QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM

TỔNG CỤC CHÍNH TRỊ

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chuyên đề 2

 

CHỦ QUYỀN VIỆT NAM

ĐỐI VỚI VÙNG ĐẤT TÂY NAM BỘ

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

HÀ NỘI – 4/2016

 

 


M ĐẦU

Tây Nam Bộ là vùng đất có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế, chính trị, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của Việt Nam.

Từ xa xưa, vùng đất này đã thuộc chủ quyền của Việt Nam, đồng bào các dân tộc, tôn giáo ở đây là một bộ phận trong khi đại đoàn kết toàn dân tộc. Tuy nhiên, những năm gần đây, các thế lực thù địch, phản động ra sức xuyên tạc, phủ nhận chủ quyền của Việt Nam, kích động đồng bào Khơme ở Việt Nam và một số người dân Campuchia chống phá quan hệ hữu nghị hợp tác giữa hai nước, phá hoại hòa bình ổn định và ngăn cản tiến trình phân giới cắm mốc giữa Việt Nam và Campuchia. Đặc biệt, chúng xuyên tạc sự thật lịch sử vùng đt Tây Nam Bộ, kích động ý thức dân tộc hẹp hòi, đòi “độc lập”, “tự trị”, xây dựng t chức phản động để tiến tới thành lập cái gọi là “Nhà nước Khơme Campuchia Crôm”, hoặc sáp nhập Miền Tây Nam Bộ vào Campuchia, cản trở công cuộc xây dựng đất nước của nhân dân ta.

Nhằm giúp cho cán bộ, chiến sĩ ở đơn vị cơ sở có thêm thông tin, tư liệu để đấu tranh chống các luận điệu sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc chủ quyền của Việt Nam đối với vùng đất Tây Nam Bộ, Tài liệu này đề cập một s nội dung cơ bản về cơ s lịch sử và pháp lý khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với Miền Tây Nam Bộ, tình hình và định hướng đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch xuyên tạc, phủ nhận chủ quyền của Việt Nam đối với vùng đất Tây Nam Bộ.

I. CƠ SỞ LỊCH SỬ, PHÁP LÝ KHẲNG ĐỊNH CHỦ QUYN CỦA VIỆT NAM ĐI VỚI VÙNG ĐẤT TÂY NAM B             

1. Vị trí vùng đất Tây Nam Bộ

Vùng đất Tây Nam Bộ (hay Miền Tây Nam Bộ) là cách gọi thông thường chỉ vùng đồng bằng sông Cửu Long, nằm ở cực Nam của Tổ quốc, phía Đông Bắc giáp thành phố Hồ Chí Minh, Đông và Nam giáp Biển Đông, Bắc giáp Campuchia, Tây giáp vịnh Thái Lan; là một trong những đồng bằng lớn, phì nhiêu của vùng Đông Nam Á và thế giới.

Miền Tây Nam Bộ hiện có 12 tỉnh và 01 thành phố trực thuộc Trung ương gồm: thành phố Cần Thơ và các tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Sóc Trăng, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau.

Theo số liệu của Tng cục Thống kê năm 2011, tổng diện tích các tỉnh Miền Tây Nam Bộ trên 40.548,2 km2n số trong vùng trên 17.330.900 người, chiếm 21% dân số cả nước. Có đường biên giới với Campuchia dài 409km[1] đi qua bốn tỉnh Long An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang (từ Nam Tây Ninh đến mép biển Xà Xía, Kiên Giang); có vùng biển rộng lớn, bờ biển dài 743 km, có 2 huyện đảo là Phú Quốc, Kiên Hải (tỉnh Kiên Giang).

Dân cư sinh sống ở vùng đất Tây Nam Bộ bao gồm nhiều dân tộc khác nhau, trong đó có 4 dân tộc chính là: Việt (Kinh), Hoa, Chăm và Khơme. Người Việt

 

 


chiếm đại đa số, sống ở hầu hết các nơi trong vùng. Người Hoa tập trung nhiều các tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng. Người Chăm sống chủ yếu ở An Giang. Người Khơme có mặt đông đúc ở các tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, An Giang. Miền Tây Nam Bộ có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoại, nhất là trong quan hệ với nước láng giềng Campuchia và các nước ASEAN. Đây là vùng sản xuất lương thực trọng điểm; có nhiều tiềm năng, thế mạnh về phát triển nông nghiệp, đánh bắt và nuôi trồng thủy, hải sản lớn nhất cả nước; có tiềm năng lớn về dầu khí và du lịch. Vùng Kinh tế trọng điểm đồng bằng sông Cửu Long bao gồm 4 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là: thành phố Cần Thơ, tỉnh An Giang, Kiên Giang và Cà Mau, với diện tích tự nhiên là 1.786.700 ha, dân số trên 6,5 triệu người, chiếm hơn 1/3 dân số của toàn vùng. Hàng năm Tây Nam Bộ đóng góp 18% GDP, trên 50% sản lượng lúa, xuất khẩu 90% sản lượng gạo và 70% sản lượng thủy sản của cả nước.

2. Cơ sở lịch sử khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối vi vùng đất Tây Nam Bộ

a) Miền Tây Nam Bộ được hình thành gắn với quá trình khai hóa đất hoang của người Việt và việc xác lập chủ quyền của nhà nước phong kiến Việt Nam cách đây hơn 300 năm

Trên cơ sở tng hợp các kết quả nghiên cứu của nhiều ngành khoa học liên quan như sử học, khảo cổ học, dân tộc học, văn hoá học, luật học ở trong và ngoài nước, cuốn sách “Lược sử vùng đất Nam Bộ - Việt Nam” do Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Thế giới xuất bản năm 2006 đã trình bày một cách khách quan, có hệ thống và cô đọng những tư liệu, chứng cứ cơ bản về lịch sử phát triến vùng đất Nam Bộ với những nội dung cơ bản sau:

- Trước khi trở thành lãnh thổ của nước Việt Nam, vùng đất Nam Bộ nói chung, Miền Tây Nam Bộ nói riêng thuộc Vương quốc Phù Nam (một quốc gia bản địa, độc lập). Từ thế kỷ VII đến thế kỷ XVI Miền Tây Nam Bộ bị Vương quốc Chân Lạp (nhà nước đu tiên của người Khơme) thôn tính, Vương quốc Phù Nam cũng bị diệt vong.

+ Phù Nam là một quốc gia cổ, ở Đông Nam Á, xuất hiện khoảng đầu Công nguyên, ở khu vực hạ lưu và châu thổ sông Mê Kông. Trong thời kỳ hưng thịnh, vương quốc này khá rộng lớn, về phía Đông, đã kiểm soát cả vùng đất phía Nam Trung Bộ của Việt Nam ngày nay, phía Tây đến thung lũng sông Mê Nam (Thái Lan), phía Nam đến phần phía Bắc bán đảo Mã Lai. Quốc gia này tồn tại đến khoảng nửa thế kỷ VII (sau năm 627) thì bị nước Chân Lạp tiêu diệt.

+ Chân Lạp trước kia vốn là nước thuộc quốc của Phù Nam (chư hầu, lệ thuộc), tồn tại trên phần phía Nam của bán đảo Đông Dương (là nhà nước của ngưi Khơme, Campuchia ngày nay). Các vương quốc láng giềng xung quanh gm Chăm Pa (Lâm p) ở phía Đông, Phù Nam ở phía Nam và Dvaravati (thuộc Thái Lan ngày nay) ở về phía Tây bắc. Đến thế kỷ VI (khoảng năm 550), họ giành được độc lập, lập ra nước Chân Lạp và dần dần xâm chiếm được miền Bc của Phù Nam, trong thế kỷ VII, Chân Lạp đã thôn tính toàn bộ Phù Nam.

+ Phù Nam và Chân Lạp là hai quốc gia độc lập. Các tư liệu trong thư tịch

 

 


cổ Trung Quốc cũng phân biệt rất rõ Phù Nam với Chân Lạp (quốc gia của người Khơme). Sử ký của nhà Tùy (581-618) chép rng nước Chân Lạp ở về phía Tây nam Lâm p[2] (Chămpa), nguyên là một chư hu cùa Phù Nam. Vua nước ấy là Ksatriya Citrasena đã đánh chiếm và tiêu diệt Phù Nam. Sử ký nhà Đường (618 -907) cũng chép: “Trong nước (Phù Nam) bấy giờ có thay đi lớn. Nhà vua đóng đô ở thành Đặc Mục, thình lình bị nước Chân Lạp đánh chiếm, phải chạy trốn về miền Nam, trú ở thị trấn Na Phất Na”[3]. Năm 627 Phù Nam còn tiến công nhà Đường lần cuối cùng, trước khi bị Chân Lạp tiêu diệt. (Những sự kiện được chép trên đây din ra vào đầu thế kỷ VII).

+ Hai nước Phù Nam và Chân Lạp có đặc điểm kinh tế, văn hóa xã hội khác nhau. Chân Lạp là quc gia của người Khơme, xuất hiện ở vùng trung lưu sông Mê Kông, khu vực Bin Hồ[4], lấy nông nghiệp là nghề chính. Còn Phù Nam là một quốc gia ven bin có truyền thống hàng hải và thương nghiệp khá phát triển. Trong thời kỳ Phù Nam cường thịnh đã có nhiều nước nhỏ thần phục với tư cách là những thuộc quốc hoặc chư hầu, trong đó có Chân Lạp. Vào đầu thế kỷ VII, nhân lúc Phù Nam suy yếu, Chân Lạp đã đánh chiếm, Nhà nước Phù Nam bị diệt vong, lãnh th Phù Nam về tay Chân Lạp.

+ Phù Nam và Chân Lạp có nền văn hóa cổ khác nhau. Theo các số liệu khảo cổ học, các hiện vật tìm thấy ở di chỉ khảo cổ Óc-Eo (thuộc tỉnh An Giang)[5] đã chứng minh về sự tồn tại của một nền văn hóa cổ của người Phù Nam cách đây gần 2.000 năm, có trước nền văn minh Ăng Co của người Khơme mấy trăm năm. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy tất cả những di tích thuc văn hóa Óc-Eo đều là của người Phù Nam, khác biệt so với văn hóa Khơme.

+ Từ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ thứ XVI, Nam Bộ (kể cả Phù Nam) thuộc về Chân Lạp nhưng vùng đất này chưa có sự quản lý về mặt hành chính của Nhà nước Chân Lạp. Sau khi chiếm được Phù Nam, vùng đất này được gọi là Thủy Chân Lạp (vùng hạ, thấp, sông nước). Việc cai quản vùng lãnh thổ mới này đối với Chân Lập hết sức khó khăn vì đây là vùng đồng bằng mới bồi lấp, còn ngập nước và sình lầy, người Khơme với dân số ít ỏi, trình độ sản xuất manh mún, chưa th tổ chức khai thác trên quy mô lớn. Hơn nữa, việc khai khẩn đất đai trên lãnh thổ của Lục Chân Lp (vùng trên, cao, lục địa) đang đòi hỏi rất nhiều thời gian và sức lực. Do vậy, nước Chân Lạp dồn sức phát triển ở Lục Chân Lạp, nhất là các vùng trung tâm truyền thống ở khu vực Biển Hồ (Campuchia), trung lưu sông Mê Kông và bành trướng sang phía Tây. Nhờ đó, Chân Lạp tr thành một quốc gia cường thịnh, có nền văn minh Ăng Co rực rỡ, mở rộng lãnh th lên tận

 

 


Nam Lào và đến cả khu vực sông Mê Nam (còn gọi là Chao Phaya, thuộc Thái Lan).

Do chiến tranh và phải tập trung công sức phát triển các trung tâm ở lục địa, sau gần 10 thế kỷ thuộc Chân Lạp, Nam Bộ nói chung, nht là Min Tây Nam Bộ nói riêng vẫn là một vùng đất hoang sơ.

+ Bắt đầu từ thế kỷ XIV, khi vương quốc Ayuthaya (vương quốc Xiêm)[6] hình thành, Chân Lạp phải lo đối phó với sự bành trướng của vương triều Xiêm từ phía Tây, kinh thành Ăng Co đã có lúc bị quân Xiêm chiếm đóng. Nội bộ mâu thuẫn, tranh giành quyên lực, Chân Lạp bước vào thời kỳ suy yếu.

- Từ thế kỷ XVI trở đi, Nam Bộ thuộc chủ quyền của nước ta.

+ Trong lịch sử, Nhà Nguyễn vn có quan hệ bang giao rt tt với triều đình Chân Lạp. Trong khi Chân Lạp không có điều kiện quản lý vùng đất phía Đông vốn thuộc nước Phù Nam trước đó (Nam Bộ ngày nay), nhiu cư dân người Việt đã vào vùng Mô Xoài, Đồng Nai (miền Đông Nam Bộ) khai khẩn đất hoang, lập làng sinh sống, sau đó phát triển đến các vùng đất phía Tây.

+ Năm 1623 chúa Nguyễn chính thức yêu cầu triều đình Chân Lạp để cho dân Việt mở rộng địa bàn khai phá trên những vùng đất thưa dân và để quản lý, chúa Nguyễn lập ở Pray Kor (vùng Sài Gòn ngày nay) một trạm thu thuế. Vua Chân Lạp đã chấp thuận đề nghị này[7].

+ Trong thời kỳ này sự thần phục của các nhóm di thần nhà Minh góp phn đẩy nhanh quá trình xác lập chủ quyền của chúa Nguyễn trên lãnh thổ Nam Bộ. Năm 1671, một quan lại nhà Minh tên Mạc Cửu cùng với 400 người đổ bộ lên vùng đất hoang vu trong vịnh Thái Lan và xin thần phục vương triều Khơme. Năm 1681, vua Chân Lạp Jayajettha IV cho Mạc Cửu khai thác vùng đt dọc bờ biển phía Nam Campuchia, gọi là Căn Khẩu. Sau nhiều lần bị hải tặc Xiêm La đánh phá và không được vua Khơme hỗ trợ, Mạc Cửu xin thần phục chúa Nguyễn, vùng đất Căn Khẩu đổi tên thành Long Hồ dinh, sau này là Hà Tiên của Việt Nam[8].

Tháng 5/1735, Mạc Cửu mất, con của Mạc Cửu là Mạc Thiên Tứ đã tận tình giúp các vua Khơme đánh trả quân thù đ bảo vệ ngôi báu, sau mỗi chiến công, các vua Khơme trao tặng đất đai để tưởng thưởng, nhờ đó mà đất đai bờ cõi ngày càng rộng mở.

Từ năm 1679 chúa Nguyễn Phúc Tần đã tạo điều kiện để nhóm Dương Ngạn Địch cùng nha môn, quân sĩ vùng Quảng Tây t chức khai phá và phát triến kinh tế vùng lưu vực sông Tiền Giang (Mỹ Tho); cho nhóm Trần Thượng Xuyên và những đồng hương Quảng Đông của ông chiêu dân tiếp tục mở mang vùng Biên Hòa - Đồng Nai. Trong vòng gần 20 năm, một vùng đất trải dài từ Bà Rịa đến sông Tiền Giang, vốn đã được cư dân Việt đến sinh cư lập nghiệp từ trước, nhanh chóng trở thành những trung tâm kinh tế quan trọng với nhiều làng mạc trù phú,

 

 


phố phường sầm uất, hải cảng nhộn nhịp, có thuyền buôn Trung Quốc, Nhật Bản và một số nước khác tới giao lưu buôn bán.

+ Từ năm 1698, chủ quyn thực tế của Việt Nam đối với vùng đất Nam Bộ được xác lập: Chúa Nguyễn Phúc Chu cử Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý vùng đất Nam Bộ và thiết lập đơn vị hành chính ở đây là phủ Gia Định, m rộng đất đai, chiêu mộ dân di cư từ Bố Chánh (Quảng Bình) trở vào Nam, thành lập xã thôn, đặt chức Giám quân, Cai bộ và Ký lục để cai trị. Đó là sự xác lập quyền lực nhà nước, khẳng định chủ quyền trên thực tế của Việt Nam đối với vùng đất Nam Bộ.

+ Từ năm 1732 đến nãm 1775, do tình hình nội bộ phức tạp[9], các đời vua Chân Lạp đã nhiu lần tự nguyện cắt đất trao cho Chúa Nguyễn để đền ơn dẹp loạn, cứu giúp lúc hoạn nạn và giành lại ngôi vua. Đáng lưu ý là vào năm 1757, Vua Nặc Tôn đã cắt vùng đất Tầm Phong Long (tương đương vùng Tứ giác Long Xuyên ngày nay[10]) cho chúa Nguyễn[11]. Năm 1759, toàn bộ lãnh th đồng bằng sông Cửu Long chỉnh thức được sáp nhập vào lãnh thổ của nhà Nguyễn. Đến đây quá trình xác lập chủ quyền lãnh th của Việt Nam đối với vùng đất Nam Bộ nói chung, Miền Tây Nam Bộ nói riêng cơ bản hoàn thành.

- Thế kỷ XVII - XVIII, Nhà Nguyễn tiếp tục lập ra các đơn vị hành chính, b trí quan lại, lập s sách quản lý dân cư, đất đai và định ra các loại thuế. Sau năm 1744, vùng đất Nam Bộ được chia thành 4 dinh (ở miền Đông có dinh Trấn Biên, Phiên Trân, ở miền Tây có dinh Long Hồ, Hà Tiên).

- Dưới triều Nguyễn, hệ thống hành chính tiếp tục được hoàn thiện và thống nhất quản lý trên quy mô cả nước. Năm 1836, vua Minh Mạng cho lập s địa bạ toàn bộ 6 tỉnh Nam Kỳ (trong đó: 3 tỉnh miền Đông gồm Phiên An, Biên Hòa, Định Tường và 3 tỉnh miền Tây gồm Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên; trong đó có tất cả 10 phủ, 25 huyện, 135 tổng với 1.637 xã, thôn, phường).

- Đ bảo vệ chủ quyền lãnh th đối với vùng đất phía Nam, triều Nguyễn đã lãnh đạo nhân dân đánh bại các cuộc tiến công của quân Xiêm vào các năm 1715, 1771... Năm 1785, anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ đã đánh tan cuộc xâm lược của quân Xiêm trong trận Rạch Gầm - Xoài Mút (Tiền Giang ngày nay). Triều Nguyễn cũng cho xây dựng hệ thống các đồn lũy để trấn thủ biên giới.

 

 


- Thi Pháp thuộc, 6 tỉnh Nam Kỳ, trong đó có 3 tỉnh Miền Tây Nam Bộ do thực dân Pháp cai quản, đến năm 1949 thì giao trả cho Quc gia Việt Nam[12].

- Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc đấu tranh của nhân dân Min Tây Nam Bộ, trong đó có dân tộc Khơme tiếp tục phát triển, cùng cả nước làm nên cách mạng Tháng Tám năm 1945, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc.

- Thắng lợi vẻ vang của hai cuộc kháng chiến chống thực dân đế quốc xâm lược và chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam đã khẳng định quan đim, chủ trương của Đảng, Nhà nước, lòng dũng cảm, kiên định, sự hy sinh xương máu của nhân dân ta đê bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, trong đó có Miền Tây Nam Bộ.

b) Lịch s hình thành cộng đồng dân trên vùng đất Tây Nam Bộ

- Min Tây Nam Bộ hiện nay có nhiu tộc người sinh sng, trong đó có 4 dân tộc chiếm tỉ lệ dân số cao là: người Việt (người Kinh); người Khơme, người Hoa, người Chăm. Ngoài ra còn một số tộc người có số lượng ít như Tày, Nùng, Ngái, Mnông, Striêng, Mường, Chơ ro, Châu mạ, K’ho...

Trong quá trình phát triển, cộng đồng cư dân Miền Tây Nam Bộ, bao gồm những người bản địa đã có mặt từ trước và lưu dân từ nơi khác đến, đã cùng nhau khai khẩn đất hoang, đoàn kết, chống lại thú dữ, thiên tai để sinh tồn.

Theo các tài liệu sử học, khảo cổ, địa lý..., từ khoảng 500 năm trước Công nguyên, đng bằng châu th sông Cửu Long đã được nổi lên trên mặt nước biển. Thông qua di chỉ Óc-Eo - Ba Thê, con người từng có mặt ở nơi đây vào đầu Công nguyên nhưng do chưa đủ sức chống chọi thiên nhiên để tồn tại và phát trển nên nền văn hóa Óc-Eo chỉ tồn tại trong thời gian ngắn rồi biến mất. Từ thế kỷ X trở đi, do biển rút dần, nhũng vùng đất ở Đồng Tháp Mười, Sóc Trăng, Trà Vinh, Trà Cú... đã nổi lên thành những vùng đất màu mỡ.

- Người Khơme có mặt ở Miền Tây Nam Bộ từ rất sớm nhưng số lượng ít, sông rải rác một s rẻo đt hoang vừa được khai phá, có tính biệt lập, chưa quc gia nào thiết lập quan hệ quản lý hành chính đi với họ. Ban đầu chỉ là một s người nông dân Khơme nghèo muốn thoát khỏi áp bức, bóc lột của chế độ “Ăng Co”, họ từ từ di cư đến Miền Tây Nam Bộ. Nhưng càng về sau, nhất là từ thế kỷ XV trở đi, Campuchia rơi vào nội chiến và bị quân Xiêm (Thái Lan) đánh phá liên tục, dòng người di cư xuống đồng bằng sông Cửu Long ngày càng đông. Tuy nhiên, cho đến giữa thế kỷ XIX, người Khơme ở Nam Bộ cũng chỉ có 146.718 ngưi. Hiện nay, có trên 1,2 triệu người Khơme sinh sống ở Miền Tây Nam Bộ, tập trung nhất là ở các tỉnh Cần Thơ, Sóc Trăng, Trà Vinh, Vĩnh Long, Kiên Giang, An Giang, Bạc Liêu, Cà Mau.

Người Khơme ở đây chủ yếu sống bằng nghề nông. Sản xuất nông nghiệp của người Khơme mang tính cht độc canh, chủ yếu là trồng lúa, vốn là một nền sản xuất nhỏ, mang tính tự cấp, tự túc. Đời sống kinh tế còn nhiều khó khăn.

 

 


Theo số liệu của y ban Dân tộc miền núi, hiện nay cả vùng Khơme Tây Nam Bộ mới chỉ có 12,7% số hộ có nhà kiên cố, 59% nhà tre lá lụp sụp.

Hầu hết người Khơme theo đạo Phật. Trong mỗi phum, sóc[13] đều có 1 đến 2 ngôi chùa làm nơi sinh hoạt tín ngưỡng, văn hóa cộng đồng. Đạo phật có ảnh hưởng lớn trong xã hội, tng lp sư, sãi có vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống chính trị - xã hội, văn hóa của người Khơme ở Miền Tây Nam Bộ.

Người Khơme có truyn thống yêu nước, đoàn kết với các dân tộc anh em trong vùng, đã góp phn tích cực vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ T quc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tình đoàn kết giữa người Khơme và người Việt cũng như các dân tộc anh em ngày càng gắn bó thủy chung. Tuy nhiên, bên cạnh truyn thng tt đẹp, một s nơi trong vùng dân tộc Khơme vn còn có biu hiện mâu thuẫn, kỳ thị giữa người Khơme và người Việt vì nhiều nguyên nhân do lịch sử để lại. Các thế lực thù địch, phản đng luôn tìm mọi cách lợi dụng, kích động làm cho vn đề dân tộc ngày càng phức tạp.

- Người Hoa bắt đầu di cư đến vùng đất Tây Nam Bộ vào thế kỷ XVII- XVIII: Năm 1671, Mạc Cửu cùng với 400 người Hoa lánh nạn sang khai phá vùng đất Hà Tiên, sau đó m rộng ra Phú Quốc, Rạch Giá, Cà Mau. Sau khi Mạc Cửu xin thần phục, nhà Nguyễn phong Mạc Cửu làm Tổng binh trấn Hà Tiên, cho xây dựng thành lũy, mở mang phố xá, dân cư nhiều nơi khác đến, Hà Tiên trở thành đô thị sầm uất. Vào năm 1769, khoảng 5000 quan, quận nhà Minh không chịu thần phục Mãn Thanh đã vượt biển vào cảng Đà Nng xin hàng chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn Phúc Tần cho số này lập nghiệp tại Biên Hòa (Đồng Nai) và Mỹ Tho (Tiền Giang) làm cho Nam Bộ ngày càng thịnh vượng.

Hiện nay, người Hoa ở Miền Tây Nam Bộ có gần 200.000 người, chiếm khoảng 1,24% dân số toàn vùng Tây Nam Bộ và chiếm khoảng 23,2% dân số người Hoa trong toàn quốc. Họ sống tập trung nhiều nhất ở các tỉnh Bạc Liêu, Tiền Giang, An Giang, Vĩnh Long, Cà Mau...

Trên vùng đất Tây Nam Bộ, người Hoa sống hoà đồng với các dân tộc khác; với nghề buôn bán là chủ yếu. Người Hoa rất có ý thức và năng lực kinh doanh, thương mại, chịu khó làm lụng, ít quan tâm đến chính trị. Họ ít tham gia các hoạt động của cộng đồng chung, song tính cộng đồng trong nội bộ người Hoa rất cao. Các hội tương trợ của các dòng họ người Hoa liên kết lại thành các tổ chức chặt chẽ, có quy mô lớn và hoạt động rất hiệu quả.

Ngoài tín ngưỡng thờ các vị thần khác nhau, người Hoa còn theo đạo Phật. Bên cạnh những nét đặc sắc trong phong tục tập quán, th hiện qua thờ tự, nghi thức hành lệ, tín đ người Hoa cũng lập Hội Phật học ly tên là Minh nguyệt cư sĩ Lâm Phật học hội. Tổ chức này có mặt tại nhiều tnh đồng bằng sông Cửu Long như Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Cần Thơ, Đồng Tháp... Đây là nh thức tương trợ, động viên nhau rất hiệu quả trong cộng đồng người Hoa.

- Người Chăm ở Tây Nam Bộ còn gọi là người Chàm, người Chiêm, dân Chiêm Thành, người Hời, có nguồn gc xuất xứ từ min Trung Trung Bộ, nguyên

 

 


là cư dân nước Chămpa[14]. Vào thế kỷ XIV - XV, một bộ phận người Chăm ở Ninh Thuận di cư đi nhiều nơi, sau đó về tụ cư thành từng làng (Palay) dọc theo sông Hậu, trên các cù lao thuộc các huyện Phú Châu, Phú Tân, Châu Phú, tỉnh An Giang vào nửa đầu thế kỷ XIX. Nhóm cộng đồng Chăm cùng theo đạo Hồi (Islam), một tôn giáo du nhập từ bên ngoài vào Nam Bộ. Trong vùng đất Tây Nam Bộ, đa số người Chăm sống ở An Giang, hiện có trên 14.200 người, hầu hết đều cư trú giáp biên giới Campuchia.

- Người Việt có công lớn nhất trong quá trình chinh phục đồng bằng sông Cửu Long, hình thành vùng đât Tây Nam Bộ. Cũng như người Khơme, người Hoa, đu tiên người Việt đến đây cũng vì lý do lánh nạn chiến tranh, áp bức bóc lột nặng n. Họ đi khai phá đt hoang và chung sống hòa bình với người Khơme.

Ngoài những cư dân đã có mặt từ trước, từ cuối thế kỷ XVI, nhất là thế kỷ XVII, XVIII và đầu thế kỷ XIX người Việt miền Trung, miền Bắc đã di cư vào Nam Bộ. Ban đu người Việt đến ngụ cư ở Mũi Xuy (Bà Rịa), Bàn Lân (Biên Hòa), sau đó phát triển đến các khu vực Bến Nghé, Sài Gòn, rồi Vĩnh Long, Hà Tiên... Trước khi Mạc Cửu cùng họ hàng đến Hà Tiên, từ năm 1665, một số người Việt ở Phnom Penh cũng đã chạy về Hà Tiên và Phú Quốc để khai khẩn đất đai, tìm nơi cư trú.

Từ khi nhà Nguyễn thực thi chính sách khai phá đất đai, mở cõi, lập hệ thng chính quyên cai trị, làn sóng người Việt di cư vào Nam ngày càng đông đúc, trở thành chủ nhân chính trong cộng đồng dân cư Nam Bộ nói chung, Miền Tây Nam Bộ nói riêng. Hiện nay, người Việt chiếm 93% dân số các tỉnh, thành Miền Tây Nam Bộ.

Quan hệ tộc người ở Tây Nam Bộ đã được thiết lập lâu bền trong lịch sử bởi những người nông dân nghèo từ nhiều nơi khác đến để tìm kế sinh nhai, ở đây đã diễn ra quá trình hòa hợp, hội nhập giữa người Việt và các tộc người thiu số trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Đó cũng là xu hướng chủ đạo, xuyên sut tiến trình hình thành và phát triển vùng đất Tây Nam Bộ và cộng đồng cư dân nơi đây. Do vậy, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đều mang dấu ấn của người Việt với tư cách là dân tộc chiếm đa số, chủ nhân chính, trung tâm đoàn kết cộng đồng các dân tộc trên vùng đất Tây Nam Bộ.

Trải qua hơn ba thế kỷ với biết bao thăng trầm của lịch sử, nhiều thế hệ người Việt Nam (với ý nghĩa cộng đồng cư dân đa dân tộc) đã đổ biết bao công sức để dựng xây và bảo vệ vùng đất Tây Nam Bộ. Mỗi tấc đất nơi đây đều thấm đẫm mồ hôi và máu của người dân đất Việt. Chính vì thế mà đối với mỗi người dân Việt Nam, Nam Bộ nói chung, Miền Tây Nam Bộ nói riêng không đơn thuần chỉ là vấn đề chủ quyền lãnh thổ mà cao hơn thế, còn là vùng đất của những giá trị thiêng liêng, trường tồn cùng dân tộc.

Như vậy, chủ quyền của Việt Nam đối với Miền Tây Nam Bộ nói riêng và Nam Bộ nói chung đã được khẳng định từ rất sớm bằng sự xuất hiện của người Việt, là chủ nhân chính khai hóa một cách hòa bình các vùng đất còn hoang sơ vốn thuộc nước Phù Nam đã bị diệt vong; đồng thời bằng việc xác lập quyền

 

 


quản lý hành chính liên tục, trên thực tế của Nhà Nguyễn kể từ năm 1698.

Tuy nhiên, các thế lực thù địch, cơ hội, phản động cho rằng vùng đt Nam Bộ nói chung, Miền Tây Nam Bộ nói riêng từ xưa vn thuộc lãnh thổ của người Khơme - Campuchia, bị thực dân Pháp xâm chiếm rồi giao cho Việt Nam. Lập luận chủ yếu, mà không có căn cứ khoa học của quan niệm này là đồng nhất nước Phù Nam ở trung tâm của vùng hạ lưu sông Mê Kông với nhà nước đu tiên của người Khơme (nước Chân Lạp trước đây). Thực tế lịch sử cho thấy: Vùng đất Tây Nam Bộ trước đây thuộc nước Phù Nam độc lập, từng bị Chân Lạp xâm chiếm nhưng Chân Lạp đã không khai phá và xác lập quyền cai quản thực tế, Người Việt từ lâu đã cùng với cư dân các tộc người Hoa, Khơme, Chăm khai phá và phát triên vùng đt này. Quá trình mở cõi, khai phá và xác lập chủ quyn thực tế của Nhà Nguyễn Việt Nam đối với Vùng đất Tây Nam Bộ là hoàn toàn hợp pháp.

3. Cơ s pháp lý khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối vi vùng đất Tây Nam Bộ

a) Chủ quyền của Việt Nam đối với vùng đất Tây Nam Bộ được khẳng định bằng các văn bản có giá trị pháp lý, được cộng đồng quốc tế, trong đó có chính phủ Campuchia tha nhận             

Hiện nay vấn đề chủ quyền của Việt Nam đối với vùng đất Nam Bộ nói chung, trong đó có Miền Tây Nam Bộ đã được luật pháp quốc tế thừa nhận. Chính phủ và luật pháp Campuchia cũng hoàn toàn thừa nhận. Điều này thể hiện ở các văn bản Hiệp ước quan trọng mà các bên đã ký kết.

- Hiệp ước giữa An Nam (Việt Nam), Xiêm (Thái Lan) và Cao Miên (Campuchia), ký tháng 12/1845 đã thừa nhận về mặt pháp lý, Nam Kỳ lục tỉnh thuộc về Việt Nam.

- Hiệp ước năm 1846 giữa An Nam và Xiêm tiếp tục xác nhận nội dung này: Sau đó, Cao Miên cũng đồng ý và tham gia Hiệp ước này.

- Hiệp ước Việt - Xiêm năm 1847 với sự chứng kiến của vua Cao Miên là Ang Dương, khẳng định vùng đất Nam Kỳ thuộc chủ quyền Việt Nam. Hiệp ước đã công nhận Ang Dương là vua Cao Miên, nhưng Cao Miên nhận là chư hầu của hai nước Việt và Xiêm; Cao Miên cũng xác nhận vùng đất Nam Kỳ thuộc về Việt Nam.

- Hiệp ước Pháp - Tây Ban Nha và Nhà Nguyễn (Việt Nam), ký tại Sài Gòn ngày 05/6/1862 và trao đổi văn bản phê chuẩn tại Huế ngày 14/4/1863, đã khẳng định quyền lực của Việt Nam trên lãnh thổ Nam Kỳ. Nhưng triều đình Nhà Nguyễn bất lực, đã nhượng 3 tỉnh miền Đông (1862) và 3 tỉnh miền Tây (1874) cho Pháp[15]. Chính phủ Campuchia lúc đó không có phản ứng gì.

- Hiệp ước Xiêm - Cao Miên ngày 01/12/1863 chứng tỏ cả Campuchia và Xiêm đều công nhận Nam Kỳ là một vùng đất không phải là của Campuchia (“Campuchia nằm giữa các lãnh thổ Xiêm, Nam Kỳ”); điều đó cũng có nghĩa là

 

 


vùng đất Nam Kỳ thuộc về Việt Nam.

- Trong thời Pháp thuộc, ranh giới giữa hai nước Việt Nam và Campuchia được phân định bao gồm hai đoạn: đoạn biên giới giữa Nam Kỳ với Campuchia và đoạn biên giới giữa Trung Kỳ với Campuchia. Đoạn biên giới ở Nam Kỳ (từ Tây Ninh đến Hà Tiên) được hình thành trên cơ sở các thỏa ước được ký kết giữa Pháp với Campuchia:

+ Thỏa ước Pháp - Campuchia ngày 09/7/1870.

Đ chuẩn bị cho việc soạn thảo và ký kết Thỏa ước, tháng 3/1870, Ủy ban liên hợp Pháp - Campuchia đã được thành lập. y ban này có nhiệm vụ nghiên cứu vạch ra một đường biên giới giữa Nam Kỳ và Campuchia, đề xuất xác định 19 cột mốc từ Tây Ninh đên Hà Tiên. Trên cơ sở đề xuất của Ủy ban này, hai bên đã nhất trí tiến hành phân ranh trên thực địa và cắm được 16/19 cột mốc từ bờ sông Tônlê Tru (mốc S l, giáp Tây Ninh) đến điểm rạch Tà Sang gặp rạch Cái Cậy (mốc số 16), chưa thống nhất được biên giới khu vực Hà Tiên.

+ Thỏa ước Pháp - Campuchia ngày 15/7/1873.

Ngày 15/7/1873, Quốc vương Campuchia Norodom và Thống đốc Nam Kỳ, Chuẩn đô đốc Dupré nhân danh Chính phủ Pháp đã ký tiếp Thỏa ước về biên giới giữa Vương quốc Campuchia và Nam Kỳ thuộc Pháp. Đường biên giới được hai bên nht trí thỏa thuận lần này là một đường biên giới được xác định dứt khoát, rành mạch, dựa vào các con sông hay các biến đổi địa hình khá ổn định, rõ ràng đ xác định đường biên giới, tránh mọi tranh chấp về sau. Thỏa ước cũng đã quy định các đim chính mà đường biên giới sẽ đi qua. Điểm xuất phát là tại cột mốc số 1 đặt trên bờ sông Tônlê Tru đến làng Giang Thành và từ đó đi thẳng đến Hà Tiên (Kiên Giang).

Với hai Thỏa ước nói trên đường biên giới giữa Campuchia và Nam Kỳ đã được xác lập đầy đủ trong thời Pháp thuộc[16].

- Trước những thắng lợi liên tiếp của nhân dân Việt Nam trong công cuộc kháng chiến chống Pháp, ngày 04/6/1949 Tổng thống Pháp Vincent Auriol đã ký Bộ luật s 49-733 trả lại Nam Kỳ lục tỉnh cho “Quốc gia Việt Nam”, đại diện là Bảo Đại. Điu 2 của Luật quy định “Vùng đất Cochinchine được trao lại nhà nước thuộc địa Việt Nam theo Tuyên bố chung ngày 05/6/1948 và Tuyên bố của Chính phủ Pháp ngày 19/8/1948. Vùng đất Cochinchine không còn nằm trong quy chế lãnh thổ thuộc Pháp”[17].

Trước khi Chính phủ Pháp chuẩn bị trao trả lại vùng đất Nam Bộ cho Việt

 

 


[1] Tổng chiều dài đường biên giới Việt Nam - Campuchia: 1.137 km.

[2] Lâm Ẩp là một vương quốc đã tồn tại từ khoảng năm 192 đến khoảng năm 605, tại vùng đất từ Quảng Bình đến Quảng Nam. Vương quốc này được coi là giai đoạn khỏi đầu cho lịch s Chămpa độc lập.

[3] Vũ Minh Giang: Quá trình xác lập ch quyn lãnh thổ phía nam của Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Biên giới Tây Nam, ĐHQG HN, 1996. *

[4] Biển Hồ (hay Tonlé Sap) là một hệ thống kết hợp giữa hồ và sông có tầm quan trọng to lớn đi với Campuchia. Đây là h nước ngọt lớn nhât Đông Nam Á và được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thê giới nãm 1997. Tonlé Sap có nghĩa là "sông nước ngọt lớn" nhưng thông thường được dịch là "Hồ Lớn", "Biển Hồ"

[5] “Óc Eo” là tên gọi di ch ở núi Ba Thê, hiện nay thuộc thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn, tnh An Giang. Nơi này đã từng tồn tại một hải cảng sầm uất của vương quốc Phù Nam từ thế kỷ I đến thế kỷ VII. Lý do quan trọng nhất cho sự thịnh vượng cùa Óc Eo là do vị trí cùa nó trên trục đường thương mại trên biển giữa một bên là bán đảo Mã Lai và Ẩn Độ với bên kia là sông Mê Kông cùng với Trung Quốc. Vào thời kỳ phồn thịnh của Óc Eo và Phù Nam, tàu thuyền trong khu vực có thể thực hiện những hải trình rất dài mà không phải đi dọc theo bờ biển. Do vậy, về mặt chiến lược, Óc Eo là một địa điểm trung chuyển rất thuận lợi.

[6] Vương quốc Ayutthaya (A-yut-tha-da; Xiêm) là một vương quốc của người Thái tồn tại từ năm 1351 đến 1767.

[7] Sỹ Khải: Nghiên cứu văn hoá khảo cổ Óc Eo: mười năm nhìn lại, Khảo cổ học, số 4/1985.

[8] Trên thực tế từ năm 1665 số người Việt sinh sống ở Phnom Penh đã chạy về trú vùng Hà Tiên và Phú Quốc. Trước khi Mạc Cửu đến; vào thời điểm này lãnh thổ Hà Tiên gồm các vùng Long Cai, Cần Vọt, Vũng Thơm, Rạch Giá, Cà Mau và đảo Phú Quốc.

[9] V nội bộ Chân Lạp, sau cái chết của vua Chey Chettha II (1628), Chân Lạp rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng, các đi vua liên tiếp tranh nhau quyền lực, người thì dựa vào thế lực Xiêm, người lại đi tim sự giúp đỡ từ chúa Nguyễn. Năm 1674, dưới sự dàn xếp của chúa Nguyễn, Chân Lạp tưong đổi n định nhưng lại chia làm hai. Chúa Nguyễn phong cho Nặc Thu (Chey Chettha 111 - Preh Ong Su hay Chau Po Nhia Su) làm Chính quốc vương, đóng đôU Đông và Nặc Nộn (Preh Ong Nuôn), thân Việt, làm Phó Quốc vương đóng ở Sài Gòn. Cả hai đều phải triều cống chúa Nguyễn. Năm 1691, Phó Quốc Vương Nặc Nộn Sài Gòn qua đời, khu vực phía đông Campuchia (vùng Nam bộ nay) không có đại diện cùa vương triu Chân Lạp cai quản nữa.

[10] Tứ giác Long xuyên: 4 góc là Rạch giá và Hà Tiên (Kiên Giang), Châu Đốc và Long Xuyên (An Giang).

[11] Năm 1732, sau khi được chúa Nguyễn giúp dẹp xong một bộ tộc Lào “làm loạn”, Vua Ong Chi (Preh Satha H) đã trao 2 tnh là Mê So (Mỹ Tho) và Long Hồ (Vĩnh Long) cho chúa Nguyễn; Vua Nặc Tôn (Bat Ria chia Thip Pạ đây III) truóc khi mất (1757) đã đồng ý nhượng lại tỉnh Phsa Đéc (Sa Đéc) và hai huyện Tâm Đôn, Xuy Lạp thuộc tĩnh Long Hồ (Vĩnh Long) cùng tỉnh Moát Chruc (Châu Đốc) cho chúa Nguyễn (đất Tầm Phong Long). Năm 1758 Ong Ton đã dâng cho chúa Nguyễn hai tỉnh là Pre T’ro Peng (Trà Vinh) và Khleng (Sóc Trăng).

[12] Theo Hiệp ước Pháp - Tây Ban Nha và Nhà Nguyễn, ký tại Sài Gòn ngày 05/6/1862, triều đình Nhà Nguyễn đã nhượng 3 tình miền Đông (1862) và 3 tỉnh miền Tây (1874) cho Pháp (thực tế Pháp đã chiếm đóng 3 tỉnh miền Tây từ năm 1867). Đến năm 1949, trước nhng thắng lợi liên tiếp cùa nhân dân Việt Nam, ngày 04/6/1949 Tổng thống Pháp đã ký Bộ luật số 49-733 trả lại Nam Kỳ lục tỉnh cho “Quốc gia Việt Nam”, đại diện là Bảo Đại.

[13] Phum là một đơn vị cư trú của người Khơme bao gồm một số gia đình sống quần cư, vừa có quan hệ huyết thống, vừa cỏ quan hệ láng giềng, sỏc là một địa vực cư trú cùa nguời Khơme giống như làng cùa người Việt.

[14] Lịch sử nước Chămpa cổ, bao gồm các quốc gia Hồ Tôn, Lâm Áp, Hoàn Vương, Chiêm Thành (Campanagara) và Thuận Thành (Nagar Cam), độc lập được từ năm 192 và kết thúc vào 1832.

[15] Vua Minh Mạng năm 1832 đã đặt ra Nam Kỳ và chia thành 6 tỉnh nên gọi là Nam Kỳ Lục tỉnh hay Lục tỉnh. Trong đó, 3 tỉnh ở miền Đông gồm: Phiên An (năm 1836 đôi lại thành Gia Định), Biên Hòa, Định Tường; 3 tinh ở miền Tây gồm: Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Trên thực tế Pháp đã chiếm 3 tinh miền Tây từ năm 1867.

[16] Tuy nhiên do có những phát sinh trong quá trình qun lý thực tế, nên sau đỏ, đường biên giới này dù được xác định là “dứt khoát” nhưng đã được điều chnh một sổ điềm bi 5 Nghị định khác nhau cùa Toàn quyền Đông Dương. Cụ thể:

     1. Nghị định ngày 10/12/1898: sa đổi một đoạn trên biên giới giữa Tây Ninh và tnh Svey-riêng.

     2. Nghị định ngày 20/3/1899: điều chỉnh đoạn biên gii thuộc tnh Long An và Svey- riêng.

     3. Nghị định ngày 31/7/1914: có 3 điểu sửa đổi biên giới liên quan đến các đoạn biên gii:

     Đoạn biên giới giũa tnh Hà Tiên và Campot. Đoạn biên giói giữa tnh Tây Ninh và Prey-veng.

     Đoạn biên giới giũa tnh Thủ Dầu Một và Kôngpông Chàm.

      4. Nghị định ngày 6/12/1935: thay đổi ranh giới giũa Châu Đốc và Candal, gia sông Mê Kông và sông Bassac.

     5. Nghị định ngày 11/12/1936: thay đổi ranh gii giữa các tình Châu Đốc và Prey Veng.

[17] Người Pháp gọi Nam Kỳ Lục Tỉnh là Basse-Cochinchine (vùng Cochinchine "hạ" hay vùng Hạ Đàng Trong).

nguon VI OLET