều đình Đại Nam. Minh Mạng sai thống chế Phan Văn Thúy mang viện quân sang giúp nhưng bị quân Xiêm đánh bại. Năm 1828, Phan Văn Thúy và Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Khoa Hào tiếp tục đem 3.000 quân và 24 voi chiến đưa A Nộ về Trấn Ninh, rồi tiến vào Vạn Tượng) nhưng đạo quân Nhà Nguyễn – A Nộ lại bị quân Xiêm đập tan. Chán nản, vua Minh Mạng hạ lệnh bãi bỏ và chỉ phòng vệ ở vùng biên giới.A Nộ sau đó chạy về Trấn Ninh và bị bắt nộp cho quân Xiêm.

Quân Xiêm được đà đánh dấn vào các miền phụ cận Quảng Trị. Thống chế Phạm Văn Điển cùng Tham tán Quân vụ Lê Đăng Doanh cùng với các đạo quân Nguyễn ở Lào phải đi ngăn quân Xiêm, đằng khác gửi thư trách cứ họ. Xiêm La trả lời khiêm nhượng rồi rút quân.Tuy vậy, họ vẫn ngấm ngầm giúp Chân Lạp nổi lên chống triều đình Nguyễn hoặc lấn lướt Vạn Tượng và các xứ quy phục triều đình.

Năm 1833, theo lời kêu gọi của Lê Văn Khôi, Xiêm La mang quân vào nội địa Nam Hà và Chân Lạp, nhưng bị quân nhà Nguyễn đánh bại năm 1834.

Với Ai Lao, vào đầu thế kỉ XIX, Lào vẫn bị chia cắt và nằm dưới ách thống trị của Xiêm nên có xu hướng dựa vào Đại Nam để chống lại Xiêm nên thường xuyên cử sứ giả đến Đại Nam. Năm 1809, xin cho Ai Lao ở Trấn Ninh lánh nạn ở Đại Nam nhưng không được chấp nhận. Năm 1802-1824, chuẩn bị chống Xiêm, Ai Lao có ý muốn dựa vào Đại Nam để chống Xiêm, A Nộ đã 8 lần cử sứ giả sang Đại Nam. Gia Long muốn tạo ảnh hưởng và chống tham vộng “Đông tiến” của Xiêm nên thường hậu đãi sứ giả, tặng quà cho quý quốc. Thời Minh Mạng, lãnh thổ Đại Nam rộng lớn hơn cả. Nhiều vùng ở Ai Lao đã xin thuộc quyền bảo hộ của Đại Nam. Các vùng nay là Sầm Nứa, Trấn Ninh, Cam Môn và Savannakhet giáp với các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Trị đều được sáp nhập và trở thành các châu, phủ của Đại Nam.

Với Chân Lạp, sau khi phá được quân Xiêm, Trương Minh Giảng cùng Tham tán Lê Đại Cương lập đồn Đại Nam gần Nam Vang (tức Phnôm Pênh) để bảo hộ Chân Lạp (Cambodia).

Cuối năm Giáp Ngọ (1834), vua Nặc Ông Chân của Chân Lạp qua đời mà không có con trai nối dõi, nên quyền bính chuyển sang cho Trà Long và Lê Kiên - hai người Chân Lạp làm quan cho Việt Nam. Đến năm Ất Mùi (1835), Trương Minh Giảng lập con gái Nặc Ông Chân là công chúa Angmey tức Ngọc Vân công chúa lên làm quận chúa. Trương Minh Giảng đổi Chân Lạp thành Trấn Tây thành, rồi chia làm 32 phủ và 2 huyện, và đặt các chức quan cai quản mọi việc quân sự và dân sự.

Do quan lại người Việt ở Chân Lạp làm nhiều điều ức hiếp, nhũng nhiễu dân Chân Lạp; do nhà Nguyễn bắt Ngọc Vân công chúa đem về Gia Định, đày Trà Long và Lê Kiên ra miền Bắc Đại Nam, dân Chân Lạp oán hận và nổi dậy chống quân Đại Nam ở khắp nơi. Em trai của Nặc Ông Chân là Nặc Ông Độn đã làm loạn với sự giúp đỡ của Xiêm La. Quan quân nhà Nguyễn đánh dẹp không nổi, nên sau khi vua Minh Mạng qua đời, quan quân Đại Nam phải bỏ Trấn Tây thành mà rút về An Giang.

III. NHẬN XÉT Về MI QUAN H ĐI NGOI CA TRIU NGUYN GIAI ĐON 1802 – 1858

Xuất phát từ ý thức bảo vệ ngai vàng của chế độ phong kiến gắn liền với việc bảo vệ an ninh của đất nước các vua triều Nguyễn đã thực hiện chính sách ngoại giao “không phương Tây” trong quan hệ với các nước phương Tây giai đoạn 1802 – 1858. Đây là một cố gắng rất lớn của các vị vua triều Nguyễn. Song, mâu thuẫn trong tiến hành chính sách đóng cửa và mở cửa đã đẩy triều Nguyễn đứng trước thách thức cực kỳ lớn lao là phải đối mặt với áp lực ngày càng tăng của chủ nghĩa thực dân phương Tây, để rồi cuối cùng phải đương đầu với sự xâm lược của thực dân Pháp.

Vào đầu thế kỷ XIX hoàn cảnh trong nước và ngoài nước đòi hỏi Việt Nam phải tăng cường mở rộng các mối quan hệ quốc tế, thắt chặt mối quan hệ quốc tế nhất là với phương Tây để bảo vệ hữu hiệu lợi ích và an ninh đất nước. Nhưng triều Nguyễn đã thực hiện đường lối ngoại giao “khép kín” và đóng cửa. Xu thế này đã đi ngược lại xu thế phát triển của thế giới và là một chính sách ngoại giao tiêu cực, sai lầm.

Chính hạn chế này đã để lại một bài học kinh nghiệm quý giá trong ngoại giao Việt Nam hiện nay. Đó là một bài học phải kịp thời nắm bắt xu thế phát triển của tình hình thế giới, hiểu biết sâu sắc thế và lực của đất nước, cục diện của quốc tế, phải luôn luôn theo sát hoàn cảnh của thế giới, nắm bắt cho được quy luật vận động để theo kịp vận hội mới và đổi mới tư duy đối ngoại.[4]


Trả lời các câu hỏi quan trọng

1/ Lí do chi phối triều Nguyễn thực hiện chính sách ngoại giao "bế quan tỏa cảng"?

- Kế tiếp tư tưởng truyền thống mà các triều đại phong kiến trước để lại, đó là chính sách “trọng nông ức thương”, coi trọng nông nghiệp còn các ngành khác đặc biệt là ngoại thương bị hạn chế.

- Trong khi các nước phương Tây phát triển như vũ bão thì các nước phương Đông vẫn trong “giấc ngủ” của chế độ phong kiến quân chủ chuyên chế lỗ thời và lạc hậu. Vì vậy phương Đông trở thành đối tượng đầu tiên để các nước tư bản phương Tây xâm chiếm. Trước nguy cơ bị thực dân phương Tây xâm chiếm, thay vì mở cửa thông thương thì triều Nguyễn lại thi hành chính sách “bế quan tỏa cảng”, lo sợ nhưng lại thiếu hiểu biết, chỉ biết làm theo tư tưởng Nho giáo, vốn đã in sâu vào nhận thức của vua quan phong kiến.

- Chịu sự ảnh hưởng lớn từ Trung Quốc, mà Trung Quốc lại là quốc gia đầu tiên thi hành chính sách đóng cửa.

- Vì không thông thương được nên Pháp đã lập nên một “chương trình xâm lược” đối với Việt Nam theo con đường: thương nhân và giáo sĩ vào trước, dọn đường cho quân đội vào chính thức xâm chiếm. Mặc dù nhận thức được âm mưu đó nhưng vua quân triều Nguyễn tỏ ra bối rối trước việc xử lí vấn đề, họ ngăn chặn thương nhân, cấm đạo sát đạo, kiểm soát chính sách thuế khóa, hải quan ngặt nghèo hơn.

→ Nói chung việc triều Nguyễn “bế quan tỏa cảng” cũng xuất phát từ ý muốn gìn giữ độc lập nhưng do hiểu biết còn hạn chế, nặng nề tư tưởng Nho giáo, ảnh hưởng từ Trung Quốc làm cho kinh tế chậm phát triển không đủ sức chống cự với thực dân khi chúng tràn vào nước ta.  

2/ Tại sao Nặc Ông chân thần phục Xiêm La rồi mà còn quay lại thần phục vua Gia Long?

- Chân Lạp trong khu vực là một quốc gia nhỏ bé, tiềm lực chưa đủ để cạnh tranh nên phải thần phục những nước lớn. Trên thực tế, Nặc Ông Chân thần phục cả hai quốc gia là Xiêm và Đại Việt.

- Tuy nhiên khi Chân Lạp có biến, nội bộ hoàng tộc tranh giành ngôi vua, Xiêm La đã lợ dụng cơ hội đó xâm chiếm Chân Lạp, buộc Nặc Ông Chân phải sang Đại Việt cầu cứu. Lúc này, vua Gia Long không ngần ngại đưa quân sang đánh đuổi quân Xiêm. Sở dĩ Gia Long làm như vậy vì muốn lợ dụng Chân Lạp như một “phên dậu” để ngăn chặn âm mưu Đông tiến của Xiêm, một khi Xiêm đã chiếm được Chân Lạp thì Xiêm sẽ dễ dàng tấn công các nước láng giềng của Chân Lạp như Đại Nam.

- Năm 1813, Gia Long cho tổng trấn Gia Định – Lê Văn Duyệt đem 13 000 quân đưa Nặc Ông Chân về Chân Lạp, tiếp tục giữ ngôi vua.

→ Ách đô hộ của triều Nguyễn đã được thiết lập trên dất Chân Lạp. Mối quan hệ của hai nước về sau rất là thân thiết: quan hệ buôn bán, liên minh chống Pháp…

- Mặt khác, vùng đất Tây Nam Bộ trước kia là của Chân Lạp giao cho triều Nguyễn quản lí thì giữa triều đình nhà Nguyễn với Chân Lạp cũng có mối quan hệ qua lại tốt hơn so với Xiêm La.

3/ Chính sách "bế quan tỏa cảng" của triều đình nhà Nguyễn có phải chịu ảnh hưởng từ Trung Quốc không? Từ thực tế, Trung Quốc bì xâu xé thì triều đình nhà Nguyễn có rút được bài học kinh nghiêm gì không? Nếu có tại sao không rút kinh nghiệm?

-Chính sách "bế quan tỏa cảng" của triều đình nhà Nguyễn có ảnh hưởng từ Trung Quốc.

- Từ thực tế, Trung Quốc bị xâu xé thì triều đình nhà Nguyễn có rút ra được bài học kinh nghiệm cho mình. Chính vì thế, mới có ý định thay đổi chính sách đường lối ngoại giao của đất nước. Dưới thời vua Minh Mạng, ông đã chọn con đường thăm dò để mở cửa. Cuối 1839, để đối phó với tình hình biến động đang xảy ra dồn dâp xung quanh, Minh Mạng cho tăng cường phòng bị những nơi quan yếu, hải cảng, xây nhiều đồn lũy kiên cố phòng bị các cửa biển, tăng số lượng thuyền chiến... Điều này cho thấy Minh Mạng vẫn có ý thức tăng cường phòng bị đất nước, đề cao cảnh giác với bên ngoài. Sau đó, ông tiến hành các bước thăm dò để đi đến một chính sách hợp tác với phương Tây, ông đã cử một sứ đoàn sang Anh và Pháp nhằm mục đích thương thuyết và thiết lập quan hệ chính thức với hai nước này. Sứ đoàn này có nhiệm vụ làm việc để đi tới kí kết một hiệp ước liên minh chính trị- kinh tế với Anh và Pháp do Trần Viết Xương dẫn đầu. Nhưng chuyến đi này đã thất bại. Đánh dấu cơ hội mở cửa của Việt Nam chấm dứt. Như vậy thì triều đình nhà Nguyễn điều có rút kinh nghiệm chứ không phải là không rút kinh nghiệm như mọi người vẫn nghĩ.

4/ Tại sao nói triều Nguyễn không thần phục nhà Thanh một cách mù quáng?

- Vua Gia Long thường xuyên cử người sang Trung Quốc cống nạp và cầu phong. Năm 1804, nhà Thanh cử Tề Bố Sâm sang sắc phong cho Gia Long nhưng không vào Huế mà chỉ dừng lại ở Bắc thành Thăng Long, vua Gia Long phải ra Huế nhận sắc phong. Nhưng đến năm 1849, nhà Thanh vào Huế sắc phong cho Tự Đức, với lý do là việc đi lại của nhà vua tốn nhiều tiền bạc của dân chúng và có liên quan đến thể diện quốc gia.

→ Đây là một thắng lợi lớn về mặc ngoại giao, nhà Nguyễn đã cho thấy tinh thần tự chủ của mình trước nhà Thanh.

- Việc buôn bán với nhà Thanh: Các phái đoàn đi cống của Việt Nam ngoài việc đưa đồ tiến cống còn thực hiện việc trao đổi mua bán sản phẩm không có trong nước, vì Trung Quốc không cho phép thương nhân Việt Nam sang Trung Quốc, còn Việt Nam duy trì lệnh cấm dân chúng xuất cảnh để ngăn chặn việc xuất lậu vật phẩm sang Trung Quốc như gạo, muối, vàng bạc, đồng, sừng trâu, ngà voi, v.v...

- Việc duy trì quan hệ triều cống chỉ có ý nghĩa tượng trưng, vì đến cuối đời Minh Mạng, cứ bốn năm một lần nhà Nguyễn mới phải cử sứ sang cống, đồng thời nhà Thanh cắt giảm yêu cầu vật phẩm triều cống cho triều Tây Sơn và nhà Nguyễn chỉ còn phân nửa so với nhà Lê, nên giá trị vật chất không đáng kể. Tuy nhiên các đoàn đi sứ đều được lệnh ghi chép cẩn thận tình hình bên Trung Quốc để báo cáo lại cho nhà vua.Các sứ thần không hoàn thành nhiệm vụ này đều bị trách phạt. Đây có lẽ là một phần lý do khiến vua Minh Mạng có thể nhận định đúng việc nhà Thanh ngày càng suy yếu, và dự đoán chính xác nhà Thanh sẽ thất bại trong cuộc xung đột với nước Anh một khi cuộc chiến tranh Nha phiến nổ ra.

5/ Tại sao Cù Lao Phố, Mỹ Tho, Hà Tiên có vai trò quan trọng trong việc hoạch định chính sách của triều Nguyễn?

- Khi nhà Nguyễn mở rộng đất đai vào phía Nam thì Cù Lao Phố, Mỹ Tho, Hà Tiên trở thành những trung tâm kinh tế sầm uất, thương cảng lớn nhất của Nam Bộ lúc bấy giờ.

- Sự phát triển của địa chủ trong khu vực này làm chỗ dựa cho chính quyền nhà Nguyễn ở khu vực Nam Bộ.

- Cù Lao Phố là một thương cảng miền Nam lớn nhất lúc bấy giờ, giữ vai trò quan trọng trong việc thông thương buôn bán ở khu vực mà kênh rạch và sông nước là chủ yếu này.

- Mỹ Tho là vùng đất phì nhiêu màu mỡ rất tốt, quanh năm có nước ngọt, mùa lũ không ngập, một vùng đất lý tưởng để làm ruộng, trồng màu, trồng dâu nuôi tằm, trồng cau, dừa và các loại cây trái đặc sản. Về sa, đã sớm trở thành vựa lúa giàu có nhất nước. Đây cũng là vùng giàu có nhất nước về cây ăn quả, về thủy hải sản.

- Hà Tiên là một thương cảng phồn vinh, nông nghiệp phát triển.

→ Từ những đặc điểm trên, ta thấy Cù Lao Phố, Mỹ Tho, Hà Tiên giữ vai trò quan trọng trong việc hoạch định chính sách của nhà Nguyễn bởi vị trí và vai trò của nó trong nền kinh tế mà nông nghiệp là chủ yếu của nhà Nguyễn.

 


Tài liệu tham khảo chính

Tài liệu trên sách:

1. Trần Nam Tiến, Ngoại giao giữa Việt Nam với các nước phương Tây dưới triều Nguyễn, NXB Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh

2. Trương Hữu Quýnh – Phan Đại Doãn – Nguyễn Cảnh Minh, Đại cương Lịch sử Việt Nam, Tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam

3. Đỗ Bang – Nguyễn Minh Tường, Chân dung các vua Nguyễn, tập I, NXB Thuận Hoá

Tài liệu trên mạng:

1.www.lichsuvietnam.vn
2.www.kienthuc.net.vn

3. www.lichsuvietnam.info


Danh sách thành viên nhóm thực hiện đề tài

1. Hoàng Việt Anh (thuyết trình, đóng góp kinh phí)

2. Nguyễn Minh Kha (tìm kiếm tài liệu, biên soạn, biên tập, thuyết trình, đóng góp kinh phí)

3. Nguyễn Thị Yến Nhi (đóng góp kinh phí)

4. Nguyễn Thị Nhân (thuyết trình, đóng góp kinh phí)

5. Nguyễn Thị Thảo (đóng góp kinh phí)

6. Nguyễn Thị Cẩm Tiên (thuyết trình, biên soạn, biên tập)

7. Nguyễn Vũ Minh Trâm (hỗ trợ máy laptop, đóng góp kinh phí)

8. Trần Thị Phương Uyên (biên tập, biên soạn, đóng góp kinh phí)

9. Trần Ngọc Thảo Xuân (đóng góp kinh phí)

Ghi chú: Tất cả thành viên nhóm đều được phân công trả lời câu hỏi do các nhóm khác đặt ra.


Mục lục

Giới thiệu...............................................2

Nội dung chính bài tiểu luận..................................3

I. QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI CỦA TRIỀU NGUYỄN VỚI CÁC NƯỚC PHƯƠNG TÂY.....3

1. Quan hệ đối ngoại của triều Nguyễn thời vua Gia Long (1802 – 1820)...3

2. Quan hệ đối ngoại của triều Nguyễn thời vua Minh Mạng (1820 – 1840)..5

3. Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và các nước phương Tây thời kỳ Thiệu Trị ( 1841 - 1847 ) và Tự Đức ( 1847 - 1858 ).....10

II. QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI CỦA TRIỀU NGUYỄN VỚI CÁC NƯỚC TRUYỀN THỐNG.....14

1. Quan hệ ngoại giao với Trung Quốc..........................14

2. Vấn đề ngoại giao với các quốc gia khác.......................14

III. NHẬN XÉT VỀ MỐI QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI CỦA TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802 – 1858.....16

Trả lời các câu hỏi quan trọng................................17

Tài liệu tham khảo chính....................................21

Danh sách thành viên nhóm thực hiện đề tài.......................22

Mục lục................................................23

 


 

 

 


 

 

Tổ 5 – Lớp Quốc Tế Học 2B – ĐHSP TP. Hồ Chí Minh  1

 


[1]  TS. Trần Nam Tiến, Quan hệ giữa Việt Nam và các nước phương Tây dưới triều Nguyễn (1802 – 1858), NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

[2]  TS Trần Nam Tiến, sđd

[3]  Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục chính biên, tập XX (chú thích của TS. Trần Nam Tiến)

[4]  Theo TS. Trần Nam Tiến

nguon VI OLET