1

 

VỀ CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN ĐỔI MỚI KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ

THÚC ĐẨY ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC

(Đề dẫn của Vụ GDTrH tại Hội thảo về đổi mới KTĐG

thúc đẩy đổi mới PPDH do Bộ GDĐT tổ chức tại Cần Thơ, tháng 4/2009)

 

BỐ CỤC

I. Lí do phải đổi mới kiểm tra, đánh giá thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học.

II. Về đổi mới kiểm tra, đánh giá thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học.

III. Trách nhiệm chỉ đạo của các cơ quan quản lí giáo dục và nhà trường.

IV. Kết luận và kiến nghị.

NỘI DUNG BÁO CÁO

I. LÍ DO PHẢI KHÔNG NGỪNG ĐỔI MỚI KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ THÚC ĐẨY ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC

 1. Vai trò của kiểm tra, đánh giá

a) Quan niệm về kiểm tra, đánh giá

Trong quá trình dạy học, kiểm tra, đánh giá (KTĐG) là một hoạt động tất yếu, không thể thiếu. Trong đó, KT hoạt động thu thập thông tin về mức độ thực hiện mục tiêu, từ đó đánh giá hiệu quả hoạt động dạy học và giáo dục. Căn cứ mục tiêu dạy học để quyết định nội dung, hình thức KTĐG.

Do đó, có thể quan niệm KTĐG như sau:

- KT là thu thập thông tin từ riêng lẻ đến hệ thống về kết quả thực hiện mục tiêu dạy học; ĐG xác định mức độ đạt được trong việc thực hiện mục tiêu dạy học; ĐG đúng hay chưa đúng tùy thuộc ở mức độ khách quan, chính xác của KT;

- KTĐG phải căn cứ mục tiêu dạy học, mục tiêu giáo dục, cụ thể là căn cứ chuẩn kiến thức, kỹ năng và yêu cầu về thái độ của học sinh (HS) đã được quy định trong Chương trình giáo dục phổ thông (CTGDPT); KT và ĐG là 2 khâu trong một quy trình thống nhất nhằm xác định kết quả thực hiện mục tiêu dạy học, trong đó KT là khâu đi trước (không KT thì không có căn cứ ĐG, chỉ KT không ĐG thì không thực hiện được mục tiêu của hoạt động KTĐG);

- Đổi mới PPDH và đổi mới KTĐG là 2 mặt thống nhất hữu cơ của quá trình dạy học, trong đó đổi mới KTĐG thúc đẩy đổi mới PPDH. Đổi mới PPDH phải dựa trên kết quả đổi mới KTĐG và ngược lại đổi mới KTĐG chỉ phát huy hiệu quả cuối cùng khi thông qua đổi mới PPDH;

- Kết quả ĐG là căn cứ để quyết định giải pháp cải thiện thực trạng, nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học và giáo dục thông qua việc đổi mới tối ưu hóa phương pháp dạy học (PPDH) của giáo viên (GV) và hướng dẫn HS biết tự ĐG để tối ưu hóa phương pháp học tập (PPHT) của mình;


1

 

- Trong quá trình dạy và học, phải kết hợp ĐG của GV và tự đánh giá của HS để phát huy vai trò tích cực, chủ động trong học tập (biết mình đang ở loại nào, có những mạnh yếu nào và phải vươn lên với mức độ nào?);

- KTĐG chỉ có hiệu lực sư phạm thuyết phục và thân thiện khi bảo đảm yêu cầu khách quan, chính xác, công bằng, động viên HS phát huy vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập, rèn luyện. ĐG dễ dãi, cao hơn thực tế sẽ đi đến triệt tiêu động lực phấn đấu vươn lên và ngược lại ĐG khắt khe quá mức hoặc với thái độ kém thân thiện sẽ ức chế tình cảm trí tuệ, giảm vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của HS.

Tùy theo mục tiêu ĐG, khi ĐG có thể dựa trên kết quả định tính (dựa vào nhận xét) hoặc kết quả định lượng (dựa vào chỉ số số lượng). Hoạt động ĐG2 chức năng cơ bản: Xác định kết quả đạt được của việc thực hiện mục tiêu dạy học và thông báo cho người dạy, người học (là các chủ thể của hoạt động dạy học), cụ thể là xác định mức độ thực hiện chuẩn kiến thức, kỹ năng của CTGD mà HS đạt được khi kết thúc một giai đoạn học tập (bài, chương, chủ điểm, lớp, cấp học...).

b) Vai trò của kiểm tra, đánh giá

- KTĐG hoạt động không thể thiếu nhằm xác định hiệu quả thực hiện mục tiêu dạy học, từ đó định hướng và thúc đẩy GV đổi mới PPDH, thúc đẩy HS đổi mới PPHT nhằm nâng cao chất lượng thực hiện mục tiêu giáo dục.

Hoạt động ĐG còn là để phát hiện những mặt tốt, mặt chưa tốt, khó khăn, vướng mắc và xác định nguyên nhân để đề ra các giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học, hiệu quả giáo dục.

- Thông qua KTĐG để:

+ Tạo điều kiện cho GV nắm được tình hình học tập, mức độ phân hoá về trình độ học lực của HS trong lớp, từ đó có biện pháp giúp đỡ HS yếu kém và bồi dưỡng HS giỏi; giúp GV điều chỉnh, hoàn thiện PPDH;

+ Giúp cho HS biết được khả năng học tập của mình so với yêu cầu của CT; xác định nguyên nhân thành công cũng như chưa thành công, từ đó điều chỉnh PPHT; phát triển kỹ năng tự đánh giá;

+ Giúp cho cha mẹ HS và cộng đồng biết được kết quả dạy học (ti Chỉ thị số 47/2008/CT-BGDĐT ngày 13/8/2008 của Bộ trưởng Bộ GDĐT về nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên, giáo dục chuyên nghiệp năm học 2008-2009 có nêu năm học 2008-2009 thực hiện 3 công khai trong các cơ sở giáo dục công lập và ngoài công lập để người học và xã hội giám sát, đánh giá: (1) công khai chất lượng đào tạo, (2) công khai các điều kiện về CSVC, đội ngũ GV, (3) công khai thu, chi tài chính, việc công khai kết quả dạy học góp phần thực hiện thành công nhiệm vụ năm học này);

+ Giúp cán bộ quản lí giáo dục để đề ra giải pháp quản lý phù hợp.


1

 

2. Thực trạng KTĐG ở trường phổ thông

a) Thực trạng

- Trong thực tế, lâu nay đối với các môn Ngữ văn, Lịch sử, Địa lí có hiện tượng thiên về KTĐG mức độ học thuộc lòng, kiểm tra trí nhớ một cách đơn thuần. Người ra đề thường dùng lại ở mức độ KTĐG kiến thức lý thuyết, khả năng ghi nhớ (nhận biết, tái hiện), ít đặt ra yêu cầu KTĐG mức độ thông hiểu và KTĐG kỹ năng vận dụng tri thức. Đề KT thường đòi hỏi HS phải nhớ nhiều sự kiện, con số, nhưng không hiểu được mục đích ghi nhớ ngoài mục đích ứng phó với KTĐG, thi cử. Cách KTĐG đó gây nên tình trạng học tủ, học vẹt, ghi nhớ máy móc nhưng không nắm vững bản chất vấn đề, thiếu kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Tình trạng đó là hệ quả của lối dạy học cũ truyền thụ một chiều từ GV đến HS và kèm theo đó khi KTĐG thường thiên về yêu cầu tái hiện kiến thức, xem nhẹ KTĐG mức độ thông hiểu và kỹ năng vận dụng kiến thức, ít đòi hỏi HS phân tích, suy luận, khái quát;

- Việc KTĐG kết quả học tập còn chưa có tác dụng mạnh mẽ kích thích, động viên HS nỗ lực học tập, hoặc ra đề quá khó làm cho những HS có học lực trung bình trở xuống dễ chán học hoặc ra đề quá dễ sẽ dẫn đến HS có tâm lí thoả mãn, kém nỗ lực phấn đấu. Phần lớn lời phê, sửa lỗi bài làm của HS còn chung chung, ít khai thác lỗi để rèn kỹ năng tư duy cho HS, một số lời phê của thầy cô thiếu thân thiện gây ức chế tâm lý cho HS;

- KTĐG chỉ gọn trong chương trình môn học một lớp, kể cả kỳ thi hết cấp. Vì vậy, khó đánh giá được mức độ hiểu, nắm vững toàn mạch kiến thức cả cấp học. Từ đó, gây khó khăn cho việc dạy học tích hợp giữa các bộ môn theo chủ đề gắn với thực tiễn (giáo dục về bảo vệ môi trường, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh...), tách rời học với hành, lý thuyết với thực tiễn;

- KTĐG mới chỉ tập trung vào việc GV đánh giá HS, ít tạo điều kiện cho HS tự đánh giá mình đánh giá lẫn nhau. Việc đánh giá còn mang nặng tính chủ quan do chưa xác định rõ mục tiêu KTĐG nên kết quả đánh giá của mỗi GV, mỗi trường và mỗi địa phương thường khác biệt nhau;

- Một bộ phận GV còn chưa thấy hết vai trò của KTĐG, do vậy trong KT bài cũ, 15 phút, 45 phút, việc ra đề KT nhiều khi còn qua loa, nhiều GV ra đề KT với mục đích làm sao để chấm dễ, chấm nhanh nên kết quả đánh giá chưa khách quan. Phần lớn GV chưa quan tâm đến quy trình soạn đề KT nên các bài kiểm tra còn mang tính chủ quan của người dạy.

Tuy nhiên, qua tổng hợp báo cáo hội thảo của các địa phương, hầu hết GV đã nhận thức được vai trò của đổi mới KTĐG, sự cần thiết phải đổi mới PPDH và đổi mới KTĐG. Đây là du hiệu tích cực để thúc đẩy đổi mới PPDH và đổi mới KTĐG trên phạm vi cả nước.

b) Nguyên nhân

- Một bộ phận GV chưa nắm vững yêu cầu đổi mới KTĐG, việc KTĐG chủ yếu được tiến hành tự phát theo kinh nghiệm của từng GV, một bộ phận đáng kể


1

 

 chưa bám sát mục tiêu môn học, chuẩn kiến thức, kỹ năng của CT;

- Những năm gần đây, xu thế áp dụng hình thức kiểm tra trắc nghiệm phát triển khá mạnh trong các trường học, môn học. Hình thức kiểm tra này được GVHS hưởng ứng và áp dụng khá tích cực. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đã bộc lộ nhiều bất cập, chưa cân đối giữa hình thức tự luận với trắc nghiệm, có biểu hiện đơn điệu (thiên về câu hỏi đúng - sai) hoặc lạm dụng hình thức trắc nghiệm làm giảm hiệu quả KTĐG;

- Tình trạng thiếu khách quan trong KTĐG vẫn còn khá phổ biến. Bệnh thành tích (nâng tỉ lệ khá, giỏi, lên lớp...) thói quen dạy học thụ động, nặng với đối phó thi cử còn khá phổ biến. Kết quả thực hiện cuộc vận động Hai không” và phong trào "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực" của Bộ GDĐT một phần quan trọng phụ thuộc vào việc bảo đảm khách quan, chính xác, công bằng trong KTĐG, thi cử;

II. VỀ ĐỔI MỚI KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ THÚC ĐẨY ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC

1. Định hướng và yêu cầu của việc đổi mới KTĐG

a) KTĐG phải bảo đảm khách quan, chính xác, công bằng và hướng dẫn HS biết tự đánh giá kết quả học tập, phân biệt được đúng sai, tìm ra nguyên nhân để tự khắc phục, rèn luyện kỹ năng tư duy độc lập, khả năng tự học;

b) Khi thực hiện KTĐG, phải đảm bảo sự cân đối giữa KT kiến thức, kỹ năng yêu cầu về thái độ đối với HS. Kết hợp hợp lý hình thức tự luận với trắc nghiệm; vận dụng các kiểu câu hỏi trắc nghiệm phù hợp (đúng - sai, điền khuyết, trả lời ngắn, ghép đôi, nhiều lựa chọn,...) với nhiều phiên bản;

c) Thực hiện đúng quy định của Quy chế đánh giá, xếp loại HS, tiến hành đủ số lần kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định kì, kiểm tra học kì cả lí thuyết và thực hành, vận dụng linh hoạt các hình thức đánh giá qua các bước lên lớp;

d) Kết hợp giữa đánh giá trong với đánh giá ngoài (lấy ý kiến của đồng nghiệp, kiểm tra từ bên ngoài để khách quan hoá việc đánh giá...);

đ) Quán triệt đặc trưng của các nhóm môn học để tăng hiệu quả các môn KHXH-NV, tránh học theo kiểu thuần túy lý thuyết, coi nhẹ việc rèn luyện thói quen và kỹ năng vận dụng tri thức vào thực tiễn. Định hướng đổi mới chung là: Khắc phục tình trạng thiên về KT ghi nhớ kiến thức, tăng cường kiểm tra mức độ thông hiểu và kỹ năng vận dụng tổng hợp tri thức để giải quyết một vấn đề; tăng cường ra đề "mở" nhằm đòi hỏi vận dụng tổng hợp kiến thức, kỹ năng với yêu cầu biểu đạt chính kiến khi trình bày.

- Đối với môn Ngữ văn: Coi trọng KTĐG kỹ năng diễn đạt, trình bày một chủ đề bằng lời nói, chữ viết và bồi dưỡng tình cảm hứng thú học tập, thái độ trân trọng tiếng mẹ đẻ, yêu di sản văn hóa của nhân loại và truyền thống văn hóa dân tộc, biết coi đó là vốn văn hóa tối cần thiết đối với mỗi con người;


1

 

- Đối với môn Lịch sử: Coi trọng KTĐG kỹ năng diễn đạt các sự kiện bằng lời nói, chữ viết với sơ đồ, lược đồ, sa bàn, hiện vật, máy chiếu và giáo dục quan điểm duy vật lịch sử thông qua rèn luyện kỹ năng phân tích, bình luận, đánh giá các sự kiện lịch sử, sự kiện thời sự rút ra bài học và quy luật lịch sử; bồi dưỡng tình cảm hứng thú học tập, thái độ trân trọng truyền thống lịch sử dân tộc, nhu cầu bổ sung hiểu biết về lịch sử dân tộc, lịch sử nhân loại, coi hiểu biết lịch sử là vốn văn hóa tối cần thiết đối với mỗi con người;

- Đối với môn Địa lí: Coi trọng KTĐG kỹ năng diễn đạt các sự vật, hiện tượng địa lí bằng lời nói, chữ viết với sơ đồ, bản đồ, lược đồ, sa bàn, máy chiếu, kỹ năng phân tích Át-lát và bồi dưỡng tình cảm hứng thú học tập, thái độ đối với các vấn đề toàn cầu về bảo vệ môi trường sống, nhu cầu tìm hiểu bổ sung vốn hiểu biết về đất nước, chủ quyền lãnh thổ của nước ta, coi hiểu biết về quê hương, đất nước là vốn văn hóa tối cần thiết đối với mỗi con người;

e) Vận dụng linh hoạt các hình thức và xác định rõ yêu cầu về KTĐG phù hợp với thời lượng và tính chất đề kiểm tra: KT thường xuyên và định kỳ: Bao gồm KT miệng (cho điểm hoặc đánh giá bằng nhận xét) có thể tiến hành vào đầu giờ hoặc trong quá trình dạy học; KT viết 15 phút, KT 1 tiết cần vận dụng linh hoạt giữa câu hỏi trắc nghiệm và tự luận. Khi kiểm tra miệng, cần chú ý rèn luyện kỹ năng nói, kỹ năng diễn đạt kiến thức trước tập thể. Trong kiểm tra định kì cần chú trọng kỹ năng phân tích, tổng hợp, khái quát hoá kiến thức, đặc biệt chú ý kỹ năng viết, kỹ năng trình bày một vấn đề;

g) Nội dung, hình thức, phương tiện tổ chức KTĐG phải khả thi, phù hợp với thực tế và đặc trưng môn học;

h) Đổi mới KTĐG phải gắn với việc thực hiện cuộc vận động Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” và gắn với phong trào thi đua Xây dựng trường học thân thiện, HS tích cực”. KTĐG vừa phải đảm bảo mục tiêu môn học, vừa phải đảm bảo tính thân thiện, bồi dưỡng tình cảm hứng thú học tập bằng sự động viên mọi cố gắng của HS.

2. Mối quan hệ thúc đẩy của đổi mới KTĐG đối với PPDH

a) KTĐG có tác dụng thúc đẩy GV đổi mới PPDH và HS đổi mới PPHT. Từ thông tin “phản hồi” qua kết quả KTĐG, HS biết tự đánh giá mức độ lĩnh hội kiến thức, rèn luyện kỹ năng so với yêu cầu của CT. Tđó, hình thành cho HS nhu cầu tự tìm tòi kiến thức, rèn luyện kỹ năng thông qua tự học, tự nghiên cứu, hình thành phương pháp tự học, học trực tuyến (Learning online).

b) KTĐG giúp cơ quan quản lý lựa chọn giải pháp phù hợp để nâng cao chất lượng giáo dục, trong đó có việc chỉ đạo đi mới PPDH, đặt Dạy - Học - KTĐG vào một chỉnh thể thống nhất biện chứng, đồng bộ.

c) Từ việc GV đổi mới PPDH và HS đổi mới PPHT sẽ thúc đẩy GV đổi mới KTĐG để đạt hiệu quả tương ứng, nắm vững chuẩn kiến thức, kỹ năng của CTGDPT tình hình học tập của HS, ra đề sát mục tiêu của mỗi bài, mỗi chương, mỗi môn học.


1

 

III. TRÁCH NHIỆM CHỈ ĐẠO CỦA CÁC CƠ QUAN QUẢN LÍ GIÁO DỤC VÀ NHÀ TRƯỜNG

Tại Chỉ thị số 47/2008/CT-BGDĐT ngày 13/8/2008 của Bộ trưởng Bộ GDĐT về nhiệm vụ trọng tâm năm học 2008-2009, trong phần về giáo dục phổ thông đã nêu rõ: Triển khai dạy học theo chuẩn kiến thức, kỹ năng phù hợp với từng đối tượng HS. Tập trung chỉ đạo đổi mới phương pháp giảng dạy các môn Ngữ Văn, Lịch sử, Địa lý, Đạo đức, Giáo dục công dân, gắn kết chặt chẽ với việc mỗi trường nhận chăm sóc và phát huy giá trị một di tích văn hoá, lịch sử, cách mạng. Tiến hành KTĐG theo hướng khuyến khích tinh thần tự học và ý thức sáng tạo của HS, giảm yêu cầu học thuộc lòng, nhớ nhiều sự kiện, không làm bài rập khuôn theo bài mẫu; ... coi trọng việc thực hành vận dụng, tổ chức hình thức dạy học linh hoạt theo hướng tích hợp; đánh giá sâu môn Thủ công, Kỹ thuật (ở cấp tiểu học) và môn Giáo dục công dân (ở cấp THCS, THPT).

Tại công văn số 7475/BGDĐT-GDTrH ngày 15/8/2008 hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2008-2009 đối với giáo dục trung học đã xác định những yêu cầu quan trọng trong việc đổi mới KTĐG là:

- GV đánh giá sát đúng trình độ HS với thái độ khách quan, công minh và hướng dẫn HS biết tự đánh giá kết quả học tập của mình;

- Trong quá trình dạy học, cần kết hợp một cách hợp lí hình thức tự luận với hình thức trắc nghiệm khách quan trong KTĐG kết quả học tập của HS, chuẩn bị tốt cho việc đổi mới các kì thi;

- Thực hiện đúng qui định của Qui chế đánh giá, xếp loại HSTHCS, HSTHPT, tiến hành đủ số lần kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định kì, kiểm tra học kì cả lí thuyết và thực hành;

- Đối với một số môn KHXH-NV như: Ngữ văn, Lịch sử, Địa lí, Giáo dục công dân, cần coi trọng đổi mới , đổi mới KTĐG theo hướng hạn chế ghi nhớ máy móc, không yêu cầu làm bài theo mẫu mà khuyến khích từng bước ra loại đề "mở", đòi hỏi HS phải vận dụng tổng hợp kiến thức, kỹ năng và có thể biểu đạt chính kiến của bản thân khi làm bài.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ năm học và những qui định trên, mỗi cấp cán bộ quản lí giáo dục, mỗi GV phải thực hiện nhiệm vụ sau:

1. Trách nhiệm của các Sở và các Phòng GDĐT

- Tổ chức bồi dưỡng GV về KTĐG trong bồi dưỡng định kì và thường xuyên, giúp cho GV nghiên cứu và nắm vững chuẩn kiến thức, kỹ năng trong CTGDPT. KTĐG theo 3 mức độ: Nhận biết, thông hiểu, vận dụng để giảng dạy, KTĐG theo mục tiêu dạy học các môn: Ngữ văn, Lịch sử, Địa lí;

- Lập dữ liệu nguồn m đề KT, đề thi để mọi GV đều có thể tham khảo;

- Thường xuyên nắm vững tình hình thực hiện của các trường về đổi mới KTĐG các môn học theo yêu cầu của Bộ, lồng ghép nội dung kiểm tra vào các đợt thanh tra chuyên môn đối với trường học


1

 

;

- Các Sở GDĐT cần thông báo các Website, cổng điện tử để tiếp nhận và giải đáp về chuyên môn. Từ đó, tạo nên mối quan hệ thân thiện giữa chuyên viên và GV cốt cán với GV;

- Tổ chức hội nghị, hội thảo và khuyến khích động viên GV nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn, sáng kiến kinh nghiệm về đổi mới PPDH và đổi mới KTĐG để phổ biến rộng rãi.

2. Trách nhiệm của nhà trường, tổ chuyên môn và GV

a) Ban giám hiệu

- Tổ chức bồi dưỡng để GV nắm vững CT-SGK, kỹ thuật dạy học, đổi mới KTĐG, kỹ năng ứng dụng CNTT vào việc đổi mới PPDH và báo cáo với Phòng GDĐT, Sở GDĐT về tình hình thực hiện đổi mới KTĐG;

- Động viên kịp thời những điển hình về đổi mới PPDH và đổi mới KTĐG của GV, nhân rộng điển hình ra toàn trường;

- Cung cấp các đề KT tốt qua thực tế áp dụng ở trường cho các cơ quan quản lý giáo dục để bổ sung nguồn dữ liệu mở trên các Website.

b) Tổ chuyên môn

- Đưa nội dung đổi mới KTĐG thúc đẩy đổi mới PPDH vào nội dung sinh hoạt tổ chuyên môn, nghiên cứu và thảo luận rộng rãi cách giải quyết vấn đề về đổi mới KTĐG, đổi mới PPDH; tổ chức dự giờ để rút kinh nghiệm về hiệu quả đổi mới KTĐG và đổi mới PPDH; báo cáo thường xuyên về tình hình triển khai đổi mới KTĐG của tổ với Ban giám hiệu;

- Quản lý hoạt động KTĐG của GV theo tinh thần vận dụng sáng tạo và phù hợp với đặc điểm đối tượng HS, không sao chép máy móc nguyên bản đề KT, giáo án của đồng nghiệp (kể cả giáo án điện tử);

- Đề xuất với nhà trường về công tác chuyên môn và bồi dưỡng GV, phát hiện và kiến nghị phổ biến kinh nghiệm tốt về chuyên môn;

- Xây dựng nguồn đề KT để GV tham khảo và cung cấp cho các cơ quan quản lý giáo dục.

c) Giáo viên

- Nghiên cứ nắm vững chuẩn kiến thức, kỹ năng và yêu cầu về thái độ đối với HS trong CTGDPT ban hành kèm theo Quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 05/5/2006 của Bộ trưởng Bộ GDĐT để quán triệt và thực hiện;

- Tự giác tham gia các lớp bồi dưỡng, tự bồi dưỡng thường xuyên và định kì, hoàn thành nhiệm vụ GV cốt cán chuyên môn khi được lựa chọn, kiên trì vận dụng những kiến thức đã được bồi dưỡng để nâng cao chất lượng công tác chuyên môn và phổ biến kinh nghiệm với đồng nghiệp;

- Thực hiện đổi mới KTĐG thúc đẩy đổi mới PPDH đi đôi với trách nhiệm hình thành


1

 

kỹ năng tự KTĐG kết quả học tập của HS; tích cực tham gia dự giờ của đồng nghiệp, tiếp nhận đồng nghiệp dự giờ của mình, tự giác tham gia hội giảng, thao giảng, thi GV giỏi, báo cáo kinh nghiệm để chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm nhằm trau dồi năng lực chuyên môn;

- Tích cực nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn, sáng kiến kinh nghiệm về đổi mới PPDH và đổi mới KTĐG, ứng dụng CNTT trong dạy học, tự bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn; thực hiện nghiêm túc nguyên tắc, quy trình soạn đề KT, tổ chức KT khách quan, chính xác, công bằng; thống nhất cách thức tổ chức KTĐG và nội dung cần KTĐG trong tổ bộ môn; thực hiện KTĐG đúng Quy chế;

- Tăng cường trao đổi chuyên môn với GV cốt cán bộ môn, GV trường khác để học hỏi kinh nghiệm và giải đáp những vướng mắc về chuyên môn trong quá trình dạy học;

- Vận dụng sáng tạo kinh nghiệm tốt của đồng nghiệp cho phù hợp với đặc điểm đối tượng HS, coi trọng khâu chuẩn bị giáo án, đề KT, không sao chép máy móc nguyên bản đề KT, giáo án của đồng nghiệp.

IV. KIẾN NGHỊ

1. Đối với các cơ quan quản lí thuộc Bộ GDĐT

a) Đổi mới công tác chỉ đạo bồi dưỡng GV, coi trọng việc tạo điều kiện cho GV tự bồi dưỡng thông qua việc cung cấp tài liệu phục vụ cho việc nâng cao năng lực đổi mới KTĐG. Chỉ đạo đổi mới KTĐG thúc đẩy đổi mới PPDH cho GV phải đồng bộ với với đổi mới đào tạo GV trong các trường (khoa) sư phạm để sinh viên ra trường có thể tiếp cận cách thức KTĐG khoa học;

b) Tăng cường hỗ trợ các cơ quan quản lý, các trường học và GV bằng nguồn dữ liệu mở về đề KT, đề thi, giáo án, tài liệu tham khảo;

c) Tiếp tục chỉ đạo cải tiến cách ra đề thi và chỉ đạo KTĐG theo hướng đòi hỏi HS phải nắm vững kiến thứccó kỹ năng vận dụng sáng tạo vào thực tiễn, không thiên về yêu cầu ghi nhớ máy móc kiến thức đã học;

d) Đưa nội dung chỉ đạo đổi mới KTĐG thúc đẩy đổi mới PPDH vào kế hoạch thực hiện cuộc vận động "Hai không" và phong trào "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực".

2. Đối với các Sở GDĐT, Phòng GDĐT

a) Trong mỗi năm học, cần tổ chức một số hội nghị chuyên đề về đổi mới PPDHKTĐG, tổng kết thực tiễn và đề ra các giải pháp đổi mới PPDH, đổi mới KTĐG phù hợp nhất với tình hình địa phương;

b) Thúc đẩy mạnh mẽ việc ứng dụng CNTT trong việc đổi mới PPDH, đổi mới KTĐG, tham gia xây dựng và khai thác có hiệu quả nguồn dữ liệu mở trên các Website phục vụ dạy học và hướng dẫn GV, HS khai thác có chọn lọc nguồn tư liệu tham khảo từ Internet.  


1

 

c) Lồng ghép công tác chỉ đạo đổi mới PPDH, đổi mới KTĐG với chương trình hành động, kế hoạch thực hiện cuộc vận động "Hai không" và phong trào "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực".

3. Đối với các trường học

a) Đưa nội dung về đổi mới PPDH và đổi mới KTĐG vào sinh hoạt chuyên đề để thảo luận, phổ biến kinh nghiệm tốt, đánh giá ưu, khuyết điểm và đề ra giải pháp thúc đẩy các tổ chuyên môn, GV đổi mới PPDH, đổi mới KTĐG và tăng cường ứng dụng CNTT trong việc đổi mới PPDH và KTĐG;

b) Định kì tổ chức diễn đàn để phổ biến kinh nghiệm, thu thập thông tin phản hồi về đổi mới KTĐG và đổi mới PPDH;

c) Lồng ghép với chương trình hành động, kế hoạch tổ chức thực hiện cuộc vận động "Hai không" và phong trào thi đua "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực".

4. Đối với các cơ quan nghiên cứu

Cần tiếp tục nghiên cứu thành tựu, kinh nghiệm trong nước và nước ngoài về đổi mới PPDH và đổi mới KTĐG. Đúc rút kinh nghiệm thành các bài học để phổ biến và áp dụng rộng rãi trong các cơ sở giáo dục.

                                                                VỤ GIÁO DỤC TRUNG HỌC

nguon VI OLET