Thể loại Giáo án bài giảng Khác (Giáo dục Hướng nghiệp)
Số trang 1
Ngày tạo 12/20/2019 4:17:35 PM +00:00
Loại tệp doc
Kích thước 0.18 M
Tên tệp module thcs 5 doc
Module THCS 5: Nâng cao năng lực hiểu biết và xây dựng môi trường giáo dục của giáo viên.
II. Lí do lựa chọn module
Học sinh THCS là độ tuổi phát triển mạnh về thể chất, khí chất, tâm lý, sinh lí. Đây là giai đoạn mà các em mở rộng việc giao tiếp với môi trường bên ngoài. Tuy nhiên, do chưa đủ nền tảng về trí tuệ, kinh nghiệm nên có thể các em sẽ rất tốt nếu được định hướng đúng và cũng rất dễ mắc sai lầm nếu định hướng không đúng.
Xã hội hiện nay đang bùng nổ sự phát triển cả về kinh tế, văn hóa, xã hội. Đặc biệt, với các ứng dụng mạng xã hội như Facebook, Zalo, Instagram… (dùng phổ biến ở Việt Nam) thì việc giao lưu, trao đổi thông tin, tìm kiếm các cơ hội ngày càng dễ dàng. Đây là điều kiện để có thể góp phần nâng cao dân trí. Tuy nhiên, do nguồn thông tin trên mạng xã hội quá đa dạng, chưa được kiểm soát tốt. Do đó, ngoài những thông tin giúp học sinh có thể mở rộng tầm hiểu biết và các mối quan hệ cần thiết thì cũng có không ít những thông tin trái chiều, sai lệch khiến học sinh định hướng không đúng, dẫn tới các suy nghĩ và hành vi không tốt.
Trong việc học tập và rèn luyện ở trường và ở nhà, áp lực đối với học sinh ngày càng lớn do các môn học không giảm mà các hoạt động giáo dục ngày càng tăng. Mặt khác, riêng với trường Trung học cơ sở xã Tân Tri thì sự khác biệt lớn về địa lý và phong tục của dân tộc, dẫn tới việc giao tiếp, khả năng tham gia của học sinh vào các hoạt động học tập và giáo dục là không giống nhau. Đây là một trở ngại tương đối lớn trong việc xây dựng môi trường giáo dục hiệu quả.
Xuất phát từ lý do trên, tôi thực hiện tìm hiểu và vận dụng module THCS 5: Nâng cao năng lực hiểu biết và xây dựng môi trường giáo dục của giáo viên trong học kỳ I năm học 2019 - 2020.
III. Nội dung module
1. Một số khái niệm liên quan
1.1. Giai đoạn lứa tuổi học sinh trung học cơ sở
1.1.1. Khái niệm học sinh Trung học cơ sở
Lứa tuổi HS THCS bao gồm những em có độ tuổi từ 11, 12 tuổi đến 14, 15 tuổi. Đó là những em đang theo học từ lớp 6 đến lớp 9 ở trường THCS. Lứa tuổi này còn gọi là lứa tuổi thiếu niên và nó có một vị trí đặc biệt trong thời kì phát triển của trẻ em. Vị trí đặc biệt này đuợc phản ánh bằng những tên gọi khác nhau: “thời kì quá độ”, “tuổi khó bảo”, “tuổi khủng hoảng”, “tuổi bất trị” .. Những tên gọi đó nói lên tính phức tạp và tầm quan trọng của lứa tuổi này trong quá trình phát triển của trẻ em.
Đây là thời kì chuyển từ thời thơ ấu sang tuổi trưởng thành.
1.1.2. Đặc đểm tâm lí lứa tuổi học sinh Trung học cơ sở
Nội dung cơ bản của sự khác biệt ở lứa tuổi HS THCS với các em ở lứa tuổi khác là sự phát triển mạnh mẽ, thiếu cân đối về các mặt trí tuệ, đạo đức. Việc xuất hiện những yếu tố mới của sự trưởng thành do kết quả sự biến đổi của cơ thể, của sự tự ý thức, của các kiểu quan hệ với người lớn, với bạn bè, của hoạt động học tập, hoạt động xã hội...
1
Yếu tố đầu tiên của sự phát triển nhân cách ở lứa tuổi HS THCS là tính tích cực xã hội mạnh mẽ của bản thân các em nhằm lĩnh hội những giá trị, những chuẩn mực nhất định, nhằm xây dựng những quan hệ thỏa đáng với người lớn, bạn bè và cuối cùng nhằm vào bản thân, thiết kế nhân cách của mình, thiết kế tương lai của mình với mục đích thực hiện những ý định, nhiệm vụ... một cách độc lập.
Tuy nhiên quá trình hình thành cái mới thường kéo dài về thời gian và phụ thuộc vào điều kiện sống, hoạt động của các em. Do đó, sự phát triển tâm lí ở lứa tuổi này diễn ra không đồng đều về mọi mặt. Điều đó quyết định sự tồn tại song song “vừa tính trẻ con, vừa tính người lớn” ở lứa tuổi này. Mặt khác, ở những em cùng độ tuổi lại có sự khác biệt về mức độ phát triển các khía cạnh khác nhau của tính người lớn. Sự khác nhau đó do hoàn cảnh sống, do những hoạt động khác nhau của các em.
1.1.3. Môi trường học tập
Một số nghiên cứu về môi trường học tập:
Nhiều nhà tâm lí học Mỹ với các công trình nghiên cứu đã chỉ ra những ảnh hưởng rất quan trọng của môi trường đến sự hình thành nhân cách cá nhân. Các nhà tâm lí giáo dục học đều thừa nhận vai trò quan trọng của giáo dục và đã đề cập đến vấn đề nghiên cứu, xây dựng môi trường với mục đích có ảnh hưởng tốt đến dạy học và giáo dục nhân cách thế hệ trẻ.
V. Paplov nghiên cứu sự hình thành phản xạ có điều kiện trong môi trường được kiểm soát chặt chẽ, con vật (con chó) hoàn toàn thụ động. B.F.skinnơ nghiên cứu sự hình thành phản xạ tạo tác động môi trường gần với thực tế hơn…Hai tác giả Denomme và Madeleine Roy đã dựng nên mô hình sư phạm tương tác. Trong mô hình đó, người dạy - người học - tri thức được chuyển thành người dạy - người học - môi trường.
Môi trường học tập là các yếu tố có tác động đến quá trình học tập của HS bao gồm:
Môi trường vật chất: Là không gian diễn ra quá trình dạy học gồm có đồ dùng dạy học như bảng, bàn ghế, sách vở, nhiệt độ ánh sáng, âm thanh, không khí...
Môi trường tinh thần: Là mối quan hệ giữa GV với HS, HS với HS, giữa nhà trường- gia đình - xã hội... Các yếu tố tâm lí như động cơ, nhu cầu, hứng thú, tính tích cực học tập của HS và phong cách, phương pháp giảng dạy của GV trong môi trường nhóm, lớp.
Môi trường học tập rất đa dạng, cần được tạo ra ở nhà trường, gia đình, xã hội. Môi trường sư phạm là tập hợp những con người, phương tiện đảm bảo cho việc học tập đạt kết quả tốt. Môi trường sư phạm là nội dung cơ bản của môi trường nhà trường.
Môi trường học tập theo truyền thống: Nhà trường là môi trường đơn độc, tĩnh lặng và trật tự. Bầu không khí này là kết quả của áp lực theo định nghĩa hẹp của nền giáo dục chính quy.
1
Trường học đổi mới có cơ cấu tổ chức hoàn toàn trái ngược với phong cách truyền thống. Chúng thường được mở rộng hơn, ồn ào hơn và đôi khi như những trung tâm với các hoạt động. Các trường học như thế thường là kết quả của cả hai sự thay đổi: Định nghĩa trường học và cách hiểu mới về điều kiện môi trường để củng cố việc học.
Có ba tiêu chuẩn để đánh giá môi trường học tập của nhà trường: Mối liên hệ giữa nhà trường với cộng đồng xung quanh, cấu trúc và cách sử dựng các tòa nhà và sân bãi, cách tổ chức không gian học lập trong tòa nhà.
Nhà trường mong muốn mở rộng các phản hồi của HS về quá trình học tập thường khuyến khích sự tham gia của cộng đồng vào các hoạt động của nhà trường. Không gian hấp dẫn vui vẻ, đầy màu sắc, sân trường được sử dựng rộng rãi trong nhiều hoạt động...
Cuộc cách mạng trong xây dựng trường học: Một tòa nhà sinh động, năng nổ thể hiện một trung tâm học tập chủ động, sáng tạo.
Không gian lớp học: Cách truyền thống là sắp xếp phòng học sao cho tất cả mọi cái nhìn và sự chú ý tập trung vào người thầy, các hoạt động trùng khớp với cách sắp xếp đồ đạc.
Toàn bộ hệ thống môi trường học tập, môi trường dạy học, môi trường giáo dục trong trường phải được tiếp cận hệ thống, đó là các quan hệ thầy - trò, quan hệ trò - trò, quan hệ nhóm lớp của HS, quan hệ của HS với nhà quản lí, mà bản chất của các mối quan hệ là dựa trên quan hệ pháp luật, nhân văn, đạo đức, cộng đồng hợp tác.
Như vậy, môi trường học tập là toàn bộ các yếu tố vật chất, không gian và thời gian, tình cảm và tinh thần - nơi HS đang sinh sống, lao động và học tập, có ảnh hưởng trực tiếp, gián tiếp đến sự hình thành nhân cách của HS phù hợp với mục đích giáo dục.
2. Nội dung module
2.1. Phân loại môi trường học tập theo địa bàn
2.1.1.Môi trường học tập ở trường
Giáo dục nhà trường là hoạt động giáo dục trong các trường lớp thuộc hệ thống giáo dục quốc dân theo mục đích, nội dung, phương pháp có chọn lọc trên cơ sở khoa học và thực tiễn nhất định. Giáo dục nhà trường được tiến hành có tổ chức, luôn luôn tác động trực tiếp, có hệ thống đến sự hình thành và phát triển toàn diện của nhân cách. Thông qua giáo dục nhà trường, mỗi cá nhân được bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, kiến thức khoa học, kĩ năng thực hành cần thiết, tương ứng với yêu cầu của các bậc học, cấp học phù hợp với trình độ phát triển của xã hội trong từng giai đoạn.
So với gia đình, nhà trường là một môi trường giáo dục rộng lớn hơn, phong phú, hấp dẫn hơn đối với thế hệ trẻ. Trong nhà trường, trẻ được giao lưu với bạn bè cùng lứa tuổi ở địa phương, cộng đồng, được tham gia vào nhiều hoạt động mang tính xã hội, giúp cho quá trình xã hội hóa cá nhân phong phú, toàn diện hơn.
1
Nhà trường là một thiết chế xã hội chuyên biệt thực hiện chức năng cơ bản là tái sản xuất sức lao động, phát triển nhân cách theo hướng duy trì, phát triển xã hội. Nhà trường có chức năng hình thành và phát triển nhân cách thế hệ trẻ thông qua hoạt động dạy học, giáo dục. Tri thức trong nhà trường là những kinh nghiệm của nhân loại đã được chọn lọc và tích lũy. Nhà trường là tổ chức chuyên biệt có chức năng truyền thụ toàn bộ kinh nghiệm lịch sử của nhân loại cho thế hệ trẻ phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi nhằm hình thành và phát triển mô hình nhân cách lí tưởng của xã hội đặt ra.
Giáo dục nhà trường có sự thống nhất về mục đích, mục tiêu cụ thể, được thực hiện bởi đội ngũ các nhà sư phạm được đào tạo và bồi dưỡng chu đáo, tiến hành giáo dục theo một chương trình, nội dung, phương pháp sư phạm nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nhân cách toàn diện, hướng tới sự thành đạt của con người.
Ngày nay, giáo dục nhà trường luôn gắn liền với môi trường sống và môi trường tự nhiên, với các cơ sở sản xuất nhằm phát huy nội lực, lôi cuốn sự tham gia của các lực lượng xã hội vào giáo dục học đường, mặt khác giúp cho nội dung giáo dục gắn với đời sống sản xuất xã hội. Nhà trường có chức năng chuyển giao văn hóa giúp cho mỗi HS hòa nhập với cộng đồng và trở thành tác nhân chuyển giao nền văn hoá cho thế hệ sau, nhằm duy trì bản sắc văn hóa của dân tộc. Ngày nay, mỗi cá nhân không chỉ tiếp thu tri thức từ nhà trường mà còn tiếp nhận thông tin qua các kênh như sách, báo, mạng internet...
Giáo dục nhà trường phải kết hợp chặt chẽ với giáo dục gia đình và xã hội thì mới đạt được mục tiêu chung về giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ. Điều quan trọng nhất là phải có sự thống nhất về định hướng giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội.
Hoạt động học tập và các hoạt động khác của HS THCS có nhiều sự thay đổi, có tác động quan trọng đến việc hình thành những đặc điểm tâm lí lứa tuổi HS THCS, như:
Bắt đầu thay đổi về nội dung dạy học:
Băt đầu vào học trường THCS, các em được tiếp xúc với nhiều môn học khác nhau, mỗi môn học bao gồm một hệ thống tri thức với những khái niệm trừu tượng, khái quát, có nội dung sâu sắc, phong phú, do đó đòi hỏi thay đổi cách học. Các em không thể học thuộc từng bài, mà phải biết cách lập dàn bài, làm tóm tắt, nắm bắt các ý chính, dựa vào các ý chính mà trình bày toàn bộ bài học theo cách hiểu của mình.
Sự phong phú về tri thức từng môn học làm cho khối lượng tri thức các em lĩnh hội được tăng lên nhiều. Tầm hiểu biết của các em được mở rộng.
Sự thay đổi về phương pháp dạy học và hình thức học tập:
Các em được học nhiều môn, nhiều thầy cô giảng dạy. Mỗi môn học có phương pháp phù hợp với bộ môn đó, mỗi thầy dạy có cách trình bày, có phương pháp độc đáo của mình, sử dựng các hình thức dạy học khác nhau. Sự khác nhau này đã ảnh hưởng đến việc lĩnh hội, đến sự phát triển trí tuệ và nhân cách của các em. Thái độ say sưa, hứng thú học tập, việc hình thành và phát triển cách lập luận độc đáo cùng những nét tính cách quý báu của các em đều do ảnh hưởng của cách giảng dạy và nhân cách của người thầy.
1
Hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo của lứa tuổi HS, nhưng đến HS THCS, hoạt động học tập được xây dựng lại một cách cơ bản so với lứa tuổi HS tiểu học.
Các công trình nghiên cứu của các nhà tâm lí học đã chỉ ra rằng, ở thời kì đầu của lứa tuổi HS THCS, các em chưa có kĩ năng cơ bản để tổ chức việc tự học (các em chỉ tự học khi có bài tập, nhiệm vụ được giao) sau khi chuyển sang mức độ cao hơn (độc lập, nắm vững tài liệu mới, những tri thức mới). Đây cũng là lứa tuổi bắt đầu hình thành mức độ hoạt động học tập cao nhất. Đối với các em, ý nghĩa của hoạt động học tập dần dần được xem như là hoạt động độc lập hướng vào sự thoả mãn nhu cầu nhận thức. Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy động cơ học tập của HS THCS có một cấu trức phức tạp, trong đó các động cơ xã hội khác nhau được kết hợp thành một khối (học tập để phục vụ xã hội, để lao động tốt...).
Sở dĩ có tình trạng trên là do các nguyên nhân sau: Do phản ứng của lứa tuổi này đối với thất bại trong học tập; do xung đột với GV. Các em thường hay xức động mạnh khi thất bại trong học tập, nhưng lòng tự trọng khiến các em che giấu, thờ ơ, lãnh đạm đối với thành tích học tập. Nhiều lức chúng ta thấy các em thường nhắc bài cho nhau. Việc làm này của các em có nhiều động cơ khác nhau. Nhưng các nhà tâm lí học đã xác nhận rằng, đó là động cơ thuộc về mặt nhận thức, đạo đức của các em. Các em nhắc bài cho bạn là muốn giúp bạn. Bởi vì các em quan niệm giúp bạn là giúp bằng mọi phương tiện, có em nhắc bài cho bạn để tỏ rõ sự hiểu biết của mình, muốn khoe khoang sự chăm chỉ học bài của mình.
Thái độ đối với học tập của HS THCS cũng rất khác nhau. Tất cả các em đều ý thức được tầm quan trọng và sự cần thiết của học tập, nhưng thái độ biểu hiện rất khác nhau. Sự khác nhau đó được thể hiện như sau:
Trong thái độ học tập: Từ thái độ rất tích cực, có trách nhiệm đến thái độ lười biếng, thờ ơ, thiếu trách nhiệm.
Trong sự hiểu biết chung: Từ mức độ phát triển cao và sự ham hiểu biết nhiều lĩnh vực tri thức khác nhau ở một số em, đến mức độ phát triển rất yếu, tầm hiểu biết hạn chế ở một số em khác.
Trong phương thức lĩnh hội tài liệu học tập: Từ chỗ có kĩ năng học tập độc lập, có nhiều cách học đến mức hoàn toàn chưa có kĩ năng học tập độc lập, chỉ biết học thuộc lòng từng bài, từng câu, từng chữ.
Trong hứng thú học tập: Từ hứng thú biểu hiện rõ rệt đối với một lĩnh vực tri thức nào đó và có những việc làm có nội dung cho đến mức độ hoàn toàn không có hứng thú nhận thức, việc học hoàn toàn gò ép, bắt buộc.
Nhiều công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng, để giúp các em có thái độ đúng đắn với việc học tập, thì:
Tài liệu học tập phải súc tích về nội dung khoa học.
Tài liệu học lập phải gắn với cuộc sống của các em, làm cho các em hiểu rõ ý nghĩa của chúng.
Tài liệu phải gây cho HS hứng thú học tập.
1
Cách trình bày tài liệu phải gợi cho HS có nhu cầu tìm hiểu tài liệu đó.
Phải giúp đỡ các em biết cách học, có phương pháp học tập phù hợp.
Môi trường gia đình:
Ở lứa tuổi này, địa vị của các em ở trong gia đình đã thay đổi, các em được gia đình thừa nhận như là một thanh viên tích cực của gia đình, được cha mẹ, anh chị giao cho những nhiệm vụ cụ thể như: chăm sóc các em nhỏ khi cha mẹ đi vắng, nấu cơm, dọn dẹp nhà cửa, chăn nuôi gia súc...
Điều quan trọng và có ý nghĩa lớn đối với các em là đã được tham gia bàn bạc một số công việc của gia đình, về những việc của cha mẹ, anh chị, bảo vệ uy tín của gia đình hơn các em HS tiểu học. Những sự thay đổi đó đã động viên, kích thích các em hoạt động tích cực, độc lập, tự chủ.
Ý nghĩa của giáo dục gia đình:
Gia đình là một đơn vị xã hội, hình thức tổ chức quan trọng nhất của sinh hoạt cá nhân, dựa trên hôn nhân và quan hệ huyết thống.
Gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên và là môi trường giáo dục suốt đời đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người. Cha mẹ là người thầy giáo, là nhà sư phạm đầu tiên giáo dục cho con cái mình những phẩm chất nhân cách cơ bản.
Do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan nên số đông gia đình không thể trực tiếp giáo dục con cái phát triển về mọi mặt: tri thức, văn hoá, kĩ thuật nghề nghiệp của xã hội hiện đại hoặc ngoại ngữ hay nghệ thuật... Để thực hiện những điều đó đã có những cơ quan tổ chức chuyên môn. Song, giáo dục cho trẻ về mặt đạo đức, thói quen lao động.
Giáo dục gia đình có những mặt mạnh, tích cực là mang tính xúc cảm cao, gắn bó với quan hệ ruột thịt, máu mủ nên có khả năng cảm hoá rất lớn. Giáo dục gia đình cũng mang tính cá biệt rõ rệt dựa trên cơ sở huyết thống: yêu thương sâu sắc, lâu dài, bền vững và cũng rất linh hoạt, thiết thực trên cơ sở nhu cầu hứng thú của cá nhân. Mặc dù vậy, giáo dục gia đình không thể thay thế hoàn toàn giáo dục của nhà trường.
Một số sai lầm trong giáo dục gia đình:
Chiều chuộng, yêu thương con là một bản tính tự nhiên của cha mẹ, là nguồn vui, hạnh phúc của gia đình, nhưng không nên nuông chiều quá mức. Tức là đáp ứng, thỏa mãn mọi nhu cầu của trẻ dẫn đến việc hình thành những thói xấu như vị kỉ, ỷ lại, kiêu ngạo, đua đòi...
Thường xuyên đánh mắng thô bạo sẽ làm cho quan hệ giữa bố mẹ và con cái không có sự gần gũi, tạo nên sự cách biệt vì sợ hãi. Trẻ em sẽ tránh những trận đánh mắng thô bạo khi biết mình phạm khuyết điểm bằng cách nói dối hoặc ngoan cố một cách có ý thức.
Thả nổi tự do là sai lầm khá phổ biến đối với các bậc cha mẹ bận rộn với công việc, không còn thời gian quan tâm và giáo dục con cái, phó thác cho nhà trường hoặc nơi trông trẻ. Tác hại đầu tiên là không theo dõi được khả năng phát triển trí lực của con cái để có biện pháp chấn chỉnh kịp thời, dẫn đến việc trẻ học yếu, từ đó chán học.
1
Nóng lạnh thất thường, kỳ vọng quá cao thể hiện thái độ và cách cư xử của cha mẹ với con cái, lúc thì vỗ về chiều chuộng hết mức, lức thì đánh mắng thô bạo tuỳ theo tâm trạng buồn vui của họ chứ không phải theo phương pháp giáo dục phù hợp với các tình huống cụ thể.
Một số nguyên tắc trong việc xây dựng môi trường giáo dục gia đình:
Tạo không khí gia đình êm ấm, hoà thuận.
Nghiêm khắc và khoan dung, độ lượng.
Thống nhất mục đích giáo dục theo mô hình lí tưởng xã hội.
Giáo dục trẻ ở trong gia đình chỉ đạt kết quả tốt đẹp nếu như tất cả mọi thành viên trong gia đình (ông bà, bố mẹ, người lớn...) đều tác động theo định hướng thống nhất vào một mục đích chung nhằm hình thành và phát triển ở trẻ những phẩm chất, năng lực, thói quen, hành vi chuẩn mực của người công dân chân chính.
Uy quyền của bố mẹ trong giáo dục gia đình
Tôn trọng nhân cách của trẻ
Tổ chức môi trường cho trẻ hoạt động
Giáo dục gia đình sẽ không có ý nghĩa và tác dụng nếu chỉ tập trung vào các phương pháp giải thích, diễn giảng, đối thoại, đàm thoại, nêu gương. Điều quan trọng là các bậc cha mẹ phải tổ chức môi trường cho trẻ được hoạt động và giao lưu. Hoạt động - giao lưu là con đường cơ bản để hình thành và phát triển nhân cách.
Mọi hoạt động dù đơn giản nhưng các bậc cha mẹ cũng cần hướng dẫn cẩn thận, nêu rõ lợi ích trước mắt, lâu dài trong đới sống con người. Ở mức độ cao hơn, các bậc cha mẹ nên và cần chú ý tổ chức môi trường giáo dục gia đình sao cho hợp lí nhằm đưa các em vào các hoạt động phát triển cả đức, trí, thể, mĩ, lao động... phù hợp với lứa tuổi.
2.2. Môi trường xã hội
Giáo dục xã hội là hoạt động của các tổ chức, các nhóm xã hội có chức năng giáo dục theo quy định của pháp luật hoặc các chương trình giáo dục trên các phương tiện thông tin đại chúng. Giáo dục xã hội tác động đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách của trẻ thường qua hai hình thức: tự phát và tự giác. Những ảnh hưởng tự phát bao gồm các yếu tố tích cực và tiêu cực của đời sống xã hội vô cùng phức tạp do cá nhân tự lựa chọn theo nhu cầu, hứng thú, trình độ tự giáo dục của mình. Những ảnh hưởng tự giác là những tổ hợp tác động trực tiếp hay gián tiếp có hướng đích, có nội dung, phương pháp bằng nhiều hình thức của các tổ chức, cơ quan, đoàn thể xã hội.
1
Đối với thanh thiếu niên, HS thì tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Đội Thiếu niên Tiền phong ở trong nhà trường và địa phương là tổ chức thu hút các em thường xuyên sinh hoạt nhằm thoả mãn các nhu cầu, hứng thú theo đặc điểm của lứa tuổi.
Môi trường giáo mục xã hội hiện đại không còn hạn chế trong một địa phương hay trong một quốc gia mà đã mở rộng ra toàn thế giới, như các phương tiện thông tin. Trong môi trường xã hội, mỗi nhóm, mỗi tổ chức, mỗi quốc gia đều có những mục đích, yêu cầu, nội dung, phương thức tiến hành giáo dục riêng biệt. Đây là vấn đề phức tạp của môi trường xã hội, nhà nước cần có những chủ trương, chính sách phù hợp nhằm tập hợp, quản lí các chủ thể, phương tiện tham gia giáo dục xã hội hoạt động theo những định hướng lành mạnh, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam.
Giáo dục của xã hội phải kết hợp chặt chẽ với giáo dục gia đình và nhà trường, góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo con người theo định hướng của Đảng và Nhà nước. Để phát huy tính tích cực của giáo dục xã hội, các tổ chức, cơ quan đoàn thể xã hội trước hết phải thực hiện chức năng cơ bản, chủ yếu của mình, góp phần làm cho môi trường xã hội trong sạch, đời sống văn hóa vật chất tinh phần phong phú, lành mạnh.
Ở lứa tuổi này các em được xã hội thừa nhận như một thành viên tích cực và được giao một số công việc nhất định trên nhiều lĩnh vực khác nhau như tuyên truyền, cổ động, giữ trật tự đường phố, giúp đỡ gia đình thương binh liệt sĩ…
Có sức lực, đã hiểu biết nhiều, muốn được mọi người thừa nhận mình là người lớn, muốn làm những công việc được mọi người biết đến, nhất là những công việc làm với người lớn.
Phân loại môi trường theo các mối quan hệ:
Quan hệ với cha mẹ và người lớn ở gia đình:
Lê-nin đã phát triển những tư tưởng của các nhà nhân chủng học. Ông đã phân tích vị trí của thiếu niên trong xã hội hiện đại và thời kì xung đột từ trẻ con đến người lớn, từ đó xác nhận rằng trong xã hội tồn tại hai nhóm người: nhóm trẻ con và nhóm người lớn và cho rằng lứa tuổi HS THCS là trẻ con vận động từ nhóm trẻ con sang nhóm người lớn.
HS THCS có nhu cầu mở rộng quan hệ với người lớn và mong muốn người lớn quan hệ với chúng một cách bình đẳng, không muốn người lớn coi chúng như trẻ con trước đây nữa.
Kiểu quan hệ của người lớn với trẻ em trước đây (kiểu quan hệ không bình đẳng giữa người lớn và trẻ em) không còn thích hợp với lứa tuổi này. Vì thế, các em mong muốn cải tổ lại mối quan hệ này theo chiều hướng hạn chế quyền hạn của người lớn, mở rộng quyền hạn của mình. Các em mong muốn người lớn tôn trọng nhân cách, phẩm giá, tin tưởng và mở rộng tính độc lập cho các em.
1
Như vậy, việc chuyển tiếp từ kiểu quan hệ giữa người lớn với trẻ em (đặc thù cho lứa tuổi thơ ấu), sang kiểu quan hệ mới về chất (đặc thù cho sự giao tiếp của HS THCS với người lớn) tạo điều kiện phát triển mức độ trưởng thành ở lứa tuổi này. Tất nhiên việc chuyển tiếp này có thể diễn ra thuận lợi hoặc khó khăn; điều này phụ thuộc hoàn toàn vào sự hiểu biết của người lớn.
Tuy nhiên, không phải mọi người lớn đều nhận thức đuợc nhu cầu cần thay đổi kiểu quan hệ với các em. Điều này mâu thuẫn với xu thế “vươn lên làm người lớn" của các em, với cảm giác trưởng thành của các em, hạn chế chuyển từ trẻ em sang người lớn, là nguyên nhân dẫn đến sự xung đột giữa các em với người lớn.
Nếu người lớn không chịu thay đổi quan hệ với các em thì các em sẽ trở thành người khởi xướng thay đổi mối quan hệ này. Nếu người lớn chống đối sẽ gây ra những phản ứng của các em dưới dạng bướng bỉnh, bất bình, không vâng lời...
Những quan hệ xung đột giữa các em và người lớn làm nảy sinh những hành vi tương ứng ở các em: xa lánh người lớn, không tin tưởng vào người lớn, cho rằng người lớn không hiểu và không chịu hiểu các em, khó chịu một cách có ý thức với những yêu cầu, những đánh giá, nhận xét của người lớn. Tác động giáo dục của người lớn đối với các em bị giảm sút.
Tính độc lập và quyền bình đẳng trong quan hệ của các em với người lớn là vấn đề phức tạp và gay gắt nhất trong sự giao tiếp của các em với người lớn nói riêng, trong việc giáo dục các em ở lứa tuổi này nói chung. Nhưng khó khăn đặc thù này có thể giải quyết nếu người lớn và các em xây dựng được mối quan hệ bạn bè hoặc quan hệ có hình thức hợp tác trên cơ sở tôn trọng, tin tưởng giúp đỡ lẫn nhau.
Tóm lại, sự phát triển những tư tưởng trong việc giải thích cuộc “khủng hoảng" ở lứa tuổi HS THCS đã đuợc tích lũy và khái quát lại. Theo đó, những biểu hiện và diễn biến của thời kì này được quyết định bởi hoàn cảnh xã hội cụ thể của cuộc sống, bằng vị trí xã hội của các em trong thế giới người lớn.
Quan hệ với bạn bè ở trường:
Mối quan hệ của HS THCS với bạn bè cùng lứa tuổi phức tạp, đa dạng hơn nhiều so với HS tiểu học. Sự giao tiếp giữa các em đã vượt ra ngoài phạm vi học tập, phạm vi nhà trường, mở rộng ra trong những hứng thú mới, những việc làm mới, những quan hệ mới trong đời sống của các em. Các em có nhu cầu lớn trong giao tiếp với bạn bè vì một mặt, các em rất khao khát đuợc giao tiếp và cùng hoạt động chung với nhau, các em có nguyện vọng được sống tập thể, có những bạn bè thân thiết, tin cậy; mặt khác cũng biểu hiện nguyện vọng không kém phần quan trọng là được bạn bè công nhận, thừa nhận, tôn trọng mình.
HS THCS coi quan hệ bạn bè cùng tuổi là quan hệ riêng của những cá nhân. Các em cho rằng các em có quyền hành động độc lập trong quan hệ này và bảo vệ quyền đó của mình. Nếu có sự can thiệp thô bạo của người lớn khiến các em cảm thấy bị xúc phạm thì các em chống đối lại. Nếu như quan hệ của các em với người lớn cũng không thuận hoà thi sự giao tiếp với bạn bè cùng lứa tuổi càng tăng và ảnh hưởng của bạn bè đến với các em càng mạnh mẽ.
Sự bất hoà trong quan hệ bạn bè cùng lớp, sự thiếu thốn bạn thân hoặc tình c
1
ảm bị phá vỡ đều sinh ra những cảm xúc nặng nề, được xem như là bi kịch của cá nhân. Tình huống khó chịu nhất đối với các em là sự phê bình thẳng thắn của tập thể, của bạn bè; còn hình phạt nặng nề nhất đối với các em là bị bạn bè tẩy chay, không muốn chơi với mình.
Tình bạn trong đời sống của HS THCS:
Các em ở lứa tuổi này thích giao tiếp và kết bạn với nhau. Nhưng không phải mọi em ở trong lớp đều được các em yêu thích, giao tiếp như nhau. Các em chỉ kết bạn với những em được mọi người tôn trọng, có uy tín và tiến bộ rõ rệt về một mặt nào đó. Lúc đầu, phạm vi giao tiếp của các em thường rộng, nhưng không được bền vững, có tính chất tạm thời. Đó là thời kì lựa chọn, tìm kiếm người bạn thân. Về sau, những em có cùng hứng thú, cùng yêu thích một loại hoạt động nào đó thì gắn bó với nhau, thích giao tiếp, trò chuyện với nhau. Phạm vi giao tiếp của các em hẹp lại, nhưng quan hệ giữa các em gắn bó với nhau hơn. Trong giao tiếp, các em chịu ảnh hưởng của nhau. Nhiều em lúc đầu không ưa thích loại hoạt động nào đó, nhưng vì chơi với bạn, bạn hứng thú về loại hoạt động đó mà làm lây sang em. Vì vậy, giao tiếp với bạn là nguồn nảy sinh hứng thú mới.
Ở lứa tuổi này xuất hiện môi trường bạn bè cùng tuổi. Đây là yếu tố rất đáng quan tâm trong sự tác động mạnh của yếu tố môi trường xã hội đến trẻ em. Việc hình thành môi trường bạn bè cùng tuổi là tất yếu của trẻ em, nhưng kiểm soát các mối quan hệ đó là nhiệm vụ của người lớn, trong đó vai trò của cha mẹ là yếu tố quyết định.
Tóm lại, sự giao tiếp ở lứa tuổi HS THCS là một loại hoạt động đặc biệt, mà đối tượng của hoạt động này là người khác - người bạn. Nội dung của hoạt động này là sự xây dựng những quan hệ qua lại và những hành động trong quan hệ đó. Nhờ hoạt động giao tiếp mà các em nhận thức được người khác và bản thân mình; đồng thời qua đó làm phát triển một số kĩ năng như kĩ năng so sánh, phân tích, khái quát hành vi của bản thân và của bạn, làm phong phú thêm những biểu tượng về nhân cách của bạn và của bản thân.
Một số đặc điểm về quan hệ giữa các em trai và các em gái ở lứa tuổi này:
Quan hệ giữa các em trai và các em gái ở lứa tuổi này có sự thay đổi cơ bản so với lứa tuổi trước. Thời kì này, ta thấy các em đã bắt đầu biểu hiện sự quan tâm lẫn nhau, ưa thích nhau và do đó quan tâm đến vẻ bề ngoài của mình.
Lúc đầu sự quan tâm tới giới khác ở các em nam còn có tính chất tản mạn và biểu hiện bằng phương thức đặc thù của trẻ con, như xô đẩy, trêu trọc các em gái... Các em gái nhiều khi rất bực, không hài lòng về những hành vi như thế của các em trai, song động cơ của những hành vi đó, các em gái ý thức được và không bực tức, giận dỗi các em trai.
Về sau, những quan hệ này thay đổi, mất tính trực tiếp, xuất hiện sự ngượng ngùng, nhút nhát, e thẹn. Ở một số em điều đó được bộc lộ trực tiếp, còn số khác thì được che giấu bằng thái độ thờ ơ giả tạo, “khinh bỉ" đối với người khác giới. Hành vi này mang tính chất hai mặt: sự quan tâm đến nhau cùng tồn tại với sự phân biệt nam nữ.
1
Có nhiều em HS lớp 8 và lớp 9, đặc biệt là các em gái, hay để ý đến vấn đề ai yêu ai. Mặc dù điều này các em rất bí mật, nếu có kể cho ai biết thì đó chỉ là những người bạn thật tin cậy, thân thiết. Nhưng không hiểu sao các em khác lại biết được. Điều đó chửng tỏ các em theo dõi, quan sát nhau, để ý đến nhau thường xuyên.
Tất nhiên trong quan hệ nam nữ ở lứa tuổi này cũng có thể có sự lệch lạc. Quan niệm về bạn khác giới không đúng mực đi đến chỗ đua đòi chơi bời, bỏ việc học tập và những công việc khác, vì thế, những người làm công tác giáo dục phải thấy được điều đó, để hướng dẫn, uốn nắn cho tình bạn giữa các em nam và nữ ở lứa tuổi này thật lành mạnh, trong sáng. Nó là động lực để giúp các em trong học tập, trong tu dưỡng.
Ảnh hưởng của môi trường đến mục đích động cơ học tập:
Môi trường học tập ảnh hưởng không nhỏ tới mục đích, động cơ học tập. Mục đích của hành động hoàn toàn không phải do con người nghĩ ra một cách chủ quan mà nó được hình thành dần trong quá trình diễn ra hành động. Mục đích thực sự chỉ có thể có khi chủ thể bắt đầu hành động.
Mục đích học chỉ đuợc hình thành khi chủ thể bắt đầu học tập. Thông qua học tập, người học chiếm lĩnh được tri thức, kĩ năng, kĩ xảo bộ phận (những khái niệm của từng bài học, từng tiết học) - đây là mục đích bộ phận. Trên cơ sở chiếm lĩnh những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo bộ phận mà chiếm lĩnh được toàn bộ những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo hệ thống (những khái niệm của môn học) - đây là mục đích môn học. Mỗi tri thức; kĩ năng, kĩ xảo bộ phận được chủ thể tiếp thu và làm chủ lại trở thành phương tiện cho việc hình thành mục đích bộ phận tiếp theo, cứ như vậy, mục đích học sẽ được hình thành trong quá trình thực hiện một hệ thống các hành động học trong một môi trường nhất định.
Động cơ của hoạt động học không có sẵn mà hiện thân ở đối tượng của hoạt động học (đó là những tri thức, kĩ năng, kỉ xảo...) mà người học cần chiếm lĩnh để hình thành và phát triển nhân cách.
Có hai loại động cơ học là: động cơ hoàn thiện tri thức và động cơ quan hệ xã hội.
Động cơ hoàn thiện tri thức:
Trong quá trình học tập, học để mở rộng tri thức, mở rộng vốn hiểu biết là động cơ thúc đẩy người học tích cực học tập nhằm lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo. Trong trường hợp này, nguyện vọng hoàn thiện tri thức hiện thân ở đối tượng của hoạt động học.
Đây là động cơ bên trong của hoạt động học vì những yếu tố kích thích người học xuất phát từ mục đích học, từ nhu cầu, hứng thú nhận thức của người học. Người học mong muốn hiểu biết những điều mới lạ, mở rộng tri thức và họ thấy thoải mái, không căng thẳng, mệt mỏi khi học.
1
© 2024 - nslide
Website chạy thử nghiệm. Thư viện tài liệu miễn phí mục đích hỗ trợ học tập nghiên cứu , được thu thập từ các nguồn trên mạng internet ... nếu tài liệu nào vi phạm bản quyền, vi phạm pháp luật sẽ được gỡ bỏ theo yêu cầu, xin cảm ơn độc giả