-
Về mặt kinh tế, Nguyễn Trường Tộ vạch ra đường lối làm cho "nước giàu mà
dân cũng giàu". Ông khuyên triều đình ra sức mở mang nghề nghiệp, học cách làm
ăn của các nước văn minh Tây Âu, tránh bế quan tỏa cảng, mời các công ty kinh
doanh nước ngoài đến giúp Việt Nam khai thác tài lợi để có thêm của cải và học cho
được kỹ thuật cũng như cách làm ăn tiên tiến của họ. Có như vậy mới giữ được độc
lập trong tư thế làm chủ đón khách... (xem Dụ tài tế cấp bẩm từ).
-
Về mặt văn hóa - xã hội, Nguyễn Trường Tộ khuyên triều đình tìm mọi cách
nâng cao văn hóa đất nước theo hướng coi trọng khoa học - kỹ thuật, để sớm nâng
cao đời sống của nhân dân. Ông phê phán tình trạng kinh đô Huế luộm thuộm, mất
vệ sinh, công thự dột nát, lương bổng quan lại quá ít ỏi,v.v... Ông nêu hàng loạt vấn
đề quan trọng như: nên sáp nhập các tỉnh để giảm bớt số quan lại và có điều kiện
tăng lương cho quan lại nhằm giảm tệ tham nhũng, khuyến khích tính liêm khiết; đề
nghị sửa đổi chính sách thuế, đánh thuế nhà giàu nặng hơn nhà nghèo, đánh mạnh
vào xa xỉ phẩm, mặt khác không nên cấm dân dùng đồ đẹp, đồ sang khiến cho văn
vật ngày càng kém, áo xiêm ngày càng tồi; đề nghị sửa đổi chế độ thi cử, chú trọng
bồi dưỡng nhân tài về nhiều mặt, thành lập các môn học thực dụng, dùng quốc âm
trong công văn thay cho chữ Hán, lập địa đồ quốc gia và các tỉnh, kiểm kê dân số,
lập trại tế bần, viện dục anh (nhà trẻ), v.v... (xem Điều trần về cải cách phong tục,
Học tập bồi dưỡng nhân tài, Tế cấp bát điếu...).
-
Về mặt ngoại giao, Nguyễn Trường Tộ phân tích cho triều đình thấy rõ cục diện
chính trị trên toàn thế giới, để biết ứng xử một cách linh hoạt (xem Thiên hạ đại thế
luận). Ông chỉ ra những mâu thuẫn giữa Pháp với Anh và Tây Ban Nha và khuyên
triều đình nên chủ động mở rộng bang giao với nhiều nước, nhất là với nước Anh, để
chế ngự bớt tham vọng và khả năng xâm lược của Pháp. Khi nước Pháp có sự biến
lớn năm 1870 - 1871, vua Napoléon III mất ngôi, chế độ cộng hòa Pháp phục hồi,
Nguyễn Trường Tộ nêu một loạt kiến nghị, hướng dẫn triều đình xúc tiến ngoại giao
trực tiếp với Chính phủ Pháp, khéo léo đối phó, ngăn chặn bọn chỉ huy quân viễn
chinh Pháp ở Soái phủ Sài Gòn, nhằm tìm cách thu hồi lại sáu tỉnh đã bị chiếm (xem
Lục lợi từ và các tờ bẩm cuối năm 1866 đến tháng 2-1871).
-
Về mặt quân sự, Nguyễn Trường Tộ tuy là một người "chủ hòa", nhưng không
có tư tưởng "chủ hàng" hoặc hòa bình vô nguyên tắc. Năm 1867, ông khuyên triều
đình "ra sức cải tu võ bị", đề phòng quân Pháp từ Nam Kỳ đánh lan ra cả nước. Ông
là người đầu tiên nêu lên một chính sách quân sự có hệ thống như: trọng võ ngang
trọng văn, quý trọng người lính, ưu đãi sĩ quan, biên soạn lý luận binh pháp, đào tạo
cán bộ chỉ huy, tạo dựng một quốc thể về mặt binh bị, chuẩn bị điều kiện tác chiến
trong thành phố, tìm cách dùng người trong vùng địch chiếm, v.v...
Ngoài những bản điều trần và luận văn tạo nên một công trình trí tuệ vĩ đại vô
giá, Nguyễn Trường Tộ còn để lại một số hoạt động thực tiễn xuất sắc như: Năm
1
1
862 - 1863, ông thiết kế xây dựng tòa nhà nguyện của dòng tu nữ ở Sài Gòn. Năm
864 - 1866, ông thiết kế xây dựng bốn ngôi nhà trong giáo khu Xã Đoài. Mấy công
trình này của ông thuộc về những công trình kiến trúc đầu tiên theo kiểu châu Âu ở
Việt Nam giữa thế kỷ 19. Cũng giữa những năm 60 thế kỷ 19, khi hoạt động ở quê
nhà, ông đã giúp Tổng đốc Nghệ An Hoàng Tá Viêm đào Kênh Sắt, một công trình
xưa kia Cao Biền rồi Hồ Quý Ly dự định làm mà không làm nổi. Ngoài ra, ông còn
vận động dân chúng ở Xuân Mỹ, quê hương bên nhà vợ ông, cùng nhau dời làng từ
trong núi rừng đầy lam chướng ra nơi thoáng đãng, thuận lợi canh tác.
Trí tuệ lỗi lạc của Nguyễn Trường Tộ đã vượt hẳn lên trên tầm thời đại giữa thế
kỷ 19 ở Việt Nam. Vua Tự Đức tuy đã có lúc triệu ông "vào kinh để hỏi việc lớn" và
phái ông sang Pháp thuê thầy thợ, mua sách vở, máy móc, định du nhập kỹ thuật
(
năm 1866 - 1867), nhưng nói chung, triều đình nhà Nguyễn cũng như các nho sĩ,