Sáng kiến kinh nghim                                                                            Năm hc 2011 - 2012

 

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM  DẠY CÁC DẠNG BÀI TẬP LUYỆN TỪ VÀ CÂU CHO HỌC SINH LỚP 4

 

PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ

I. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.

 Tìm hiểu tình hình học tiếng việt phân môn Luyện từ và câu thực hành xác định phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập luyện từ và câ. Đề xuất một số biện pháp thực hiện trong khi dạy học sinh dạng bài này.

         Tìm phương pháp  tổ chức thích hợp nhất trong quá trình dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu. Từ đó vận dụng linh hoạt vào hướng dẫn rèn kỹ năng làm các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh một cáhc hiệu quả nhất.

 

II. THỰC TRẠNG DẠY – HỌC CÁC DẠNG BÀI TẬP “LUYỆN TỪ VÀ CÂU”.

 1. Đối với chương trình sách giáo khoa.

 Số tiết Luyện từ và câu của chính sách giáo khoa lớp 4 gồm 2 tiết/tuần. Sau mỗi tiết hình thành kiến thức là một loạt các bài tập củng cố bài. Mà việc xác định phương pháp tổ chức cho một tiết dạy như vậy là hết sức cần thiết. Việc xác định yêu cầu của bài và hướng giải quyết còn mang tính thụ động, chưa phát huy triệt để vốn kiến thức khi luyện tập, thực hành.

 2. Đối với giáo viên.

  - Phân môn “Luyện từ và câu” là phần kiến thức khó trong khi hướng dẫn học sinh nắm được yêu cầu và vận dụng vào việc làm các bài tập nên dẫn đến tâm lý giáo viên ngại bởi việc vận dụng của giáo viên còn lúng túng gặp khó khăn.

 - Giáo viên một số ít không chịu đầu tư thời gian cho việc nghiên cứu để khai thác kiến thức và tìm ra phương pháp phù hợp với học sinh, lệ thuộc vào đáp án, gợi ý dẫn đến học sinh ngại học phân môn này.

 - Cách dạy của một số giáo viên còn đơn điệu, lệ thuộc máy móc vào sách giáo khoa, hầu như ít sáng tạo, chưa thu hút lôi cuốn học sinh.

 - Nhiều giáo viên chưa quan tâm đến việc mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ cho học sinh, giúp học sinh làm giàu vốn hiểu biết phong phú về Tiếng Việt.

 - Thực tế trong trường tôi công tác, chúng tôi thường rất tích cực đổi mới phương pháp dạy sao cho có hiệu quả nhất ở môn học này. Đồng thời là tiền đề trong việc phát triển  bồi dưỡng những em có năng khiếu. Nhưng kết quả giảng dạy và hiệu quả còn bộc lộ không ít những hạn chế.

 3. Đối với học sinh.

 Hầu hết học sinh chưa hiểu hết vị trí, tầm quan trọng, tác dụng của phân môn “Luyện từ và câu” nên chưa dành thời gian thích đáng để học môn này.

 Học sinh không có hứng thú học phân môn này. Các em đều cho đây là phân môn vừa “khô” vừa “khó”.

 Nhiều học sinh chưa nắm rõ khái niệm của từ, câu...Từ đó dẫn đến việc nhận diện phân loại, xác định hướng làm bài lệch lạc. Việc xác định còn nhầm lẫn nhiều.

 Học sinh chưa có thói quen phân tích dữ kiện của đầu bài, thường hay bỏ sót, làm sai hoặc không làm hết yêu cầu của đề bài.

 Thực tế cho thấy nhiều học sinh khi hỏi đến lý thuyết thì trả lời rất trôi chảy, chính xác, nhưng khi làm bài tập thực hành thì lúng túng và làm bài không đạt yêu cầu. Điều đó thể hiện học sinh nắm kiến thức một cách máy móc, thụ động và tỏ ra yếu kém thiếu chắc chắn.

 

PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

1.Cơ sở lí luận.

Nhận thức được tầm quan trọng của Tiếng Việt trong sự nghiệp giáo dục con người. Từ xa xưa ông cha ta đã sử dụng nó một cách tự giác nhằm để giáo dục trẻ nhỏ.

 Khi chưa có nhà trường, trẻ được giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội. Từ thuở nằm nôi, các em được bao bọc trong tiếng hát ru của mẹ, của bà, lớn lên chút nữa những câu chuyện kể có tác dụng to lớn, là dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn trẻ, rèn luyện các em thành con người có nhân cách, có bản sắc dân tộc góp phần hình thành con người mới, đáp ứng yêu cầu của xã hội đối với những thành viên của mình.

Cùng với sự phát triển của xã hội, giáo dục nhà trường xuất hiện như một điều tất yếu, đón bước thiếu nhi cắp sách tới trường. Cả thế giới đang mở trước mắt các em. Kho tàng văn minh nhân loại được chuyển giao từ những điều sơ đẳng nhất. Quá trình giáo dục được thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi, tất cả các môn học.

 Những điều sơ đẳng nhất đã góp phần rất quan trọng trong việc sử dụng ngôn ngữ vào hoạt động giao tiếp của học sinh. Ngôn ngữ là thứ công cụ có tác dụng vô cùng to lớn. Nó có thể diễn tả tất cả những gì con người nghĩ ra, nhìn thấy biết được những giá trị trừu tượng  mà các giác quan không thể vươn tới được. Các môn học ở Tiểu học có tác dụng hỗ trợ  cho nhau nhằm giáo dục toàn diện học sinh phải kể đến Luyện từ và câu, một phân môn chiếm thời lượng khá lớn trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học. Nó tách thành một phân môn độc lập, có vị trí ngang bằng với phân môn Tập đọc, Tập làm văn...song song tồn tại với các môn học khác. Điều đó thể hiện việc cung cấp vốn từ cho học sinh là rất cần thiết và nó có thể mang tính chất cấp bách nhằm “đầu tư” cho học sinh có cơ sở hình thành ngôn ngữ cho hoạt động giao tiếp cũng như chiếm lĩnh nguồn tri thức mới trong các môn học khác. Tầm quan trọng đó đã được rèn giũa luyện tập nhuần nhuyễn trong quá trình giải quyết các dạng bài tập trong môn Luyện từ và câu lớp 4.

2. Cơ sở thực tiễn.

Việc giải quyết các dạng bài tập Luyện từ và câu lớp 4 có hiệu quả đặt  ra cho các Giáo viên Tiểu học là một vấn đề không phải đơn giản. Qua thực tế dạy tôi đã gặp phải không ít những khó khăn. Bởi đây là chương trình thay sách lớp 4 mới. Cùng tồn tại với nó là từ ngữ và ngữ pháp của chương  trình cải cách đều đảm nhiệm cung cấp vốn từ cho học sinh, việc hướng dẫn làm các bài tập Luyện từ và câu mang tính chất máy móc, không mở rộng cho học sinh nắm sâu kiến thức  của bài. Về phía học sinh, làm các bài tập chỉ biết làm mà không hiểu tại sao làm như vậy, học sinh không có hứng thú trong việc giải quyết kiến thức. Do vậy việc tổ chức cho học sinh trong các giờ giải quyết các bài tập Luyện từ và câu là vấn đề trăn trở cho các giáo viên và ngay bản thân tôi.

 Trong quá trình dạy học cũng như việc phát hiện học sinh năng khiếu, tôi cũng như một số giáo viên khác khi dạy đến tiết Luyện từ và câu, đặc biệt các khái niệm về từ đơn, từ ghép, các kiểu từ ghép...bộc lộ không ít hạn chế. Về nội dung chương trình dạy phần đó trong sách giáo khoa rất ít. Chính vì vậy học sinh rất khó xác định, dẫn đến tiết học trở nên nhàm chán không thu hút học sinh vào hoạt động này. Để tháo gỡ khó khăn đó rất cần có một phương pháp tổ chức tốt nhất, có hiệu quả nhất cho tiết dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4.

3. Qúa trình dạy thử nghiệm:

 a. Đối với các dạng bài tập mở rộng vốn từ.

 Ví dụ: Tìm các từ ngữ:

 - Thể hiện lòng nhân hậu, tình cảm yêu thương đồng loại.

 - Trái nghĩa với nhân hậu hoặc yêu thương.

 - Thể hiện tinh thần đùm bọc, giúp đỡ đồng loại.

 - Trái nghĩa với với đùm bọc hoặc giúp đỡ.

 Ngoài việc sử dụng hướng mẫu trong sách giáo khoa. Giáo viên yêu cầu học sinh làm việc theo nhóm (4 nhóm). Mỗi nhóm một yêu cầu, sau khi đại diện nhóm trả lời cho học sinh làm việc ở lớp.

 Nhóm 1: Lòng thương người, đùm bọc, giúp đỡ...

 Nêu ý nghĩa của các từ em tìm được. Các nhóm cùng bổ sung, giáo viên chốt lại ý kiến đúng.

    Liên hệ giữa tình huống học sinh đã làm được trong cuộc sống, quá trình học tập.

 b. Rèn luyện kĩ năng cấu tạo từ – dạng bài tập tìm từ ghép, từ láy.

 Ví dụ: Tìm từ láy, từ ghép chứa các tiếng sau đây.

    - Ngay

    - Thẳng

    - Thật

 Đối với các dạng bài tập này tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm trong phiếu. Giáo viên có thể sử dụng phương pháp động não thu nạp rất nhiều từ, từ quá trình học sinh, mỗi nhóm hoạt động một nhiệm vụ với từ (Ngay, thẳng, thật).

Từ

Từ láy

Từ ghép

Ngay

Ngay ngáy

Ngay thẳng, ngay ngắn...

Thẳng

Thẳng thắn

Ngay thẳng, thẳng tắp...

Thật

Thật thà

Sự thật, thẳng thật...

 Cùng yêu cầu của bài đã cho học sinh chọn từ để đặt câu với từ đó. Giáo viên cho học sinh làm việc cá nhân.

 * Cho học sinh so sánh từ láy, từ ghép:

  Giáo viên chốt:

 Từ bao giờ cũng có nghĩa vì nó là đơn vị nhỏ nhất để đặt câu.

Từ láy, từ ghép đều là từ có nghĩa. Từ láy là phối hợp những tiếng có phụ âm đầu, vần hoặc cả âm đầu và giống nhau gọi là từ láy. Từ ghép là ghép những tiếng có nghĩa lại với nhau, đó là từ ghép. Dựa vào cấu tạo trên mà học sinh có thể xác định từ ghép và từ láy.

 Giáo viên có thể lấy thêm ví dụ:

 + Từ ghép: Cơn mưa, nhà cửa, bông hoa...

 + Từ láy: Luộm thuộm, chăm chỉ...

 c. Luyện tập các bài có dạng về tính từ, động từ, danh từ.

 Trong đó chương trình sách giáo khoa cũng lựa chọn những tình huống giao tiếp gắn bó với cuộc sống gần gũi của học sinh.

 Ví dụ1: Viết họ và tên 3 bạn nam, 3 bạn nữ trong lớp em. Họ và tên các bạn ấy là danh từ chung hay danh từ riêng? vì sao?

 Với bài này tôi đã gợi ý cho học sinh: Xác định tên của bạn mình, viết, ghi rõ họ, tên. Lưu ý đó là danh từ chung hay danh từ riêng.

 Cho học sinh làm việc cá nhân, nêu miệng. Phần học này học sinh thường hay mắc lỗi ở vạch danh từ chung.

 Tôi yêu cầu các em nêu lại danh từ chung là gì? Dùng phép “suy” để học sinh áp dụng vào bài của mình.

 Ví dụ 2: Gạch dưới các động từ trong đoạn văn sau:

 Yiết Kiêu đến kinh đô yết kiến vua Trần Nhân Tông

 Nhà vua: Trẫm cho nhà ngươi nhận một loại binh khí

 Yết Kiêu: Thần chỉ xin một chiếc dùi sắt

 Nhà vua: Để làm gì ?

 Yết Kiêu: Để dùi những chiếc thuyền của giặc vì thần có thể lặn hàng giờ dưới nước.

 Tôi đã cho học sinh làm việc theo nhóm. Học sinh trong nhóm thảo luận nêu trước lớp.

 Lưu ý có 2 từ “dùi” từ nào là động từ ? Lấy ví dụ trường hợp khác. Người ta lấy cái đục là cái lỗ để nước đục chảy ra.

 Ví dụ 3: Tìm những từ ngữ biểu thị mức độ của đặc điểm, tính chất được gạch chân trong đoạn văn sau:

 Hoa cà phê thơm đậm và ngọt lên mùi hương thường theo gió bay đi rất xa. Nhà thơ Xuân Diệu chỉ có một lần đến đây ngắm nhìn của cà phê đã phải thốt lên.

    Hoa cà phê thơm lắm em ơi

    Hoa cùng một điệu với hoa nhài

    Trong ngà trắng ngọc, xinh và sáng.

    Như miệng em cười đâu đây thôi...

 Đây là bài tập để rèn luyện về tính từ và  bài này hơi trừu tượng với học sinh

Cho các em phân tích đề bài trước vì yều cầu của bài không quen thuộc với học sinh ;các em đã hiểu .

          Tìm những từ biểu thị mức độ của đặc điểm tính chất của cá từ gạng chân cụ thể : Hoà cà phê thơm như thế nào ? (thơm đậm và ngọt ) nên mùi hương bay đi rất xa. Lần lượt học sinh tìm (trả lời cá nhân theo phương pháp động não):

   Thơm – lắm

   Trong – ngà

   Trắng – ngọc

 Như vậy các em thấy quen thuộc với cách làm của bài này.

c. Củng cố khắc sâu mở rộng luyện các dạng bài tập về câu.

Với dạng bài này cũng được lựa chọn với thực tiễn sinh động hàng ngày để học sinh biết đặt câu đúng, phù hợp với tình huống giao tiếp, đảm bảo lịch sự khi đặt câu.

1. Câu kể.

Ví dụ 1: Đặt một vài câu kể để:

a) Kể việc làm hàng ngày sau khi đi học về.

b) Tả chiếc bút em đang dùng.

c) Trình bày ý kiến của em về tình bạn.

d) Nói lên niềm vui của em khi nhận được điểm tốt.

Tổ chức cho học sinh làm việc cá nhân. Kể về việc em làm...

Lưu ý học sinh khi viết hết câu phải có dấu chấm. Học sinh viết và đọc cho học sinh trong lớp nhận xét bổ sung.

      Nội dung của các yêu cầu trên khác nhau: Tả, bày tỏ ý kiến, nói lên niềm vui...

 Giáo viên hướng dẫn mẫu:

 + Tả kết hợp với dùng từ ngữ gợi tả, biện pháp nghệ thuật

 + Bày tỏ ý kiến – yêu mến, gắn bó như thế nào?

 + Nói lên niềm vui – vui sướng như thế nào khi được điểm tốt.

 Ví dụ 2: Khi muốn mượn bạn cái bút, em có thể chọn những cách nói nào?

 a) Cho mượn cái bút!

 b) Lan ơi, cho tớ mượn cái bút!

 c) Lan ơi, cậu có thể cho tớ mượn cái bút được không?

 Cho học sinh trả lời cá nhân, học sinh chọn trường hợp c, vì nó thể hiện sự lịch sự trong giao tiếp.

 Giáo viên yêu cầu học sinh hoạt động tiếp nối. Trao đổi theo cặp, thực hành lời yêu cầu lịch sự.

 2. Câu hỏi:

 Đối với việc giữ lịch sự khi đặt câu hỏi, dạng bài tập cho phần này cũng rất cụ thể:

 Ví dụ: So sánh các câu hỏi trong đoạn văn sau: Em thấy câu các bạn nhỏ hỏi cụ già có thích hợp hơn những câu hỏi khác không? Vì sao?

  Sau một cuộc dạo chơi, đám trẻ ra về. Tiếng nói cười ríu rít. Bỗng các bạn dừng lại khi thấy một cụ già đang ngồi ở vệ đường. Trông cụ thật mệt mỏi, cặp mắt lộ rõ vẻ u sầu.

 - Chuyện gì đã xảy ra với ông cụ thế nhỉ? Một em trai hỏi, - Đám trẻ tiếp lời bàn tán sôi nổi:

 - Chắc là cụ bị ốm?

 - Hay là cụ đánh mất cái gì?

 - Chúng mình thử hỏi xem đi?

 Các em tới chỗ ông cụ, lễ phép hỏi:

 - Thưa cụ, chúng cháu có thể giúp gì cho cụ không?

 Giáo viên tổ chức cho học sinh làm việc cá nhân. Trước hết học sinh phải xác định câu nào là câu hỏi, câu nào là câu các bạn phỏng đoán với nhau: cho học sinh so sánh.

 Các câu các em hỏi nhau: - Chuyện gì xảy ra với ông cụ thế nhỉ?

     - Chắc là cụ bị ốm

     - Hay cụ đánh mất cái gì?

 Câu hỏi các bạn nhỏ hỏi cụ già:

     - Thưa cụ, chúng cháu có thể giúp gì cụ không?

 Hướng dẫn học sinh nhận xét  về câu hỏi của các bạn nhỏ với cụ già là rất phù hợp trong trường hợp đó vì: Nếu không biết nguyên nhân của ông cụ như thế nào mà hỏi cụ bị ốm hay cụ đánh mất cái gì... sẽ làm tổn thương đến ông cụ (chẳng may ông cụ rơi vào hoàn cảnh như vậy). Qua bài tập này củng cố khắc sâu cho học sinh về cần đặt những câu hỏi lịch sự, tránh những  câu hỏi làm phiền lòng người khác.

  Học sinh còn bỡ ngỡ trong việc phân tích các câu hỏi. Tôi đã dướng dẫn các em phải đặt nó trong văn cảnh cụ thể.

 Hoạt động liên hệ: Cho học sinh đặt câu hỏi phù hợp khi gặp tình huống như trong bài tập trên ở ngoài thực tế.

  1. Câu khiến

- Dạng bài tập cho mảng kiến thức này gồm:

- Chuyển các câu kể thành câu khiến.

 

- Đặt câu khiến phù hợp với các tình huống.

- Đặt câu khiến theo yêu cầu có   “hãy” trước động từ

      “đi” hoặc “nào” sau động từ

      “xin” hoặc “mong” trước chủ ngữ

  - Nêu tình huống có thể dùng câu khiến nói trên.

Ví dụ 1: Chuyển các câu kể thành câu khiến

- Nam đi học

- Thanh đi lao động

- Ngân chăm chỉ

- Giang phấn đấu học giỏi.

Với bài tập này trước hết tôi cho học sinh phân tích mẫu: - Nam đi học!

         -Nam phải đi học!

         - Nam hãy đi học!

Cho học sinh nhận xét mẫu so với câu ban đầu: Thêm cac từ “đi”, “phải”,

“hãy” ứng với lời yêu cầu ở mức nặng –nhẹ tuỳ thuộc vào mỗi lời yêu cầu.

 - Nam đi học đi !   (yêu cầu nhẹ nhàng)

 - Nam phải đi học!  ( yêu cầu bắt buộc)

 - Nam hãy đi học đi!  ( yêu cầu mang tính ra lệnh)

 

Sau đó tôi tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm ( 3 nhóm ứng với 3 tổ),

mỗi tổ một câu rồi nêu miệng nhận xét.

 Tôi chốt lại học sinh: Muốn đặt câu khiến có thể dùng một trong các cách sau: Thêm các từ hãy, đừng, chớ, nên, phải vào trước động từ... và cuối câu dùng dấu chấm than (!).

 Cùng phương pháp tổ chức này tôi cho học sinh làm ví dụ 2.

 Ví dụ 2: Đặt câu khiến cho những yêu cầu dưới đây:

 a. Câu khiến có hãy ở trước động từ.

 b. Câu khiến có đi hoặc nào ở trước động từ.

 c. Câu khiến có xin hoặc mong ở trước chủ ngữ.

 Phần này học sinh không còn bỡ ngỡ về cách đặt câu khiến.

 a. Bạn hãy làm bài tập đi!

 b. Mong các em làm bài tập thật tốt!

 4. Câu cảm: (câu cảm thán)

 Yêu cầu học sinh hiểu câu cảm là câu dùng để bộc lộ cảm xúc (vui mừng, thán phục, đau xót, ngạc nhiên...) của người nói.

 Lưu ý trong câu cảm thường có các từ ngữ: ôi, chao, chà, trời, quá, lắm, thật...Khi viết câu cảm cuối câu thường có dấu chấm than (!).

 Ví dụ 1: Đặt câu cảm cho các tình huống sau:

 a. Cô giáo ra một bài toán khó, cả lớp chỉ một bạn làm được. Hãy đặt câu cảm để bày tỏ sự thán phục.

 b. Vào ngày sinh nhật của em, có một bạn cũ đã chuyển trường từ lâu bỗng nhiên tới chúc mừng em. Hãy đặt câu cảm để bày tỏ sự ngạc nhiên và vui mừng.

 Tôi đã tổ chức cho học sinh làm việc cặp đôi và đóng vai trò trong tình huống, một bạn nêu, một bạn trả lời, cả lớp nhận xét bổ sung.

 a. Ôi, bạn giỏi quá!

 b. Ôi, bất ngờ quá, tớ cảm ơn bạn!

 Tôi cho học sinh suy nghĩ tìm thêm các tình huống khác đặt câu cảm, nêu cá nhận để các bạn nhận xét.

 Ví dụ 2: Những câu cảm sau đây bộ lộ cảm xúc gì?

 a. Ôi, bạn Nam đến kìa!

 b. Ồ, bạn Nam thông minh quá!

 c. Trời, thật là kinh khủng!

 Theo tôi phần này tôi cho học sinh làm việc cá nhân:

 - B1: Nhận xét ý nghĩa của câu cảm.

 - B2: Tìm cảm xúc của mỗi câu.

 - B3: Rút ra kết luận chung về câu cảm.

 d. Mở rộng khắc sâu cách dùng trạng ngữ trong câu.

 Dạng bài tập:

 - Thêm trạng ngữ chỉ nơi chốn cho câu.

 - Thêm trạng ngữ chỉ thời gian cho câu.

 - Thêm trạng ngữ chỉ nguyên nhân cho câu.

 - Thêm trạng ngữ chỉ mục đích  cho câu.

 - Thêm trạng ngữ chỉ phương tiện cho câu.

 Ví dụ 1: Thêm trạng ngữ chỉ nơi chốn cho câu:

 a................, em giúp bố mẹ làm những công việc gia đình

 b................, em rất chăm chú nghe giảng và hăng hái phát biểu.

 c................., hoa đã nở.

 Theo tôi, vì phần này tôi chưa trực tiếp giảng dạy nhưng ở chương trình lớp 4 cũ nó không có những chi tiết cụ thể rõ ràng như vậy nên việc hình thành kiến thức khó khăn hơn. Còn đối với dạng bài tập này tôi sẽ tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm (3 nhóm ứng với 3 tổ), mỗi tổ một câu. Tôi có gợi ý (với học sinh yếu): Em giúp bố mẹ làm những công việc gia đình tại đâu?

 Học sinh rất dễ phát hiện vì đây là các tình huống rất quen thuộc với học sinh nên cũng không nhất thiết phải hướng dẫn cụ thể.

 Tương tự như vậy là trạng ngữ chỉ thời gian cũng rất đơn giản.

 Với trạng ngữ chỉ mục đích học sinh có thể mắc.

 Ví dụ 2: Tìm các trạng ngữ thích hợp chỉ mục đích để điền vào chỗ trống:

 a).............., xã em vừa đào một con mương.

 b).............., chúng em quyết tâm học tập và rèn luyện thật tốt.

 c)..............., em phải năng tập thể dục.

        Giáo viên cần hướng dẫn h/s đến việc hiểu: Mục đích của đào mương để làm gì?

     Quyết tâm..........tốt để dành được gì?

      Tập thể dục có lợi gì?

 Ví dụ 3: Trạng ngữ chỉ phương tiện có dạng bài tập:

 Tìm trạng ngữ chỉ thời gian trong các câu sau

 - Bằng một giọng thân tình, thầy khuyên chúng em gắng học bài, làm bài đầy đủ.

 - Với óc quan sát tinh tế và đôi bàn tay khéo léo, người hoạ sĩ dân gian đã sáng tạo nên những bức tranh làng Hồ nổi tiếng.

 Học sinh đã biết: Trạng ngữ chỉ phương tiện thường mở đầu bằng các từ  “bằng, với” và trả lời cho các câu hỏi: bằng cái gì, với cái gì?

 Nên bài này tôi chi cho học sinh dùng bút chì gạch chân trạng ngữ cá nhân và nêu miệng trước lớp, theo tôi học sinh sẽ không khó khăn gì?.

 Như vậy mức độ khó của bài tập khong phụ thuộc vào các loại, các dạng bài tập mà phụ thuộc vào chính ngữ liệu đưa ra cho học sinh. Với các bài tập Luyện từ và câu của học sinh lớp 4. Nhiều yêu cầu trong sách giáo khoa tôi cũng cần phân tích cho nhiều đối tượng học sinh. Đối với học sinh khá, giỏi tôi thường gài thêm hoạt động tiếp nối. Với học sinh trung bình, học sinh yếu chọn những ngữ liệu cụ thể rõ ràng để học sinh dễ xác nhận.

 Ví dụ: Với dạng bài mở rộng vốn từ ý chí – nghị lực.

 Viết một đoạn văn ngắn nói về một người có ý chí, nghị lực nên đã vượt qua nhiều thử thách, đạt được thành công.

 Với học sinh khá, giỏi tôi cho học sinh phân tích yêu cầu đề bài sau đó viết ngay vào nháp.

 Với học sinh trung bình và yếu tôi hướng dẫn học sinh sử dụng các từ ngữ thuộc chủ đề ý chí – nghị lực đã học để viết. Hỏi học sinh về người em định viết (học sinh yếu tôi còn hỏi về người em định viết có những phẩm chất gì).

Quan tâm đến đối tượng học sinh trong giảng dạy chính là chú ý đến việc nâng cao chất lượng học sinh giỏi để bồi dưỡng và nâng cao chất lượng đại trà. Đó là việc làm quan trọng và không thể thiếu trong quá trình giảng dạy.

 

 Một điều tôi cũng rất quan tâm đó là việc trình bày của học sinh. Các em làm bài có thể tốt nhưng cách trình bày bố cục bài làm của học sinh còn là cả một vấn đề cần chấn chỉnh.

 Trong quá trình nghiên cứu, thử nghiệm và tích cực tìm tòi phương pháp tổ chức cho học sinh làm các dạng bài tập Luyện từ và câu. Trải qua một học kỳ ôn tập cùng thời gian áp dụng phương pháp nghiên cứu tôi đã tiến hành khảo sát để xem sự chuyển biến của học sinh sau khi đã được hoạt động sôi nổi trong giờ luyện từ và câu giải quyết các bài tập với lớp 4B do tôi chủ nhiệm.

 Đề bài:

 Đọc thầm bài “Về thăm bà” và trả lời câu hỏi sau:

 1) Trong bài “Về thăm bà” từ nào cùng nghĩa với từ “hiền”

 2) Câu “Lần nào trở về với bà, Thanh cũng thấy bình yên và thong thả như thế” có mấy động từ, tính từ?

 a. Một động từ, 2 tính từ. Các từ đó là: - Động từ

        - Tính từ

 b. Hai  động từ, 2 tính từ. Các từ đó là: - Động từ

        - Tính từ

 c. Hai động từ, 1 tính từ. Các từ đó là:  - Động từ

        - Tính từ

 

 3) Câu “Cháu đã về đấy ư ?” được dùng làm gì?

 a. Dùng đề hỏi.

 b. Dùng để yêu cầu, đề nghị.

 c. Dùng thay lời chào.

 4) Trong câu “ Sự im lặng làm Thanh mãi mới cất được tiếng gọi khẽ” bộ phận nào là chủ ngữ?

 

a. Thanh

 b. Sự yên lặng

 c. Sự yên lặng làm Thanh.

4. Hiệu quả mới: 

Thực hiện phương pháp dạy học này học sinh đã được củng cố, khắc sâu, mở rộng và rèn kĩ năng luyện tập thực hành về các dạng bài tập “Luyện từ và câu” lớp 4 tôi thấy kết quả của việc làm đó như sau:

- Học sinh được tổ chức hoạt động một cách độc lập, tìm tòi kiến thức, tầm nhận thức đối với mọi đối tượng học sinh là phù hợp, nên học sinh tiếp thu một cách có hiệu quả.

- Các em biết dựa vào kiến thức lý thuyết để vận dụng làm các bài tập một cách chủ động.

- Với phương pháp tổ chức này học sinh nắm kiến thức một cách sâu sắc có cơ sở, được đối chứng qua nhận xét của bạn, của giáo viên.

- Các em đã hình thành được thói quen đọc kỹ bài, xác định yêu cầu của bài. Không còn tình trạng bỏ sót yêu cầu của đề bài.

- Học sinh có ý thức rèn cách trình bày sạch sẽ, khoa học, biết dùng từ đặt câu hợp lý. Ngoài ra học sinh còn có thêm thói quen kiểm tra, soát lại bài của mình.

- Qua việc giảng dạy theo dõi kết quả của học sinh qua các giờ kiểm tra, bài kiểm tra định kỳ của học sinh tôi thấy: Học sinh sẵn sàng đón nhận môn “Luyện từ và câu” bất kỳ lúc nào. Đó cũng nói lên học sinh đã bắt đầu yêu thích môn học, mạnh dạn nêu ý kiến của mình.

- Tuy kết quả tôi nêu trên  hết sức sơ lược và ở phạm vi nhỏ, song nó cũng góp phần động viên tôi trong công tác giảng dạy học sinh nói chung, phát hiện bồi dưỡng những học sinh khá, giỏi, phụ đạo học sinh yếu nói riêng. Bé nhỏ như vậy nhưng vô cùng quan trọng đối với một giáo viên còn non nớt kinh nghiệm như tôi trong việc tháo gỡ khó khăn, trong việc tìm ra phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập “Luện từ và câu” cho học sinh của mình.

 

PHẦN III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM.

 

1. Sỏng kiến cụ thể:

    Đây là một trong các giải pháp hợp lý hiệu qu trình thực hiện dạy học các dạng bài tập phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4.

     Sử dụng sáng kiến này một cách khoa học, hợp lý sẽ gây được hứng thú học tập cho học sinh trong việc học môn Luyện từ và câu.  Học sinh sẵn sàng đón nhận môn “Luyện từ và câu” bất kỳ lúc nào. Đó cũng nói lên học sinh đã bắt đầu yêu thích môn học, mạnh dạn nêu ý kiến của mình.

2. Sử dụng sang kiến:

       Dạy học các dạng bài tập  “Luyện từ và câu” cho học sinh lớp 4 giúp học sinh nắm được kiến thức trong phân môn  “Luyện từ và câu” cung cấp: Học sinh hiểu được từ mới, phát triển kĩ năng, kỹ xảo sử dụng từ ngữ, học sinh còn biết nhận diện xác định các dạng bài tập, phân tích kỹ, chính xác yêu cầu của đề bài, từ đó có hướng cho hoạt động học tập của mình. Để đạt được các điều đó, người giáo viên cần chú ý:

- Trong quá trình giảng dạy giáo viên không nên nóng vội, mà phải bình tĩnh trong thời gian không phải ngày 1 ngày 2. Đặc biệt luôn xem xét phương pháp giảng dạy của mình để điều chỉnh phương pháp sao cho phù hợp với việc nhận thức của học sinh, gây được hứng thú học tập cho các em.

     - Phải nghiên cứu để nhận thức rõ về vị trí, nhiệm vụ của phần kiến thức vừa dạy.

     - Lưu ý quá trình giảm tải đề điều chỉnh sao cho phù hợp với đặc điểm học sinh lớp mình, đề ra hướng giải quyết  cho việc cân chỉnh thống nhất giảm tải.

      - Không ngừng học hỏi trao đổi với đồng nghiệp để nghiên cứu đổi mới phương pháp dạy và học nhằm nâng cao chất lượng. Trong giảng dạy, giáo viên không được áp đặt học sinh mà coi nhiệm vụ học của học sinh là quan trọng, là nhân tố chủ yếu cho kết quả giáo dục. Luôn gợi mở khám phá tìm tòi biện pháp tốt nhất cho học sinh nắm chắc kiến thức. Rèn cho học sinh cách tư duy thông minh, sáng tạo, làm việc độc lập, nâng cao kết quả tự học của mình: Tạo cho học sinh có niềm vui trong học tập, có hứng thú đặc biệt trong học tập. Giáo viên luôn luôn giải quyết tình huống vướng mắc cho học sinh.

     - Giáo viên phải tôn trọng nghiêm túc thực hiện giáo dục, giảng dạy theo nguyên tắc từ những điều đơn giản mới đến nâng cao, khắc sâu...Để học sinh nắm vững việc giải quyết các bài tập “Luyện từ và câu”, giáo viên cũng cần lưu ý điểm sau:             

          + Tìm ra phương pháp tổ chức sao cho phù hợp với từng dạng bài tập.

+ Phân biệt cho học sinh hướng giải quyết cho các dạng bài khác nhau. Học sinh cần nắm được các bước tiến hành một bài tập. Cần tổ chức cho học sinh theo các hình thức tổ chức có thể theo nhóm, cá nhân, có thể làm việc cả lớp để phát huy tốt hiệu quả giờ dạy.

- Lưu ý cho học sinh cách trình bày sạch sẽ, khoa học, rèn chữ viết đẹp đúng chính tả cho học sinh.

3. Kết luận và kiến nghị chung:

Việc sử dụng sáng kiến đã tạo cho học sinh có niềm vui trong học tập, có hứng thú đặc biệt trong học phân môn Luyện từ và câu. Qua đó sẽ việc cung cấp vốn từ cho học sinh là rất cần thiết và nó có thể mang tính chất cấp bách nhằm “đầu tư” cho học sinh có cơ sở hình thành ngôn ngữ cho hoạt động giao tiếp cũng như chiếm lĩnh nguồn tri thức mới trong các môn học khác. Tầm quan trọng đó đã được rèn giũa luyện tập nhuần nhuyễn trong quá trình giải quyết các dạng bài tập trong môn Luyện từ và câu lớp 4.

Kính mong, BGH và các bạn đồng nghiệp nghiên cứu cùng thử nghiệm và cải tiến sáng kiến này để sáng kiến được hoàn thiện hơn. Qua đó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh.

 

 

 

1

Hoàng Văn Huyên                                                                              Trưng tiu hc Ngũ Lão

nguon VI OLET