CHỊ LÀ TẤT CẢ CHÚNG TA

Có một người con gái tuổi 20 (kỳ 1):

Chi la cua tat ca chung ta

Hình ảnh cuốn nhật ký tại Viện lưu trữ Lubbock, Texas (Mỹ)

Đây là một câu chuyện kỳ lạ. Rất kỳ lạ khi những ghi chép riêng tư của một cô gái Việt cộng lại được những người bên kia chiến tuyến gìn giữ như một kỷ vật thiêng liêng.

“Thùy Trâm không định viết cho cả thế giới này đọc, nhưng có lẽ chính vì thế mà niềm tin sâu thẳm nơi chị được viết ra một cách chân phương, rõ ràng và tôi đã thấy chị có đủ dũng cảm để theo đuổi niềm tin ấy trong trận thử thách cuối cùng...”. Trong lá thư gửi cho người mẹ của người đã mất họ viết vậy, ngày 28-5-2005.

35 năm đã trôi qua, nhưng có một người con gái như thế vừa bất ngờ trở lại...

Sáng 25-4-2005, tôi nhận được một cú điện thoại bất ngờ. Đó là điện thoại gọi đến từ văn phòng Quaker (1) Hà Nội. Người của văn phòng báo tin hiện có một người Mỹ đang giữ cuốn nhật ký của chị gái tôi - liệt sĩ Đặng Thùy Trâm. Chị Thùy của chúng tôi.

Chi la cua tat ca chung ta

Chị tôi hi sinh năm 1970 tại chiến trường Quảng Ngãi. Cống hiến của chị tôi ghi trong hồ sơ đề nghị truy tặng Huy chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhì rất đơn sơ: bác sĩ, hi sinh tại chiến trường. Thời gian công tác: năm năm, ba tháng, năm ngày...

Nước mắt của người cựu chiến binh

Trung tuần tháng 3-2005, một cuộc hội thảo thường niên về chiến tranh VN được tổ chức tại Trung tâm Việt Nam - Đại học Texas, Mỹ. Rất nhiều người đến dự. Tại hội thảo, người ta thảo luận về chiến tranh VN ở nhiều khía cạnh khác nhau. Frederic Whitehurst (2) và Robert Whitehurst (3) đã đến với bài nói về nhật ký của một nữ bác sĩ Việt cộng mà Frederic nhận được khi tham gia chiến tranh ở VN...

Ted Engelmann (4) là một trong những người có mặt ở hội thảo. Ba ngày sau khi hội thảo kết thúc, Ted sang VN. Ở Hà Nội, anh đã nhờ một người bạn làm ở văn phòng Quaker Hà Nội tìm giúp gia đình bác sĩ Đặng Ngọc Khuê. Những nhân viên ở đây rất nhiệt tình, lần theo manh mối ít ỏi có trong cuốn nhật ký, họ đã tìm sang tận Đông Anh, nơi bố tôi làm việc từ gần 50 năm trước. Nhưng ở đó, người duy nhất làm việc cùng thời với bố tôi cũng đã nghỉ hưu từ năm 2000.

Bệnh viện Đông Anh cử người về tận quê ông để hỏi địa chỉ gia đình tôi. Ông lại chỉ sang Trường đại học Dược Hà Nội, nơi mẹ tôi công tác trước khi về nghỉ hưu từ 20 năm trước. Cứ như thế, bao trái tim nhân hậu đã chuyển tiếp cho nhau tín hiệu để cuối cùng giúp Ted tìm được gia đình tôi và trao lại chiếc đĩa CD chứa đựng tâm huyết của người viết nhật ký 35 năm về trước.

Những ngày sau đó tôi nhận được rất nhiều thư của hai anh em Frederic Whitehurst và Robert Whitehurst. Họ kể về những năm tháng ở VN và hành trình bao năm qua họ đã tìm kiếm gia đình tôi như thế nào. Có những lúc họ tưởng như tuyệt vọng không thể nào tìm được gia đình tôi, đã sợ rằng khi họ chết đi, hai cuốn nhật ký của chị tôi sẽ nằm trong đống giấy má bình thường không ai biết đến, bị quẳng đi, bị mục nát, bị quên lãng.

Họ nói với tôi rằng vì không còn hi vọng tìm được gia đình tôi, họ đã có ý định in hai cuốn nhật ký thành sách để cả thế giới được biết về một nữ bác sĩ cộng sản người Hà Nội đã sống và đã chết ra sao. Họ mong rằng từ cuốn sách đó sự nghiệp y tế của chị tôi sẽ còn được tiếp nối... Và trong nỗi tuyệt vọng như thế, họ đã trao tặng hai cuốn nhật ký cho Viện lưu trữ về VN Lubbock tại Trường đại học Tổng hợp Texas, để chúng có thể được gìn giữ và chăm chút hơn khả năng họ có thể làm được.


Dưới đây là bức thư đầu tiên của Fred gửi cho tôi:

“Thứ sáu 29-4-2005

Tôi là Frederic Whitehurst. Tôi đã giữ ký ức về chị cô, bác sĩ Đặng Thùy Trâm, 35 năm nay. Tôi đã giữ cuốn nhật ký của chị ấy suốt 35 năm. Ted Engelmann - người tôi chỉ mới vừa biết - nói với tôi rằng anh ấy đã đến nhà cô và hiện nay cô đã nhận được bản copy của hai cuốn nhật ký cùng những bức ảnh. Có bao nhiêu điều tôi phải nói với cô, với gia đình cô và đặc biệt là với mẹ cô.

Sau bao nhiêu năm tìm kiếm, điều này giống như một giấc mơ và việc tìm ra gia đình cô khiến tôi bật khóc. Một người mẹ phải được biết về những ngày tháng của con gái mình, một đất nước phải được biết về một người anh hùng như bác sĩ Đặng. Mọi việc dường như thật thích hợp, mẹ cô cần phải nhận được những dòng chữ của con gái mình đúng vào dịp kỷ niệm 30 năm giải phóng đất nước bà - 30-4-2005...”.

“Fred, đừng đốt cuốn sổ này, bản thân trong nó đã có lửa”

Chi la cua tat ca chung ta

Frederic Whitehurst là một sĩ quan quân báo Mỹ tham chiến ở chiến trường Đức Phổ, Quảng Ngãi từ năm 1969-1971. Trong chiến tranh, nhiệm vụ của Fred là thu thập các thông tin, tài liệu có giá trị quân sự để phân tích tình hình, truy tìm dấu tích quân giải phóng, định hướng tập kích hay càn quét. Nhiệm vụ đó khiến Fred có thể nhìn cận cảnh cuộc chiến tranh và chứng kiến tận mắt những mất mát khủng khiếp - cả đối với phía VN lẫn phía Mỹ.

Fred đã chứng kiến cảnh “cả một xóm nhỏ Nhơn Phước ở miền tây Đức Phổ bị bom giội tan hoang không còn một người sống” (thư ngày 4-6-2005). Fred đã nhìn thấy những em nhỏ ở Chu Lai bị thiêu cháy trong bom napalm. Fred đã chứng kiến viên trung úy chỉ huy trực tiếp của mình gần như mất trí vì không chịu nổi cảnh các nhân viên y tế Mỹ “đơn giản cứ nhặt bừa bất kỳ một cánh tay, cẳng chân nào đó lắp vào xác bạn mình cho vào quan tài gửi về Mỹ” (thư ngày 4-6-2005). Những cảnh chứng kiến đó đã ám ảnh Fred trong bao năm nay từ khi rời VN trở về.

Nhưng cũng từ những ngày khốc liệt đó, Fred đã nhìn thấy cuộc chiến tranh từ một ánh sáng hoàn toàn khác biệt.

Trong một trận tập kích vào một “căn cứ của Việt cộng”, sau khi tiếng súng đã im, đơn vị của Fred tiến vào và nhận thấy đây là một bệnh viện nhỏ. Có rất nhiều lán trại, nhiều phòng - rõ ràng là phòng bệnh, cả một phòng mổ dã chiến. Có vẻ mọi người trong bệnh viện đã vội vã đi khỏi ngay trước khi quân Mỹ ập tới và không kịp mang theo tài liệu.

Theo qui định của quân đội Mỹ, mọi tài liệu của địch thu được trên chiến trường phải chuyển lại cho bộ phận quân báo nghiên cứu. Hôm đó Fred thu nhặt được rất nhiều tài liệu. Cùng với thông dịch viên người Việt, Fred chọn lọc các tài liệu có giá trị quân sự, số còn lại họ vứt vào đống lửa để thiêu hủy. Fred đang đốt những tài liệu loại bỏ thì thượng sĩ Nguyễn Trung Hiếu - thông dịch viên của đơn vị - cầm một cuốn sổ nhỏ đến cạnh anh và nói: “Fred, đừng đốt cuốn sổ này. Bản thân trong nó đã có lửa rồi”. Fred chưa hiểu đó là cuốn sổ gì, nhưng vẻ xúc động của Hiếu và việc Hiếu có thể kính trọng cả đối phương tác động rất mạnh đến anh, Fred bỏ cuốn sổ vào túi.


Nhiều đêm sau đó Fred và Hiếu cùng nhau đọc cuốn sổ. Đó là nhật ký của một Việt cộng, chính là nữ bác sĩ đứng đầu cái bệnh viện nhỏ mà đơn vị Fred càn vào. Nét chữ nghiêng nghiêng đầy nữ tính. Anh càng tò mò hơn khi Hiếu cho biết nữ bác sĩ đó còn rất trẻ, mới 26 tuổi và từ Hà Nội vào Đức Phổ công tác chưa được hai năm.

Rồi như một định mệnh, mấy tháng sau Fred nhận được cuốn nhật ký thứ hai của nữ bác sĩ, cũng do Nguyễn Trung Hiếu đem về. Những dòng chữ rực lửa khiến Fred vô cùng xúc động - mặc dù anh chỉ được nghe qua lời dịch vội của Nguyễn Trung Hiếu và đó là những dòng chất chứa căm thù đối với quân Mỹ. Những dòng đầy yêu thương, hi vọng khiến anh vô cùng ngạc nhiên. Anh không hiểu nổi bắt nguồn từ đâu mà một người con gái có thể nhìn thấy cái đẹp của màu xanh giữa chiến trường mịt mù bom đạn, vì sao cô ấy có thể nghe nổi bản giao hưởng êm đềm khi quân Mỹ gần như luôn bám sát sau lưng.

Năm 1972, Fred được rời VN và trở về Mỹ. Trong hành lý của anh có những kỷ vật nặng trĩu của chiến tranh: hai cuốn nhật ký của nữ bác sĩ, hơn 50 tấm ảnh chụp những người dân Quảng Ngãi trong chiếc máy ảnh Canon bị bắn thủng lấy được trên xác một phóng viên Việt cộng, chiếc đục nhỏ rơi bên xác một người thợ mộc già bị giết hại. Cũng từ đó VN trở thành một nỗi ám ảnh trong anh.

Mẹ của Fred là một nhà giáo và là họa sĩ. Khi Fred cho mẹ xem cuốn nhật ký, bà đã bảo con trai hãy cẩn thận, bởi vì hai cuốn sổ này có thể thiêu cháy cuộc đời anh...

Cuốn nhật ký tìm về quê hương

Robert Whitehurst cũng là một cựu chiến binh ở chiến trường VN nhưng chưa từng có mặt ở chiến trường Nam Trung bộ. Hai năm hoạt động ở vùng đồng bằng sông Cửu Long khiến Rob đem lòng yêu mến miền đất này cùng những con người VN hiền hòa, giàu tình cảm.

VN đã trở thành một phần đời của Rob vì anh cưới một người con gái xứ Long Xuyên. Anh học tiếng Việt, thích ăn món ăn Việt, thích đem những cây cỏ VN về Mỹ để trồng, thậm chí có lần còn cố gửi về Mỹ một chiếc xuồng ba lá để vợ đỡ nhớ quê.

Rob được đọc cuốn nhật ký của bác sĩ Thùy Trâm sau khi từ Mỹ trở về năm 1972. Ngay từ đầu cuốn nhật ký đã khiến anh sửng sốt. Cùng với sự giúp đỡ của vợ, anh đọc đi đọc lại cuốn nhật ký, càng đọc anh càng bị lay động trước những gì diễn ra trong tâm hồn người con gái ở bên kia chiến tuyến.

Thư anh viết: “Tất cả những ai từng được chúng tôi cho xem cuốn nhật ký (đã được Rob dịch sang tiếng Anh - TT) đều xúc động trước những điều chị cô viết. Chúng tôi nghĩ chị không chỉ là một anh hùng của riêng ai, nghĩa là mặc dù những ký ức của chị rất quí giá đối với cô cũng như đối với chúng tôi, nhưng sự nghiệp của chị còn rất có ý nghĩa với tất cả mọi người. Những dòng chữ của chị có một sức kêu gọi tuyệt vời.

Mặc dù chị ở bên kia chiến tuyến trong cuộc chiến tranh giữa chúng ta, nhưng ngay từ đầu những năm 1970, Fred và tôi đã cảm thấy chị vô cùng đáng ngưỡng mộ, đáng tôn kính và là một người tốt. Hi vọng sau khi đọc những dòng chữ viết từ quá khứ ấy, cô sẽ đồng ý với chúng tôi... rằng theo một nghĩa nào đó chị là của riêng gia đình cô, nhưng theo một nghĩa rất quan trọng chị là của tất cả chúng ta” (thư ngày 29-4-2005).

Rồi Rob tìm được trên mạng Internet một nơi gọi là Trung tâm VN (Vietnam Center) ở Trường đại học Tổng hợp Texas và biết rằng tại đây người ta vẫn tổ chức hội thảo thường niên về chiến tranh VN. Có rất nhiều người tới dự hội thảo này: các học giả, các vị đại sứ, các viên tướng, các cựu chiến binh VN của cả hai phía miền Nam và miền Bắc.


Robert động viên Fred đến dự hội thảo và nói về cuốn nhật ký của nữ bác sĩ. Cuộc hội thảo diễn ra như tôi đã nói lúc đầu. Trong sự xúc động sâu sắc, Fred và Rob đưa cho nhiều người đĩa CD chứa bản sao cuốn nhật ký của chị tôi, mong rằng giống như trong câu chuyện cổ tích tốt đẹp nọ, cuốn nhật ký sẽ tìm được về với quê hương, về với gia đình người nữ bác sĩ mà họ ngưỡng mộ như một anh hùng.

Ngày mai bạn sẽ đọc một câu chuyện khác, trong một bối cảnh khác của gần 40 năm trước.

Bạn sẽ đọc, để hiểu vì sao những ghi chép riêng tư của một người con gái lại có thể tạo nên nỗi xúc động lớn lao đến thế nơi những người lính ở chiến tuyến bên kia...

ĐẶNG KIM TRÂM

BỆNH VIỆN TRONG RỪNG

 

Liệt sĩ - bác sĩ Đặng Thùy Trâm sinh ngày 26-11-1942, trong một gia đình trí thức. Bố là bác sĩ ngoại khoa Đặng Ngọc Khuê, mẹ là dược sĩ Doãn Ngọc Trâm - nguyên giảng viên Trường đại học Dược khoa Hà Nội. TS xin trân trọng giới thiệu một phần trong hai cuốn nhật ký ghi trong những ngày ở chiến trường của chị.

Tốt nghiệp Trường đại học Y khoa Hà Nội năm 1966, Thùy Trâm xung phong vào công tác ở chiến trường. Sau ba tháng hành quân, tháng 3-1967 chị vào đến Quảng Ngãi và được phân công về phụ trách Bệnh viện huyện Đức Phổ, một bệnh viện dân y nhưng chủ yếu điều trị cho các thương bệnh binh.

Trong phần ảnh tư liệu, được phép của những người có liên quan, chúng tôi có sử dụng những bức ảnh trong album gia đình, ảnh chụp ở Quảng Ngãi trong những năm 1969-1970 do Frederic Whitehurst cung cấp và một số bức ảnh do liệt sĩ Nguyễn Văn Giá, phóng viên Hãng Phim thời sự - tài liệu VN, chụp tháng 10-1969 ở thôn Nga Mân, xã Phổ Cường, huyện Đức Phổ, Quảng Ngãi trước khi anh hi sinh.

13.4.68

Một ngày mệt nhọc vô cùng. Ba cas thương nặng vào một lúc. Suốt một ngày đứng bên bàn mổ đầu óc căng thẳng vì những vết thương, vì tiếng khóc xé ruột xé lòng của chú Công (cha Đường) và vì những tin buồn dồn dập.

Đường đã bị bắt sống trên đường công tác. Cậu bé sôi nổi nhiệt tình ấy không hiểu có chịu nổi những đòn tra tấn của quân thù hay không. Thương Đường vô tận. Lá thư viết gửi Đường vậy là chưa đến nơi. Người cầm thư đã chết còn người nhận thư thì bị bắt!

Biết bao nhiêu bà mẹ như mẹ Đường sẽ còn đau khổ khóc than đến cạn dòng nước mắt. Ôi nếu mình ngã xuống, mẹ mình cũng sẽ như bà mẹ ấy thôi, cũng sẽ là một bà mẹ suốt đời hi sinh vì con để rồi mãi mãi đau xót vì con mình đã ngã xuống nơi chiến trường khói lửa. Mẹ ơi! Con biết nói sao khi lòng con thương mẹ trăm nghìn triệu mà cũng đành xa mẹ ra đi. Quân thù đang còn đó, bao nhiêu bà mẹ còn mất con, bao nhiêu người chồng mất vợ. Đau xót vô cùng.

20.5.68

Tiễn chân những bệnh nhân lên đường trở về đội ngũ chiến đấu, lẽ ra chỉ là niềm vui, vậy mà cả người đi lẫn người ở đều buồn thấm thía. Hơn một tháng nằm lại bệnh xá, những bệnh nhân ấy đã gắn bó với mình không phải chỉ là tình thương giữa người thầy thuốc với bệnh nhân mà trong tình cảm ấy có cả nỗi cảm thông sâu sắc giữa những người bạn. Hôm nay họ đi rồi, người ra đi còn nhớ chăng những đêm dài trò chuyện những đêm mình đi trực. Nhớ chăng những buổi cả cơ quan đi cõng gạo họ đã cùng mình xử trí một cas thương, họ làm như những nhân viên thực thụ, đêm đến trong ánh đèn dầu họ ngồi hí hoáy lau dụng cụ… những ngày ấy vui sao! Bao giờ gặp lại nhau và có còn được gặp nhau không hở những người bạn mến thương?


 

 

20.7.68

Những ngày bận rộn công tác dồn dập, thương nặng, người ít, mọi người trong bệnh xá đều hết sức vất vả. Riêng mình trách nhiệm càng nặng nề hơn bao giờ hết, mỗi ngày làm việc từ sáng tinh mơ cho đến đêm khuya. Khối lượng công việc quá lớn mà người không có nên một mình mình vừa phụ trách bệnh xá, vừa lo điều trị, vừa giảng dạy. Vô cùng vất vả và cũng còn nhiều khó khăn trong công việc, nhưng hơn bao giờ hết mình cảm thấy rằng mình đã đem hết tài năng sức lực của mình để cống hiến cho cách mạng. Đôi mắt người thương binh hôm nào đau nhức tưởng như bỏ hôm nay cũng đã sáng lại một phần. Cánh tay anh bộ đội sưng phù đe dọa chảy máu bây giờ cũng đã lành lặn. Những cánh tay xương gãy rời cũng đã liền lại… Đó chính là nhờ sức lực của mình và những người y tá đêm ngày lăn lộn trong công tác bên giường bệnh.

Và với những học sinh, mình cũng đã đem lại những điều quí giá trong lý luận về y học. Mình đến với lớp không phải chỉ vì tinh thần trách nhiệm mà bằng cả tình thương của một người chị đối với những đứa em đã chịu biết bao thiệt thòi đau khổ vì bọn bán nước nên không tìm đến với khoa học được. Thương biết mấy những Thuận, những Liên, những Luận, Xuân, Nghĩa mỗi người một hoàn cảnh nhưng đều rất giống nhau: rất ham học, rất cố gắng để đạt mức hiểu biết cao nhất.

“Tôi xin cám ơn thượng sĩ Nguyễn Trung Hiếu (người phiên dịch tiếng Anh cho đơn vị tình báo quân sự số 635 của quân đội Mỹ biên chế bên cạnh lữ đoàn bộ binh số11, sư đoàn bộ binh 23), người đã cứu cuốn nhật ký của chị tôi khỏi bị quẳng vào đống lửa bởi anh đã nhận ra trong cuốn sổ này đã chứa đựng lửa rồi để anh trao lại nó cho Fred như một lời ủy thác từ chị tôi. Anh Hiếu ơi, nay anh ở đâu? Nếu đọc được những dòng này xin anh hãy lên tiếng, cho chúng tôi được nhìn vào mắt anh, để nói với nhau rằng tiếng nói của tình yêu và khát vọng hòa bình có thể vượt qua mọi chiến tuyến để đến với những trái tim tốt lành”.

ĐẶNG KIM TRÂM

25.7.68

Một buổi ngồi bên giường bệnh của Lâm. Lâm bị một mảnh đạn cối cá nhân xuyên vào tủy sống, mảnh đạn ác nghiệt đã giết chết một nửa người Lâm - từ nửa ngực trở xuống. Lâm hoàn toàn bại liệt, lở loét và biết bao nhiêu đau đớn hành hạ Lâm.

Lâm năm nay hai tư tuổi, là một cán bộ y tế xuất sắc của Phổ Văn. Ban dân y huyện mới rút Lâm về bổ sung chưa được một tháng, trong lần đi công tác vừa qua địch càn đến, Lâm xuống công sự nhưng khi tay anh vừa mở nắp công sự thì bọn Mỹ đã đến sát sau lưng, một mảnh đạn nhỏ đã giết hại đời Lâm một cách đau đớn. Lâm chưa chết nhưng chỉ còn nằm để chờ chết. Đứt tủy sống trong điều kiện ở miền Bắc còn bó tay nữa là ở đây.

Lâm biết điều đó nên đau khổ vô cùng. Chiều nay ngồi bên Lâm, Lâm đưa lá thư của Hạnh (người vợ trẻ của Lâm) cho mình coi rồi nói khẽ với mình: “Chị ơi, các chị tận tình, gia đình tận tình nuôi em để làm gì? Trước sau em cũng chết, em có sống cũng chỉ làm khổ các chị và gia đình mà thôi”. Một giọt nước mắt lăn dài trên gò má gầy ốm của Lâm.

Thương Lâm vô cùng mà chẳng biết nói sao. Nếu đặt mình vào hoàn cảnh của Lâm chắc mình cũng nói như vậy mà thôi. Nhưng không lẽ không động viên Lâm… Ôi! Chiến tranh! Sao mà đáng căm thù đến vậy và đáng căm thù vô cùng là bọn quỉ hiếu chiến. Vì sao chúng lại thích đi tàn sát bắn giết những người dân hiền lành, giản dị như chúng ta? Vì sao chúng đang tâm giết chết những thanh niên còn đang tha thiết yêu đời, đang sống và chiến đấu với bao mơ ước như Lâm, như Lý, như Hùng và nghìn vạn người khác nữa?


…68

Một cas cancer dạ dày ở giai đoạn cuối. Với điều kiện thô sơ mình cũng đã mổ thăm dò nhưng rất tiếc rằng K đã sang giai đoạn di căn. Không thể làm gì hơn đành đóng ổ bụng lại và đau xót nhìn bệnh nhân đi dần đến cái chết. Chiều nay đứng bên giường bệnh anh, lòng mình đau như cắt. Anh nói với mình miệng cố cười mà những giọt nước mắt vẫn tràn trong đôi mắt của anh: “Tôi không oán trách gì đâu, biết chị và các đồng chí trong bệnh xá đã tận tình cứu chữa nhưng bệnh tôi không thể nào khỏi được. Thì đành vậy. Nếu tôi còn ở đây thì rồi sẽ ra đồi sim an nghỉ với các đồng chí. Nếu tôi về dưới đó thì cũng chỉ được nhìn ông bà già một lần nữa rồi cũng xuống đất thôi”.

Biết nói gì với anh đây, mình đứng im hổ thẹn và tủi cực vô cùng. Đành rằng dù ở đâu rồi cũng đành bó tay trước bệnh của anh nhưng còn có điều kiện để kéo dài thêm chút ít cuộc sống của anh. Còn ở đây mình như tên lính bại trận giơ hai tay để cho kẻ thù tước bỏ vũ khí.

9.1.69

Năm nay Bốn hai mốt tuổi. Hai mốt tuổi bảy lần bị thương trong chiến đấu. Người trung đội trưởng trinh sát trẻ tuổi ấy đã để lại trong mình những cảm nghĩ không bao giờ có thể quên.

Mình gặp Bốn lần đầu tiên khi Bốn vào nằm bệnh viện với một vết thương nhỏ nơi chân. Mấy hôm sau, chân chưa lành Bốn đã ra viện và hơn một tháng sau mình lại đón Bốn vào viện. Vết thương xuyên qua khớp vai mất nhiều máu nên Bốn xanh xao mệt lả, nhưng sau khi mổ xong, vừa mới tỉnh nụ cười tinh nghịch lại nở trên đôi môi nhợt nhạt của Bốn.

Vết thương đau đớn nhiều nhưng Bốn không rên la mà chỉ lo một điều: có còn chiến đấu được nữa hay không? Những lần đi thăm bệnh mình khẽ vuốt trên mái tóc người thương binh trẻ tuổi và nói khẽ với Bốn rằng: Em hãy yên tâm, chắc rằng em sẽ còn cầm súng chiến đấu một cách vững vàng. Và mới hôm nào đây gặp lại Bốn trên đường hành quân, vai mang khẩu AK, nhìn thấy mình từ xa nó mừng rỡ reo lên:

“Chào bác sĩ! Báo cáo bác sĩ, tay em bình thường rồi”, và nó khoa tay lên khoe với mình khớp vai đã hoạt động bình thường. Mình cười vui khi nhìn nước da khỏe mạnh hồng hào và nụ cười tinh nghịch của chàng bộ đội giải phóng quân ấy.

Hôm nay Bốn lại vào viện, da xanh mướt. Em nằm im lìm không rên la. Một chân đã bị mìn tiện cụt, máu thấm ướt hết áo quần. Bằng tinh thần trách nhiệm cộng với tình thương, mình đã cùng các đồng chí hết sức cứu chữa. Cắt cụt chân xong, Bốn cười và nói: “Bây giờ chắc sống 80% rồi đấy”. Riêng mình vẫn lo lắng vì Bốn mất máu quá nhiều. Mạch vẫn rất nhanh 140-150 nhưng cũng nhiều hi vọng.

Cuối cùng Bốn đã không vượt qua nổi. Máu ra nhiều quá nên em không còn đủ sức. Bốn ơi, máu em đã thấm đỏ trên mảnh đất quê hương, máu em đã chảy dài trên đường em đi chiến đấu. Tim em đã ngừng đập cho trái tim Tổ quốc muôn đời đập mãi. Bốn chết rồi, hai mắt nhắm nghiền như trong giấc ngủ. Ngồi bên Bốn vuốt nhẹ mái tóc em mà mình tưởng như em còn sống, nước mắt mình từng giọt rơi xuống tóc em. Không! Bốn không chết đâu, Bốn sẽ còn sống mãi trong lòng mình và những đồng đội đang cùng em trong cuộc chiến đấu sinh tử này.

ĐẶNG THUỲ TRÂM

 


NHỮNG NGÀY KHỐC LIỆT

28.4.69
Dù đã dự kiến trước nhưng khi tình huống xảy ra vẫn có những cái lận đận vất vả vô cùng. Sáng nay theo tinh thần cuộc họp ban lãnh đạo bệnh xá đêm qua, toàn bộ số thương binh nặng và đi lại khó khăn chuyển sang trường Đảng vì thấy địch có khả năng lùng sục vào bệnh xá.

Chưa đến 6 giờ mình giục anh em chuyển thương binh đi rồi cũng tay xách nách mang theo anh em. Khiêng lên khỏi dốc trường Đảng, mồ hôi ai nấy chảy dài trên mặt nhưng không thể chần chừ nghỉ cho ráo mồ hôi được, mình đành động viên anh em quay lại khiêng nốt ba ca thương còn lại ở sau.

Chưa đầy một giờ ba mươi phút sau, mấy loạt súng nổ gần bên tai, mình nghĩ thầm chắc địch đã đến trạm trực nên quay vào báo cho thương bệnh binh chuẩn bị tư thế. Chưa kịp làm gì thì anh em du kích dân tộc hốt hoảng chạy vào báo địch đã vào đến máng nước rồi và tất cả nhân dân hối hả chạy.

Tất cả lực lượng khiêng thương binh đều chưa về đây, nhìn lại còn năm cas phải khiêng mà chỉ có mình, Tám và mấy đứa học sinh đợt I đang chuẩn bị đi về. “Không thể bỏ thương binh được, phải cố gắng hết sức mình khiêng thương binh, các đồng chí ạ!”. Mình nói mà lòng thấy băn khoăn khi trước mặt mình chỉ là mấy đứa thiếu nhi gầy ốm, mảnh khảnh. Tình thế nguy nan, Tám và Quảng hớt hải chạy đến báo tin địch đã vào đến suối nước chỗ tắm rồi.

Mấy cas thương được chuyển đi, còn lại Kiệm - một thương binh cố định gãy xương đùi. Không biết làm sao mình gọi Lý - con bé học sinh - lại cùng khiêng. Kiệm lớn xác, nặng quá hai chị em không thể nào nhấc lên được. Ráng hết sức cũng chỉ lôi được Kiệm ra khỏi nhà được một khúc, mình đành bỏ đó đi gọi anh em đến chuyển giùm. May quá lại gặp Minh, Cơ - hai đứa vừa thở vừa báo tin địch đã bắn chết đồng chí Vận - thương binh. Mấy chị em khiêng Kiệm chạy xuống hố trốn tạm một nơi.

Một giờ sau mới tập trung đông đủ được số thương binh lại, chỉ thiếu một mình Vận, còn cán bộ thì vắng chín đồng chí.

Mệt, đói run chân nhưng mình và các đồng chí vẫn vô cùng bình tĩnh. Dù sao cũng đã trưởng thành rồi qua mấy năm ác liệt.

Bốn giờ đến địa điểm.

Hai năm tròn rồi đó, cũng vào tháng tư, cũng giữa mùa trăng mình về nhận công tác tại Đức Phổ giữa lúc bệnh xá đã tan tành sau một cuộc oanh tạc. Bây giờ lại tháng tư... nắng tháng tư ở miền Nam chói chang. Và nỗi căm thù cũng nóng bỏng như ánh nắng mùa hè đó. Chiều nay đứng trên một đỉnh núi cao nhìn về khu vực bệnh xá cũ thấy khói bốc lên nghi ngút mà mình rưng rưng nước mắt. Vậy là biết bao nhiêu mồ hôi công sức, bao nhiêu của cải tài sản nhân dân dành dụm nuôi thương binh từ đó đến nay đã cháy hết thành tro bụi!

4.6.69


Nhung ngay khoc liet

Du kích Đức Phổ thời kỳ khốc liệt nhất của cuộc chiến - Ảnh: Văn Giá

Vẫn là những ngày căng thẳng, địch đổ quân sát bên nhà. Chúng la hét, chặt cây ầm ĩ cả khu rừng. Bệnh xá im lìm căng thẳng đến tột bậc.

Đang công tác ở Phổ Cường, nghe báo tin mình lặng người lo lắng, chén cơm bưng trong tay không sao ăn tiếp được nữa. Chẳng lẽ cứ thế này mãi sao. Vừa xây dựng được mấy bữa lại lo chạy, bao giờ mới tiếp tục được nhiệm vụ... (không rõ chữ)? Lo buồn và uất ức lạ. Có cách nào chứ không lẽ bó tay chạy dài mãi sao?

5.6.69

Địch triển khai thêm, không thể ở đó được nữa, đêm nay đa số cán bộ và thương binh dẫn nhau chạy xuống Phổ Cường. Tối không trông rõ mặt người nhưng có lẽ ai cũng cảm thấy rất đầy đủ những nét đau buồn trên khuôn mặt từng cán bộ và thương binh. Mình lo đi liên hệ giải quyết công tác đến khuya mới về, thương binh đã đi ăn cơm xong, nằm ngổn ngang trên thềm nhà Đáng, một vài người đã ngủ, số còn lại khẽ rên vì vết thương đau nhức. Còn lại trên đó ba cas cố định chưa có người khiêng, một số cán bộ lãnh đạo còn trên đó, mình cần trở về. Trở về lúc này thật gay go, không hiểu địch nằm ở đâu. Nhưng biết làm sao, yêu cầu công tác đòi hỏi mình phải trở về, dù chết cũng phải đi.

Đêm rất khuya rồi, không ai chợp mắt. Thuận ngồi lặng thinh bên mình, em không nói một lời nào, mãi đến lúc chia tay em mới nói một câu ngắn: “Chị làm sao chứ em lo quá đi…” và mình thì không nói hết một câu: “Chị gửi balô cho em, trong đó có quyển sổ…”, muốn nói tiếp rằng nếu chị không về nữa thì em giữ quyển sổ đó và sau này gửi về gia đình. Nhưng mình không nói hết câu.

Trong ánh trăng mờ hai chị em đều đọc được trong đôi mắt người thân của mình một nỗi buồn ly biệt. Em đi rồi và mọi người khác cũng đã đi hết, còn một mình trên chiếc thềm vắng nhà chị Tính, không hiểu sao nước mắt bỗng tràn trên đôi má của mình. Khóc ư Thùy? Đừng chứ, hãy dũng cảm kiên cường trong mọi tình huống, hãy giữ mãi nụ cười trên môi dù trăm nghìn vạn khó khăn nguy hiểm đang đe dọa quanh Thùy.

29.7.69

“…Khi rời Hà Nội để dấn thân vào cuộc chiến, Tuỳ trâm chưa biết chiến tranh là thế nào. Hơn ba nam ở đức phổ, mhững điều chị viết trong nhật kí đã thay đổi, chị đã trưởn thành.

Những điều chị học được càng củng cố vững chắc thêm lòng quyết tâm đã được gia đình nuôi dưỡng từ nhỏ. Chị học được những điều mà tất cả chúng ta đều cần phải học…

Những bài học về danh dự, những bài học về lòng trắc ẩn, tinh thàn trách nhiệm, những bài học về sự tận tuỵ với lí tưởng, và những bài học mà chị đã nêu lên một tấm gương về tình yêu đối với mọi người, với cái đẹp và con người….

Cho đến lúc này tôi là người đã đọc đi đọc lại hai cuốn nhật kí ấy nhiều hơn ai hết. Trước đây tôi đã nói với bà và bây giờ tôi xin nói lại: tôi không hề thấy trong đó có bất cứ điều gì khiến bà hay một ai khác phải khó xử.

Những lời bày tỏ về tình yêu của chị cũng như những lời gọi tha thiết hướng về gia đình khiến bất cứ ai từng được đọc qua đều phải xúc động. Con số các trận đánh và sự chăm sóc của chị đối với các thương binh làm chúng ta trở nên xoàng xĩnh…”


Chiến tranh thật tàn khốc hết mức. Sáng nay người ta đem đến cho mình một thương binh toàn thân bị lân tinh đốt cháy. Đến với mình sau cả giờ đồng hồ kể từ lúc bị nạn mà khói vẫn còn nghi ngút cháy trên người nạn nhân. Đó là một cậu bé 20 tuổi, đứa con trai duy nhất của một chị cán bộ xã mình ở.

Một tai nạn rủi ro làm quả pháo lân tinh nổ khiến cậu bị bỏng nặng. Không ai còn nhận ra cậu bé xinh trai mọi ngày nữa. Đôi mắt đen vui cười hôm nay chỉ còn là hai hốc nhỏ, mi mắt đã chín vàng, khói lân tinh vẫn còn bốc lên khét lẹt. Trông cậu ta giống như đem thui vàng trong lò ra. Mình đứng lặng người trước cảnh đau lòng đó.

Mẹ cậu khóc mếu máo, hai bàn tay run rẩy sờ khắp người con, từng mảng da bong ra, cong lên như miếng bánh tráng. Em gái và chị gái cậu vừa săn sóc cậu mà nước mắt ròng ròng chảy, còn một người con gái thì sững sờ ngồi cạnh cậu, đôi mắt dịu hiền đờ đẫn lo âu, từng lọn tóc đen bết mồ hôi dính trên đôi má đỏ bừng vì xúc động và vì mệt.

Từ (tên cô gái đó) là người yêu của Khánh (tên cậu bé đó). Cô vừa khiêng Khánh xuống đây. Nghe nói cần có serum truyền, Từ đã lội sông đi mua ngay. Nước sông đang lên, không biết bơi nhưng Từ vẫn băng qua sông, tình yêu đã giúp Từ sức mạnh. Bây giờ Từ ngồi đó cạnh Khánh lặng yên, nhẫn nại.

Vẻ đau khổ hằn lên trên vầng trán ngây thơ của cô gái xinh đẹp - nhìn cô mình muốn viết một bài thơ về tội ác của chiến tranh, tội ác đã bóp chết triệu tình yêu trong sáng, bóp chết triệu hạnh phúc của con người nhưng mình không viết được. Ngòi bút của mình không sao viết hết dù đây là một trường hợp mà mình đã thấy bằng tất cả giác quan và tình cảm của mình.

30.7.69

Mười hai giờ khuya, anh Kỷ từ cánh Nam ra báo cho mình một tin đau xót: địch đã tập kích vào bệnh xá một cách hết sức bất ngờ. Liên đã bị chúng bắn chết trong lúc dẫn thương binh chạy. Anh em thương binh không hiểu ai còn ai mất…

Trong ba tháng trời, bốn lần bệnh xá bị đánh phá. Lòng mình cháy bỏng lo âu. Liên ơi, hôm nào tạm biệt Thùy (Trâm), Liên còn hôn Thùy và dặn đi dặn lại rằng Thùy phải cảnh giác, nhưng hôm nay người ngã xuống trước lại là Liên, cô gái xinh xắn và xuất sắc trong công tác, cô gái cưng của bệnh xá không còn nữa. Liên ơi, còn sống ngày nào Thùy thề sẽ trả thù cho Liên, cho Lý và cho cả triệu người đã ngã xuống trong cuộc chiến đấu sinh tử này.

29.3.70

Lần đầu tiên đào huyệt chôn một người đồng đội, những nhát cuốc của mình bổ xuống đá làm tóe lửa như nỗi căm thù đang bốc cháy trong lòng mình. Hôm qua trong lúc đi cảnh giới về gặp địch, Thành đã bị chúng bắn chết ngã ngay tại suối trước ngõ vào nhà mình, và anh Xuất bị chúng bắn bị thương rồi hạ tàu bay chở đi. Chiếc quần của anh chúng rọc nát còn vứt lại một bên... Chưa đầy ba tháng cơ quan mất ba người!

Huyệt đào chưa xong mọi người đã khiêng Thành về. Qua một ngày rồi mà máu vẫn còn chảy ướt đỏ tấm drap quấn quanh Thành. Mình nhìn không rõ mặt Thành lắm, chỉ thấy đôi mắt đã nhắm và nước da nhợt nhạt. Lúc sống Thành có nhiều nhược điểm làm mình không ưa, nhưng bây giờ khi khỏa đất lấp lên thân hình người đồng đội ấy mình không cầm được nước mắt. Vậy đó, hãy ráng mà đùm bọc thương yêu nhau khi còn sống, chứ khi đã chết rồi có khóc thương cũng chỉ là những giọt nước mắt nhỏ trên nấm đất vô tri vô giác mà thôi.

Nhật ký ĐẶNG THÙY TRÂM


CUỘC SỐNG Ở BÊN CÁI CHẾT

4.8.68
Vẫn là những ngày công tác dồn dập, khó khăn vẫn đến từng giờ từng ngày, vậy mà sao lòng mình lại thấy ấm áp niềm tin. Phải chăng nụ cười trên đôi môi còn thoáng nét đau buồn của người học sinh trẻ ấy làm mình dịu đi mọi suy nghĩ về riêng tư?

Phải chăng vì tiếng hát lạc giọng vẫn vang lên khi lòng người trai ấy vẫn đang rớm máu vì hai cái tang đè nặng trên ngực, đã là một lời nhắc nhở mình hãy học tập tinh thần lạc quan kỳ diệu đó. Vâng, tôi xin học tập và học tập không ngừng để giữ vững niềm tin cách mạng mà các đồng chí đã dạy tôi bằng cuộc sống chiến đấu kiên cường của các đồng chí.

Và mình đã vui, lời ca lại cất lên sau những giờ lao động mệt nhọc.

Lòng sung sướng biết bao khi thấy rằng có rất nhiều đôi mắt nhìn mình cảm thông thương yêu mến phục. Đó là đôi mắt của những học sinh mong đợi mình lên lớp. Đó là đôi mắt của các bệnh nhân mong mình đến bệnh phòng... Vậy là đủ rồi Thùy ạ, đừng đòi hỏi cao hơn nữa. Cả Đức Phổ này đã dành cho mình một tình thương yêu trìu mến. Đó là một ưu tiên rất lớn rồi.

Chị Hai về mang tin buồn: anh Dũng đã chết vì bị Mỹ bắt sống và giết tại chỗ.

Đau xót biết chừng nào!

Không lẽ quyển sổ nhỏ này cứ ghi tiếp mãi những trang đầy máu hay sao. Nhưng Thùy ơi! Hãy ghi đi, ghi cho đầy đủ tất cả những máu xương, mồ hôi nước mắt của đồng bào ta đã đổ 20 năm nay. Và ở những ngày cuối của cuộc đấu tranh sinh tử này, mỗi sự hi sinh càng đáng ghi đáng nhớ nhiều hơn nữa. Vì sao ư? Vì đã bao nhiêu năm rồi ta chiến đấu hi sinh và niềm hi vọng đã như một ngọn đèn rực sáng trước mắt, ở cuối đoạn đường, hôm nay gần đến đích thì ta ngã xuống...

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


14.8.68

Thư Frederic Whitehurst gửi Đặng Kim Trâm

Ngày 3-6-2004

Kim

Hôm nay tôi đọc thư cô viết về những bức ảnh đó (ảnh những người ở Đức Phổ đã được phóng viên ảnh Văn Giá chụp năm 1970, nay còn sống ở địa phương - K.T.) và tôi lại có cái cảm giác cũ.

Tôi đau đớn thật sự, tôi không thể nào cầm được nước mắt. Thật là kỳ lạ vì những người đó vẫn muốn gặp tôi. Lạ quá. Chúng tôi cần phải nói chuyện với nhau cả về chiến tranh, nếu không sẽ là có tội. Chúng ta cần phải biết về những trận đánh, những khái niệm và những cảm giác.

Khi những người bình thường nghe theo chính phủ (Mỹ) đi đánh nhau với những con người bình thường khác thì đó là vì họ không có đủ thông tin, không có đủ khái niệm. Khi những người lính Mỹ đi tới một đất nước xa xôi như thế để đánh nhau với người Việt Nam, không một ai trong họ biết về đối thủ của mình và rồi sẽ có bao nhiêu người chết .

Nhưng các bạn không bao giờ phải đặt câu hỏi trong đầu bởi vì các bạn chiến đấu để bảo vệ, chiến đấu vì tự do.

Còn chúng tôi đánh nhau để làm gì? Những gì người Mỹ xa nhà có thể lấy được từ VN có đáng phải làm cho máu đổ nhiều đến thế không?

Tôi biết Việt Nam đẹp lắm. Tôi biết Đức Phổ là nơi giống với thiên đường nhất trên trái đất này. Nhưng các tướng lĩnh không đánh nhau vì một nơi giống với thiên đường. Họ đánh nhau vì dầu mỏ, vì những tài nguyên thiên nhiên, vì đất đai, vì những thứ mà chúng ta chẳng bao giờ cần đến cả.

Người ta bảo chúng tôi rằng nếu chúng tôi thua trong cuộc chiến tranh này thì cả thế giới sẽ thay đổi khủng khiếp. Vâng, chúng tôi đã thua cuộc chiến tranh vậy mà thế giới chẳng có gì thay đổi. Chúng tôi học được gì từ điều đó?

Buổi chiều hôm ấy 26-1-1967 mình rời Phổ Hiệp ra đi. Sân nhà Thường đông nghịt những người đến tiễn đưa mình. Xúc động làm mình lúng túng, chẳng biết làm gì, mình ngồi xuống cạnh mẹ Thường bốc củ bỏ vào thúng. Lúc ngẩng lên mình bỗng sửng sốt vì một đôi mắt đăm đăm nhìn mình, đôi mắt đen to rất hiền, long lanh nước mắt. Đôi mắt nhìn mình buồn vô hạn và tràn ngập một tình thương yêu thiết tha. Đó là đôi mắt của Khiêm.

 

Mình quen Khiêm trong những ngày ác liệt của mùa khô 1967 khi mình về công tác tại Phổ Khánh. Người giáo viên trẻ ấy đã đến với mình bằng cả tình thương mến và cảm phục rất chân thành. Tâm hồn những đứa đã qua thời học sinh có những nét dễ cảm thông nhau. Những ngày nằm dưới công sự mình kể cho Khiêm nghe về Pavel và Ruồi Trâu, về những bài thơ mình yêu thích.

Anh viết tên em thành liệt sĩ
Bên những hàng bia trắng giữa đồng
Nhớ nhau anh gọi: em, đồng chí
Một tấm lòng trong vạn tấm lòng.

Khiêm cũng rất thích bài Núi Đôi, Quê hương.

nguon VI OLET