Chức danh xưa đi vào địa danh Việt Nam

Thứ bảy, 15 Tháng 5 2010 23:17 Lê Trung Hoa

EmailIn

    

      1.Chức danh là tên gọi thể hiện cấp bậc, quyền hạn, nhiệm vụ của một chức. Như những thành phần từ vựng khác, nhiều chức danh đã đi vào địa danh Việt Nam.Trong bài này, chúng tôi  chỉ giới thiệu những địa danh mang những chức danh đã xuất hiện dưới chế độ phong kiến, ngày nay không còn nữa.

1.1.Trước hết là những chức danh có liên hệ tới giáo duc. Trong qui trình giáo dục cổ, thí sinh phải trải qua ba kỳ thi: hương, hội và đình. Thi hương là kỳ thi để lấy cử nhân và tú tài. Chỉ những người đậu cử nhân mới được dự kỳ thi hội. Người đỗ kỳ thi hội không được cấp bằng gì, nhưng mới được phép dự thi đình. Ba người đỗ đầu kỳ thi đình dưới triều Lê được tôn vinh là trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa.

Học: từ gọi tắt của học sinh (học trò được tuyển vào trường lớn có được hưởng học bổng): đường Học Lạc (Nguyễn Văn Lạc 1842 – 1915; tp.HCM).

Nhiêu: từ gọi tắt của nhiêu học, chức vụ được miễn tạp dịch, phải bỏ tiền mua, ở làng xã thời phong kiến: rạch Nhiêu Lộc, đường Nhiêu Tâm (Đỗ Minh Tâm 1840 - ? ; tp.HCM).

Thủ khoa: người đỗ đầu kỳ thi hương: đường Thủ Khoa Huân (Nguyễn Hữu Huân 1813 – 1875; đỗ đầu kỳ thi hương năm 1852; tp. HCM).

: từ gọi tắt của tú tài, người trúng ba kỳ trong thi hương: đường Tú Xương (Trần Tế Xương 1870 -1907; tp.HCM).

Đồ: từ gọi tắt của sinh đồ, người thi hương trúng được ba kỳ, tương đương với tú tài: tỉnh Đồ Chiểu (tức Nguyễn Đình Chiểu 1822 -- 1866; tên tỉnh Bến Tre sau Cách mạng tháng Tám) [6].

Cống: từ gọi tắt của cống sinh, danh hiệu ở đời Lê, chỉ những người trúng cả bốn kỳ (tương đương với cử nhân đời Nguyễn): đường Cống Quỳnh (Cống sinh Nguyễn Quỳnh 1677 -- 1748; tp.HCM).

Nghè: từ dùng trong dân gian để gọi người đỗ tiến sĩ thời phong kiến. Ở tp. HCM có cầu  Thị Nghè. Ở đây có sự hiểu lầm của người bình dân địa phương. Chồng bà Nguyễn Thị Khánh (thế kỷ XVIII, không đậu tiến sĩ) làm thư lại bên Sài Gòn. Để chồng khỏi qua đò làm việc hằng ngày, bà cho bắc một chiếc cầu. Thế là người dân gọi là cầu Bà Nghè, sau sửa là cầu Thị Nghè [7].

Phó bảng: là học vị tiến sĩ (loại vớt), được định thêm vào năm 1829. Địa danh gốc của thị trấn huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang là Mơbiêng (tiếng Pu Péo) [4]. Vì Mơbiêng là địa danh tiếng dân tộc, đối với người Kinh, khó nhớ lại gần âm với từ tổ phó bảng nên người Việt mượn âm từ tổ này. Trường hợp này giống tên đèo ở phía bắc thành phố Nha Trang: Rury là tên viên kỹ sư Pháp có công sửa sang ngọn đèo này nên Pháp dùng tên ông đặt cho đèo. Rury gần âm với từ rù rì của tiếng Việt nên người Việt đã gọi đèo này là Rù Rì [6].

Trạng; từ gọi tắt của trạng nguyên, người đỗ đầu kỳ thi đình. Một hòn núi ở huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình có dáng như người đội mũ cánh chuồn nên mang tên núi Ông Trạng hay núi Trạng Nguyên.

1.2.Kế đến là các chức danh trong chính quyền địa phương. Địa phương ở đây được hiểu là từ cấp xã, ấp đến cấp tổng. Ở cấp này, phần lớn các chức danh ngày nay không còn dùng nữa.

Câu đương: chức coi sóc các việc trong làng. Ông Đỗ Công Tường, có tên thường gọi là Lãnh, làm chức câu đương lại có công đức với địa phương nên người đương thời gọi tắt nơi ông ở là Câu Lãnh. Câu Lãnh sau bị nói và viết chệch thành Cao Lãnh (tỉnh Đồng Tháp).

Trùm: ngưòi đứng đầu một phe giáp, một phường hội thời phong kiến: cầu Trùm Bích, chợ Trùm Rìu, ấp Trùm Tri, cầu Trùm Điếu (tp.HCM).

Hương: từ gọi tắt của hương chủ, một chức lớn trong làng, người có công xây dựng: chợ Hương Điểm (Trần Văn Điểm; tỉnh Bến Tre).

: từ gọi tắt của xã trưởng, người cai quản một xã dưới thời phong kiến, người có công xây dựng chợ: chợ Xã Tài (Lê Tự Tài) nay là chợ Phú Nhuận (tp. HCM).

Cai: từ gọi tắt của cai vệ, một chức trong binh đội, trên bếp dưới đội: rạch Cai Tam, ngã ba Cai Tâm, rạch Cai Trung (tp.HCM); rạch Ông Cai Việc (Trần Văn Hạc; tỉnh Bến Tre).

Cai thuộc: viên chức xã, tương đương lý trưởng. Thuộc Nhiêu là giồng trải dài theo chiều dài sông Tiền và đường Trung Lương đi Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang. Thuộc Nhiêu là Cai thuộc Nguyễn Văn Nhiêu, có công lập chợ Thuộc Nhiêu, cách chợ hiện nay (dời vào khoảng 1962 – 1963) độ 300m [12].

Bang: người đứng đầu một bang của người Hoa. Bang Tra là chợ đầu mối ở xã Nhuận Phú Tân, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre, lập năm 1892. Bang Tra là “ông bang trưởng tên Tra”, người giàu có bỏ tiền xây chợ [11].

Bộ: từ gọi tắt chánh lục bộ nằm trong ban Hội tề dưới thời Pháp thuộc [10]. Chúng tôi tra cứu không thấy từ tổ chánh lục bộ trong từ điển cổ nên nghĩ rằng có lẽ là từ gọi tắt các chức vụ bộ biền (quân lính coi việc đi tuần du), bộ đạo (quân lãnh việc đi bắt trộm cướp) [5]: cầu Bộ Bính, cồn Bộ Hơn, kinh Bộ Xưa (tỉnh Vĩnh Long).

Ký lục là “viên chức phụ trách việc hành chính và lương bổng trong dinh tham biện thời Pháp thuộc”. Thầy Ký là rạch ở huyện Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long [10].

Thủ: từ gọi tắt của thủ ngữ, chức vụ trưởng một thủ, có nhiệm vụ giữ an ninh và thu thuế: Thủ Đức, Thủ Thừa, Thủ Thiêm, Thủ Đoàn,… (Nam Bộ) [6].

Biện: từ gọi tắt của biện làng hay bang biện, chức thư ký trong làng ngày xưa: cống Biện Nhị ở tỉnh Ninh Bình; kinh Biện Nhị ở tỉnh Đồng Tháp. (Nhị có lẽ là tên người) [6].

Tổng: từ gọi tắt của cai tổng hoặc chánh tổng, người đứng đầu một tổng (từ 5 đến 9 xã): rạch Tổng Thể (tp.HCM); Tổng Châu là chợ ở huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang. Tổng Châu là chánh tổng Trần Văn Châu, người quyết định dời chợ về đây [13, 43].

Phán: từ gọi tắt của thông phán, thư ký các ngành ở cơ quan nhà nước thời Pháp thuộc: khu Phán Hùng (tp.HCM).

Thiên hộ: chức võ quan, thường dùng phong cho những phú hộ có đóng góp công của cho địa phương: đường Thiên Hộ Dương (Võ Duy Dương; tp.HCM) [6].

sai: viên chức vận lương bằng thuyền, Xá Hương là sông ở hạ lưu sông Vàm Cỏ Đông, tỉnh Long An. Xá Hương là cách gọi tắt Xá sai Mai Công Hương, bị quân Xiêm vây đánh, ông đục thuyền cho giặc khỏi cướp lương và hi sinh theo thuyền. Người đời sau lấy tên ông đặt cho sông và xây miễu thờ, gọi là miễu Ông bần quỳ (bần quỳ là cây bần có thân cong xuống), tức miễu Ông tại cây bần quỳ.

1.3.Sau cùng là các chức danh vừa lớn trong xã hội cũ.

Trước hết là các chức danh trong quân đội:

Đội: chức vụ trong quân đội thời Pháp thuộc, tương đương tiểu đội trưởng: rạch Ông Đội, hẻm Đội Có (tp.HCM) [7].

Quản cơ: chức quan võ chỉ huy mỗi cơ lính thời Nguyễn, số quân không nhất định (ba bốn trăm người): đường Phó Cơ Điều, tức Phó quản cơ Nguyễn Văn Điều (? – 1868; tp. HCM).

Quản đạo: chức trưởng quan của một đạo, đặt năm Gia Long thứ chín (1810): cầu ( thật ra là đập bằng đá) Ông Đạo (Quản đạo Phạm Khắc Hoè; tp. Đà Lạt).

Tham tướng: phó tướng, chức quan võ chỉ huy quân một khu, một lộ hay một dinh (địa vị dưới tổng binh và phó tổng binh): chợ Tham Tướng (tp. Cần Thơ) [6].

Lãnh binh: chức quan võ nắm quân đội cấp tỉnh thời Nguyễn: đường Lãnh binh Thăng (tức Nguyễn Ngọc Thăng: 1798 – 1866; tp. HCM) [7].

Đề lĩnh: gọi tắt đề, chức quan võ chỉ huy quân đội một tỉnh thời Nguyễn: đường Đề Thám (Hoàng Hoa Thám 1858 – 1913; tp. HCM) [2].

Đề đốc: gọi tắt đốc, chức quan võ chỉ huy quân đội trong một tỉnh: hang Đốc Tít  (Nguyễn Đức Tiết; tp. Hải Phòng) [2].

Đô đốc: chức quan võ cầm đầu một đạo quân thời phong kiến: các đường Đô Đốc Long, Đô Đốc  Lộc (những tướng lĩnh của nhà Tây Sơn; tp. HCM).

Chưởng cơ: chức quan võ cai quản 500 quân: cù lao Ông Chưởng (Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh; tỉnh An Giang); đập Ông Chưởng (Chưởng cơ Mai Tấn Huệ; tỉnh Tiền Giang).

Cai bạ hay cai bộ: chức quan đứng thứ nhì ở trấn thời Gia Long, giữ việc quân lương, thuế khoá, điền thổ, hộ tịch [2]: chợ Ông Bộ (Nguyễn Văn Ngữ;  tp. Nha Trang).

Một số là quan chức vừa và lớn không thuộc hoàng gia:

Huyện: từ gọi tắt của tri huyện, người cai quản một huyện: cầu Huyện Thanh, cầu Ông Huyện, đường Bà Huyện Thanh Quan (tp.HCM),…[7]

Đốc phủ; chức quan lại cao cấp thời Pháp thuộc, trên phủ và huyện, có thể làm quận trưởng hay phó tỉnh trưởng, hoặc đầu phòng ở Soái phủ [8]. Đốc phủ Chí  là đường ở huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long. Ở huyện này còn có đường Đốc phủ Yên. Đốc phủ Chỉ .Yên, Chỉ là tên người.

Bố chính hay bố chánh: chức quan sau tuần phủ hay tổng đốc, chuyên coi việc thuế khoá, tài chình dưới thời nhà Nguyễn: ga và chợ Ông Bố (Bùi Phụ Phong – hậu duệ Bùi Tá Hán – làm Bố chánh tỉnh Sơn Tây dưới tiều vua Thiệu Trị; tỉnh Quảng Ngãi) [1].

Thống: cách gọi tắt Thống lãnh binh. Thống Linh là chợ ở xã Mỹ Ngãi, thị xã Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Thống binh Nguyễn Văn Linh (1815 – 1862), sinh ở thôn Mỹ Ngãi, một lãnh tụ chống Pháp, bị chúng xử tử hình tại chợ Mỹ Trà [9].

Tổng đốc: chức quan đứng đầu bộ máy cai trị một tỉnh lớn thời phong kiến, thực dân: đường Tổng Đốc Phương (Đỗ Hữu Phương, tay sai Pháp, được thăng tri huyện rồi đốc phủ sứ, được triều đình Huế phong hàm tổng đốc; Sài Gòn, trước ngày 30 – 4 – 1975).

Quốc công: tước công, cao hơn quận công: thành Ông Ninh (Ninh quốc công Trịnh Toàn; tỉnh Thanh Hoá) [7].

Trấn là núi ở phường Quảng Phú, tp. Quảng Ngãi. Cũng gọi là núi Ông. Trấn là cách gọi tắt chức danh Trấn quận công Búi Tá Hán (1496 – 1568), có lăng mộ ở đây [1, 70].

Nha: từ gọi tắt của Oknha (tiếng Khmer), một quan chức đầu tỉnh: Nha Mân (Mân: tên người; tỉnh Đồng Tháp).

Một số chức danh của những người thuộc hoàng gia:

Công chúa: con gái vua: các đường Công Chúa Ngọc Hân, Huyền Trân Công Chúa (tp. HCM).

Vương: danh hiệu đầu tiên của vua trị vì phương Nam: các đường Hùng Vương, Trưng Nữ Vương (tp. HCM); vương còn là tước phong cho người trong tôn thất có công lớn: các đường Tùng Thiên Vương (Nguyễn Miên Thẩm: 1819 – 1870), Tuy Lý Vương (Nguyễn Miên Trinh: 1820 – 1897; tp. HCM).

2.Qua các phần trình bày trên, ta thấy địa danh giống như những tấm gương phản ảnh một cách trung thực những con người đã sinh sống trên địa bàn, những chức danh mà con người đã sử dụng trong xã hội. Vì vậy, muốn tìm hiểu một địa phương, một đất nước, chúng ta không thể không quan tâm đến địa danh.

 

 

THI CỬ VÀ NỀN GIÁO DỤC
VIỆT NAM DƯỚI THỜI PHÁP THUỘC

TRẦN BÍCH SAN

Năm Nhâm Tuất 1862 Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ gồm 3 tỉnh Gia Định, Định Tường và Biên Hòa.  Năm Đinh Mão 1867 Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ là Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên.   Hòa ước năm Giáp Tuất 1874 công nhận chủ quyền của Pháp trên toàn thể lãnh thổ Nam Kỳ.  Nam Kỳ trở thành thuộc địa (colonie) của Pháp. 
Hai hòa ước năm Quí Mùi 1883 và Patenôtre năm Giáp Thân 1884 công nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ.  Bắc Kỳ và Trung Kỳ trở thành đất bảo hộ (protectorat) của Pháp.  Ở miền Bắc, trên danh nghĩa, triều đình Huế còn quyền hành nhưng trên thực tế mọi việc do người Pháp điều khiển.  Trung Kỳ do triều đình Huế cai trị nhưng được đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ của Pháp (1).
  
Khi đô hộ Việt Nam, nhu cầu cấp bách của người Pháp là phải hủy diệt nền Nho học và thay thế bằng một hệ thống giáo dục phục vụ cho guồng máy cai trị.  Do đó, chiếm được Nam Kỳ xong là người Pháp lập tức khai tử nền giáo dục Nho học.  Năm 1864 là kỳ thi Hương cuối cùng ở Nam Kỳ (tổ chức ở ba tỉnh miền Tây trước khi bị Pháp chiếm).  Từ  1878 chữ Hán trong giấy tờ công văn các cơ quan hành chánh được thay thế bằng chữ Pháp và chữ quốc ngữ. 
Ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, dưới quy chế bảo hộ, sự thay đổi về giáo dục chậm hơn.  Kỳ thi Hương cuối cùng ở Bắc là năm Ất Mão 1915, và ở Huế năm Mậu Ngọ 1918.  Chế độ giáo dục và khoa cử Nho học thực sự cáo chung với khoa thi Hội chót năm Kỷ Mùi 1919 ở Huế.  Tuy vậy mãi đến năm 1932 bộ máy quan lại của triều đình mới bỏ việc dùng chữ Hán và thay thế bằng chữ Pháp hay chữ quốc ngữ.

MỤC ĐÍCH NỀN GIÁO DỤC CỦA NGƯỜI PHÁP Ở VIỆT NAM


Nhìn thấy quá khứ Việt Nam nặng về Hán học, chủ tâm của người Pháp là muốn cắt đứt liên lạc văn hóa giữa người Việt với người Tàu.  Để đạt mục đích hướng tinh thần người Việt về với Pháp, chữ Hán cũng như chữ Nôm cần phải triệt bỏ (2) và thay thế bằng chữ Pháp, còn văn tự cho tiếng nói người bản xứ nếu cần đã có chữ quốc ngữ cùng một họ mẫu tự La Tinh (3).  Năm 1865 súy phủ Sài Gòn cho ra đời tờ Gia Định Báo là tờ Công Báo đầu tiên viết bằng chữ quốc ngữ (4).  Trong tinh thần ấy, trước tiên người Pháp dựng lên những cơ sở văn hóa để truyền bá chữ Pháp và chữ quốc ngữ.  Đáp ứng nhu cầu cấp bách trong thời gian đầu Pháp thiết lập các trường đào tạo thông ngôn.  Ngày 8/5/1861 Đô Đốc Charner ký nghị định lập trường Collège d'Adran để đào tạo thông ngôn người Việt và cho cả người Pháp muốn học tiếng Việt (5).  Trường Thông Ngôn (Collège des Interprètes) được thiết lập ở Sài Gòn năm 1864, ở Hà Nội năm 1905.  Pháp còn thiết lập các Trường Hậu Bổ (chuẩn bị bổ ra làm quan Apprenti Mandarin) ở Hà Nội năm 1903 và ở Huế năm 1911.  Đây là những bước đầu trong việc thiết lập một nền giáo dục của Pháp. 
Khi xây dựng nền giáo dục thay thế Nho giáo, người Pháp có ba mục đích.  Mục đích  quan trọng nhất nhằm đào tạo lớp người thừa hành chính sách của Pháp là cai trị và khai thác ở Việt Nam và cả Đông Dương. Tầng lớp này bao gồm các viên chức trong các ngành hành chánh, giáo dục, y tế và xây dựng.  Thứ đến là truyền bá tư tưởng Pháp, lòng biết ơn sự khai hóa của Pháp và sự trung thành với Pháp.  Cuối cùng với mục đích mị dân, làm người Việt tin rằng hệ thống giáo dục của Pháp ở Việt Nam là văn minh và tiến bộ. Hai mục đích đầu là căn bản, mục đích thứ ba chỉ dùng để đối phó với sự đòi hỏi một nền giáo dục tiến bộ của người Việt trong tương lai mà thôi.
Hệ thống giáo dục của nước Pháp đã được người Pháp ở Việt Nam điều chỉnh và thêm bớt cho phù hợp với ba mục đích trên cũng như để thích hợp với thực tế ở Việt Nam.  Đây là hệ thống Giáo Dục Pháp Cho Người Bản Xứ" (Enseignement Franco-Indigène), thường được gọi là Giáo Dục Pháp-Việt.  Trong nền giáo dục này tiếng Pháp là chuyển ngữ tức tiếng Pháp được dùng để trao đổi trong lớp học (giảng bài, làm bài, sách giáo khoa viết bằng tiếng Pháp).  Riêng ba lớp tiểu học đầu là được dùng tiếng Việt làm chuyển ngữ, sau đó tiếng Việt được học như một ngoại ngữ.  Ngoại ngữ thứ hai thường là tiếng Anh ở bậc Tú Tài. Chữ Hán được học theo tự nguyện. một tuần một giờ ở các lớp trên của bậc tiểu học nếu có thày dạy.
Để điều hành, Pháp thiết lập tại mỗi kỳ một Sở Giáo Dục Cho Người Bản Xứ (Service de L'Enseignement Local) do một Chánh Sở (Chef de Service) người Pháp đứng đầu.  Các cơ sở giáo dục này đặt trực thuộc tòa Khâm Sứ.  Mọi sự bổ nhiệm, thuyên chuyển, thăng thưởng, kỷ luật các giáo chức từ bậc tiểu học trở lên đều phải do khâm Sứ quyết định. Khi Pháp thành lập liên bang Đông Dương (gồm Bắc, Trung, Nam Kỳ, Cao Miên và Lào), một số việc phải được Toàn Quyền Đông Dương (Gouverneur de l'Indochine) chuẩn y.  Nha Học Chính Đông Pháp (Direction de l'Instruction Publique de l'Indochine) ra đời do một Giám Đốc người Pháp chỉ đạo trực tiếp 5 sở giáo dục của liên bang Đông Dương.  Năm 1933, Phạm Quỳnh được Bảo Đại bổ nhiệm làm Thượng Thư Bộ Học.  Nhờ sự đòi hỏi quyết liệt của họ Phạm, Pháp phải nhượng bộ cho Việt Nam quyền quản lý các trường tiểu học ở Trung Kỳ nhưng dưới sự kiểm soát của tòa Khâm Sứ Pháp. 
Hệ thống giáo dục Pháp-Việt gồm 2 phần: giáo dục phổ thông và giáo dục cao đẳng chuyên nghiệp, đại học.

TỔ CHỨC CỦA HỆ THỐNG GIÁO DỤC PHỔ THÔNG PHÁP-VIỆT


Trong thời kỳ phôi thai, Pháp thiết lập vài trường để làm nòng cốt cho hệ thống giáo dục phổ thông là các trường trung học Le Myre de Vilers ở Mỹ Tho (1879) (6), trường Quốc Học Huế (1896), trường trung học Bảo Hộ (Collège du Protectorat) tức trường Bưởi Hà Nội (1908) (7).  Ba trường này khi mới mở chỉ có bậc tiểu học, mấy chục năm sau mới giảng dạy đến các bậc cao hơn.  Riêng chỉ có 2 trường Quốc Học Huế và trường Bưởi sau này có đến bậc Tú Tài.  Từ 1910 đến 1930 là thời kỳ hình thành hệ thống giáo dục có tính cách hệ thống.  Từ 1930 đến 1945 là thời kỳ tổ chức hệ thống giáo dục cho người bản xứ của Pháp ở Việt Nam đã được hoàn chỉnh.
 
Quang cảnh Trường Sơ Học Bắc Kỳ
Song song với hệ thống giáo dục phổ thông Pháp-Việt, Pháp thiết lập 3 trường hoàn toàn như ở Pháp dành riêng cho con cái người Pháp ở Việt Nam và con cái những người Việt thân Pháp.  Đó là các trường Chasseloup Laubat (8) ở Sài Gòn (1874), trường Albert Sarraut ở Hà Nội (1918) và trường Yersin ở Đà Lạt (1935).  Cả 3 trường này lúc đầu cũng được hình thành từ bậc tiểu học trước rồi sau mới có đến bậc Tú Tài. 

KIẾN TRÚC CỦA NỀN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG PHÁP-VIỆT


Tới khi hình thành đầy đủ, hệ thống giáo dục phổ thông Pháp-Việt có 3 bậc với học trình là 13 năm:
Bậc Tiểu Học 6 năm:
- Lớp Đồng Ấu (Cours Enfantin)
- Lớp Dự Bị (Cours Préparatoire)
- Lớp Sơ Đẳng (Cours Élémentaire)
- Lớp Nhì năm thứ nhất (Cours Moyen 1ère année)
- Lớp Nhì năm thứ hai (Cours Moyen 2è année) (9)
- Lớp Nhất (Cours Supérieur)
Ba lớp đầu còn được gọi là bậc sơ học. Học xong lớp Sơ Đẳng học sinh thi lấy bằng Sơ Học Yếu Lược (Primaire Élémentaire)  Những học sinh được tuyển thẳng lên lớp Nhì năm thứ nhất không bắt buộc phải thi Sơ Học Yếu Lược.  Học hết lớp Nhất học sinh được thi bằng Tiểu Học Yếu Lược hay Sơ Đẳng Tiểu Học (Certificat d'Études Primaire Franco-Indigène, viết tắt là CEPFI), phải có bằng này mới được dự tuyển học lên lớp trên.
Bậc Cao Đẳng Tiểu Học (Primaire) 4 năm:
Học xong 4 năm được thi lấy bằng Cao Đẳng Tiểu Học (Diplôme d'Étude Primaire Supérieurs Franco-Indigène) còn gọi là bằng Thành Chung.  Phải có bằng Thành Chung mới được dự thi lên bậc Trung Học tức bậc Tú Tài.  Các trường dạy bậc Cao Đẳng Tiểu Học được gọi là Collège.
Bậc Trung Học (Enseignement Secondaire) 3 năm:
Còn được gọi là bậc Tú Tài Pháp-Việt, bậc Trung Học gồm 3 năm.  Học xong 2 năm đầu được thi lấy bằng Tú Tài phần thứ nhất (Baccalauréat, 1ère partie).  Đậu bằng này được học tiếp năm thứ ba không phải thi tuyển.  Năm thứ 3 được chia làm 2 ban: ban Triết và ban Toán.  Hai ban có những môn học hoàn toàn giống nhau như Sử. Địa, Ngoại Ngữ.  Có những môn giống nhau nhưng số giờ học khác nhau như Đại Số, Thiên Văn.  Có những môn chỉ học ở ban này mà ban kia không có như  ban Triết có Tâm Lý Học, Siêu Hình Học, ban Toán có Hình Học, Cơ Học, Số Học. Từ niên học 1937-1938 trên toàn cõi Việt Nam đều áp dụng chương trình Pháp-Việt đủ 3 ban: Toán, Khoa Học, Triết.  Ngoài ban mình học, học sinh được phép thi tốt nghiệp các ban khác nhưng phải tự học thêm những môn mà ở ban mình theo học không có.  Học sinh cũng được phép thi bằng Tú Tài Pháp. Học xong năm này thi lấy bằng Tú Tài Toàn Phần (Certificat de Fin d'Études Secondaire Franco-Indigènes).  Học sinh tốt nghiệp 2 hoặc 3 ban hoặc thêm bằng Tú Tài Pháp (10) được ưu tiên khi thi vào các trường Đại Học có thi tuyển như các trường Grandes Écoles ở Pháp hoặc các trường Cao Đẳng Chuyên Nghiệp ở Hà Nội lúc đó.
Từ niên học 1926-1927 Pháp thiết lập thêm chế độ Tú Tài Bản Xứ (Baccalauréat Local) học thêm các môn về văn chương Việt Nam, lịch sử, triết học Đông Phương và Cận Đông (Ấn Độ, Trung Hoa, Do Thái). Chương trình rất nặng, bị chỉ trích và ta thán rất nhiều nên đã bị hủy bỏ từ niên học 1937-1938. 

CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA NỀN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG PHÁP-VIỆT


Một đặc điểm của nền giáo dục phổ thông Pháp-Việt là hễ có bằng Tú Tài Toàn Phần thì đương nhiên được vào học các trường Đại Học (Université), nhưng muốn vào các trường Cao Đẳng thì phải qua một kỳ thi tuyển rất khó.  Trước 1945, Việt Nam chỉ có một trường Đại Học và vài trường Cao Đẳng Chuyên Nghiệp ở Hà Nội như Sư  Phạm, Canh Nông, Thú Y, Công Chánh và Mỹ Thuật.
Một đặc điểm khác nữa là chương trình học do nhà nước quy định có tính cách bắt buộc trong việc giảng dạy nhưng sách giáo khoa lại hoàn toàn do các nhà xuất bản mời người biên soạn và các sách này chỉ được dùng để tham khảo mà thôi.  Tất nhiên những sách giáo khoa do các nhà giáo có kinh nghiệm và uy tín được sử dụng nhiều hơn.  Riêng ở bậc Tiểu Học sách giáo khoa do Nha Học Chính Đông Pháp chủ trì việc biên soạn và xuất bản, bán rẻ cho học sinh. Từ bậc Cao Đẳng Tiểu Học trở lên thì dùng sách giáo khoa xuất bản ở Pháp (trừ vài quyển về Lịch Sử Việt Nam, Địa Lý Đông Dương, Văn Học Việt Nam do các giáo chức người Pháp hay người Việt soạn và xuất bản ở Hà Nội. 

GIÁO CHỨC NỀN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG PHÁP-VIỆT
Các giáo chức giảng dạy tại các trường thuộc hệ thống giáo dục phổ thông Pháp-Việt đa số là người Việt Nam.  Ở các lớp thuộc bậc Cao Đẳng Tiểu Học và nhất là ở bậc Tú Tài cũng có một số giáo chức người Pháp.  Trái lại, tại các trường hoàn toàn Pháp như Albert Sarraut, Chasseloup Laubat các giáo chức chủ yếu là người Pháp.  Dạy bậc Sơ Học giáo chức phải tốt nghiệp Tiểu Học và học thêm một năm lớp  Sư Phạm (Cours de Pédagogie).  Giáo chức dạy bậc Tiểu Học phải tốt nghiệp bằng Cao Đẳng Tiểu Học và được bổ túc về khoa Sư Phạm.  Nhằm đào tạo các giáo viên tiểu học, có các lớp sư phạm(Section Normal) vừa học sư phạm vừa học chương trình Cao Đẳng Tiểu Học.  Các giáo chức bậc Cao Đẳng Tiểu Học thì phải tốt nghiệp trường Cao đẳng Sư Phạm Hà Nội.  Dạy bậc Tú Tài thì phải tốt nghiệp Cử nhân ở Pháp về hoặc phải có bằng cao hơn Cử Nhân như học vị Thạc Sĩ (Agrégé) (11).


TRƯỜNG ỐC CỦA HỆ THỐNG GIÁO DỤC PHỔ THÔNG PHÁP-VIỆT


Các trường phổ thông công lập Pháp-Việt là những nhà gạch lợp ngói kiên cố và có phòng thí nghiệm.  Xét vào thời điểm 1940-1945 thì trường ốc như thế thuộc loại tốt.
Ở các huyện lỵ có trường Sơ Học.  Ở các tỉnh lỵ và một vài huyện lỵ lớn có trường Tiểu Học.  Các tỉnh lỵ lớn có trường Sơ Học hay Tiểu Học dành riêng cho nữ sinh.  Trung bình một tỉnh có khoảng từ 2 đến 4 trường Tiểu Học, mỗi trường có từ trên 100 đến vài trăm học sinh.  Các thành phố lớn mới có trường Cao Đẳng Tiểu Học như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định  Lạng Sơn (Bắc Kỳ), Thanh Hóa, Nghệ An (Vinh), Huế, Quy Nhơn (Trung Kỳ), Sài Gòn, Cần Thơ, Mỹ Tho (Nam Kỳ).  Các trường Cao Đẳng Tiểu Học dành riêng cho nữ sinh chỉ có ở Hà Nội (trường Đồng Khánh), Huế (trường Đồng Khánh), Sài Gòn (trường Gia Long còn gọi là trường Áo Tím).  Bậc Trung Học (bậc Tú Tài) chỉ có ở Hà Nội (trường Bưởi), Huế (trường Khải Định), Sài Gòn (trường Pétrus Ký).  Mỗi trường có khoảng từ 100 đến 200 học sinh.  Bậc Tú Tài cũng có ở các trường hoàn toàn Pháp tại Hà Nội (trường Albert Sarraut), Sài Gòn (Chasseloup Laubat).  
Ngoài hệ thống trường công còn có các trường tư phần lớn do giáo hội Thiên Chúa Giáo xây dựng ngay từ những ngày đầu Pháp chiếm Việt Nam.  Hai trường của Thiên Chúa Giáo có tiếng là trường Pellerin ở Huế và trường Taberd ở Sài Gòn.  Sau năm 1930 có một số tư thục do tư nhân mở ra ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn và ở một vài tỉnh lỵ lớn đa số là các trường bậc Tiểu Học.  Tư thục bậc Cao Đẳng Tiểu Học chỉ có ở Hà nội, Huế và Sài gòn.  Riêng tư thục bậc Tú Tài chỉ có ở Hà Nội và Sài Gòn. nhưng chỉ có lớp cho 2 năm đầu vì học sinh đậu Tú Tài phần thứ nhất đương nhiên được thu nhận vào trường công. 
Hệ thống giáo dục phổ thông Pháp-Việt do Pháp thiết lập rất nhỏ.  Trước nhất vì đó là một chương trình giáo dục chỉ nhằm đào tạo một số người thừa hành cho mục tiêu cai trị và khai thác của người Pháp.  Thứ nũa vì dân số nước ta lúc đó không nhiều, chỉ có khoảng 20 triệu người (12).  Sau khi Nhật đảo chánh Pháp ở Đông Dương chương trình giáo dục phổ thông Pháp-Việt bị bãi bỏ ở Bắc và Trung Kỳ năm 1945 và được thay thế bằng chương trình Hoàng Xuân Hãn.  Riêng miền Nam đến khi quốc trưởng Bảo Đại thành lập chính quyền quôc gia mới chấm dứt áp dụng chương trình giáo dục Pháp-Việt vào năm 1949.     

Kỳ sau: Hệ Thống Giáo Dục Cao Đẳng và Đại Học Pháp-Việt

HỆ THỐNG GIÁO DỤC CAO ĐẲNG VÀ ĐẠI HỌC PHÁP-VIỆT
KHÁC BIỆT GIỮA TRƯỜNG CAO ĐẲNG VÀ ĐẠI HỌC


Hệ thống giáo dục Pháp-Việt (Enseignement Franco-Indigène) áp dụng ở Việt Nam dưới thời Pháp thuộc đã rập khuôn theo chế độ và tổ chức giáo dục của Pháp nhưng được điều chỉnh, thêm bớt cho phù hợp với thực tế ở Đông Dương và chủ yếu là để đạt mục đích khai thác thuộc địa.  Vì thế, học chế áp dụng tại Đông Dương cho bậc học cao nhất, hình thức tương tự như ở Pháp (lúc đầu không có thực chất, sau đuợc cải tiến vì lý do chính trị), gồm có hai loại trường là cao đẳng và đại học:

Trường Cao Đẳng (École Supérieure): là loại trường chuyên nghiệp, nhập học phải hội đủ điều kiện văn bằng đòi hỏi và qua một kỳ thi tuyển (concours).  Trúng tuyển được cấp học bổng ăn học suốt học trình. Tốt nghiệp phải làm việc cho chính quyền (trong lãnh vực chuyên nghiệp do trường đào tạo) một thời gian ấn định (1), nếu không, theo nguyên tắc, phải bồi thường tiền học bổng.  Các trường cao đẳng, đào tạo các chuyên viên có nghề nghiệp nhất định như bác sĩ, kỹ sư, công chức, giáo sư..., chương trình học có qui củ và kỷ luật chặt chẽ.

Trường Đại Học (Université): muốn nhập học các trường đại học chỉ cần đủ điều kiện về văn bằng đòi hỏi mà không phải qua một kỳ thi tuyển.  Việc thu nhận sinh viên không hạn định tuổi tác và số lượng.  Chương trình học chú trọng đào tạo một căn bản vững chãi cho tri thức chuyên ngành nào đó nhưng không nhất thiết đóng khung trong một lãnh vực nhất định và cũng không mang tính chất nghề nghiệp bắt buộc như các trường cao đẳng chuyên nghiệp.  Sinh viên phải tự túc về học phí (ngoại trừ những sinh viên xuất sắc được học bổng).  Khi tốt nghiệp chính quyền không có nhiệm vụ cung cấp việc làm, cá nhân phải tự tìm kiếm.            
 

CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG VÀ ĐẠI HỌC ĐÔNG DƯƠNG


Ngoại trừ trường Y Dược và Công Chánh được thành lập từ đầu thế kỷ thứ 20, các trường cao đẳng và đại học đã được thành lập vào khoảng cuối đệ nhất thế chiến (trong khoảng từ năm 1917 đến 1924).  Ngày 21/12/1917 toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut ra nghị định ban hành Học Chánh Tổng Qui ở Đông Dương (Règlement Général de l'Instruction Publique en Indochine) nhằm mục đích thực hiện một cách qui mô chính sách của Pháp đối với các nước ở Đông Dương.  Sau đó,  Qui Chế Tổng Quát về  Giáo Dục Cao Đẳng ở Đông Dương (Règlement Général de l'Enseignement Supérieur en Indochine) được toàn quyền Đông Dương ban hành bằng nghị định ngày 25/12/1918.  Lúc đầu, điều kiện để được theo học các trường thuộc hệ thống cao đẳng và đại học là phải có bằng cao đẳng tiểu học (tức bằng thành chung).  Về sau điều kiện về văn bằng là tú tài toàn phần.  Tất cả các trường được xếp vào hệ thống trường cao đẳng và đại học đều ở Hà Nội (2) và thuộc Viện Đại Học Đông Dương (Université Indochinoise) (3), gồm có :

Trường Y Khoa Đông Dương (École de Médecine de l'Indochine) :  nghị định ngày 08/01/1902 thành lập một cơ sở đào tạo nhân viên y tế của Đông Dương do bác sĩ Yersin làm hiệu trưởng (4).  Ngày 27/02/1902 khóa đầu tiên với 29 học viên đã khai giảng tại cơ sở tạm thời ở làng Nam Đông (tức Thái Hà Ấp).  Đến cuối năm 1902 trường chuyển về cơ sở chính thức tức là trường Đại Học Y Khoa Hà Nội bây giờ. Do nghị định ngày 25/10/1904 trường mang tên là Trường Y Khoa Đông Dương nhằm đào tạo các phụ tá cho bác sĩ và dược sĩ (médecine et pharmacian auxiliaire) với học trình 4 năm cho y khoa và 3 năm cho dược khoa.  Từ năm 1906 có thêm ban thú y.  Trường  còn có một lớp Nữ Hộ Sinh Bản Sứ (Sage Femme Indigène) học trình 2 năm, điều kiện nhập học chỉ cần có bằng tiểu học.  Do nghị định ngày 29/12/1913 trường được cải tổ và đổi tên thành Trường Y Dược Đông Dương (École de Médecine et de Pharmacie de l'Indochine).  Từ năm 1919 có thêm nhãn khoa.  Đến năm 1923 sắc lệnh ngày 30/08/1923 nâng trường lên bậc cao đẳng (école supérieure) nhằm đào tạo bác sĩ và y sĩ Đông Dương.  Trường Kiêm Bị Y Dược (École de Plein Exercise de Médecine et de Pharmacie) đào tạo bác sĩ với chương trình học 6 năm, 4 năm tại Hà Nội, 2 năm cuối học và trình luận án tại Pháp.  Section de Médecine et Pharmaciens Indochinois đào tạo y sĩ Đông Dương với chương trình học 4 năm ở Hà nội.  Năm 1930, Trường Y Dược Đông Dương trở thành một khoa (faculté) của Viện  Đại Học Hà Nội (Faculté de Médecine et de Pharmacie de l'Université de Hanoi).  Năm 1935 đánh dấu khóa bác sĩ tốt nghiệp đầu tiên ở trong nước do các giáo sư từ trường Đại Học Y Khoa Paris sang giảng dạy và chấm thi (5).
 
Trường Cao Đẳng Thú Y Đông Dương (École Supérieure Vétérinaire de l'Indochine) : ban thú y của Trường Y Dược được tách ra thành trường này do nghị định ngày 05/09/1917, trực thuộc Sở Thú Y Bắc kỳ, nhằm đào tạo phụ tá thú y sĩ với học trình 4 năm.  Từ 1918 đến 1925, điều kiện phải có bằng cao đẳng tiểu học.  Trường nhận học viên không qua kỳ thi tuyển, tốt nghiệp thành y sĩ thú y.  Từ 1925 đến 1935 phải có bằng cao đẳng tiểu học hoặc bằng tú tài và phải qua kỳ thi tuyển.  Từ 1935 đến 1940 trường đóng cửa vì thiếu ngân sách.  Từ 1941 trường mở cửa lại, phải có bằng tú tài và khám sức khỏe mới được dự kỳ thi tuyển.  Tốt nghiệp với văn bằng bác sĩ thú y.  Từ năm này trường được đặt dưới sự giám sát của Tổng Thanh Tra Canh Nông và Chăn Nuôi (6).
     
Trường Pháp Chính (École de Droit et d'Administration): thành lập ngày 15/10/1917 (7), lúc đầu nhằm đào tạo quan lại "ngạch Tây" phục vụ cho guồng máy cai trị của Pháp về hành chánh, tài chánh, tư pháp, học trình 3 năm, riêng ban tài chánh học 2 năm.  Tốt nghiệp được bổ dụng làm tham biện ở các công sở (còn gọi là tham tá), hoặc đi làm tri phủ, tri huyện ở các tỉnh.  Trường được đổi thành Cao Đẳng Học Viện Đông Dương (École des Hautes Étude Indochinoises) do nghị định ngày 18/09/1924 với mục đích đào tạo ở bậc cao học về luật pháp, chính trị, lịch sử và triết học.  Muốn nhập học phải có bằng tú tài bản xứ hay tú tài Pháp, chương trình học 3 năm.  Ngày 11/09/1931 theo sắc lệnh của tổng thống Pháp đổi thành Trường Cao Đẳng Luật Khoa Đông Dương (École Supérieure de Droit de l'Indochine) (ù8).  Năm 1941 đổi thành Trường Đại Học Luật Khoa (Faculté de Droit).

Trường Cao Đẳng Sư Phạm (École Supérieure de Pédagogie) : toàn quyền Albert Sarraut ký nghị định thành lập ngày 15/10/1917, nhằm đào tạo giáo chức cho các trường sư phạm sơ cấp và các trường cao đẳng tiểu học, học trình 3 năm.  Từ sau năm 1920 thí sinh dự tuyển phải có bằng tú tài II.  Trường có 2 ban :
- Ban Văn Chương (Section des Lettres) : gồm các môn học về văn chương, lịch sử, địa lý và triết học.
- Ban Khoa Học (Section des Sciences) : gồm các môn học về toán, vật lý, hóa học và vạn vật học.

Trường Cao Đẳng Nông Lâm (École Supérieure d'Agriculture et de Sylviculture) : thành lập do nghị định ngày 21/03/1918 đào tạo phụ tá kỹ sư nông nghiệp và lâm nghiệp, học trình 3 năm.  Năm 1935 trường đóng cửa.  Ngày 15/08/1938 toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập Trường Chuyên Nghiệp Nông Lâm Đông Dương (École Spécial d'Agriculture et de Sylviculture) đào tạo kỹ sư nông nghiệp và lâm nghiệp, học trình học 3 năm.   
 
Trường Công Chánh (École des Travaux Publics): thành lập bởi nghị định của toàn quyền Đông Dương ngày 22/02/1902 để đào tạo cán sự chuyên môn (agent technique) cho các sở công chánh, địa chánh và địa dư với học trình 2 năm, hạn tuổi từ 18 đến 25.  Lúc đầu, điều kiện phải có bằng tiểu học.  Từ năm 1913 nếu có bằng thành chung thì được miễn thi (9).  Năm 1944 đổi thành Trường Cao Đẳng Công Chánh (École Supérieur de Traveaux Publics) đào tạo kỹ sư và phó kỹ sư công chánh.   

Trường Thương Mại Đông Dương (École de Commerce de l'Indochine): được thành lập do nghị định ngày 02/11/1920, học trình 2 năm.  Để bổ túc cho những người tốt nghiệp trường này ở Hà Nội, Trường Thương Mại Thực Hành (École d'Application Commerciale) được thành lập ở Sài Gòn năm 1922 để nâng cao kiến thức về nội và ngoại thương bằng những công tác thực tế.  Đến năm 1924 trường Thương Mại Thực Hành được sát nhập vào Trường Thương Mại Đông Dương ở Hà Nội và nghị dịnh ngày 25/08/1925 chương trình thực hành được áp dụng với học trình tổng cộng 3 năm.  Nghị định ngày 28/09/1928 nâng lên thành Trường Cao Đẳng Thương Mại Đông Dương.  Nghị định ngày 07/04/1926 mở thêm Khoa Bưu Chính và Điện Báo (Section des Postes et Télégraphes) đào tạo chuyên viên tiếp nhận điện báo (receveur) cho ngành bưu điện.  Cũng nghị định này thành lập thêm Khoa Điện Báo Vô Tuyến (Section Radiotélégraphiques) nhằm cung cấp chuyên viên kỹ thuật cao cấp cho Sở Vô tuyến Điện (Service Radiotélégraphie) (10) 
 
Trường Cao Đẳng Văn Khoa (École Supérieure de Lettres): thành lập năm 1923 nhưng đến năm 1924 bị bãi bỏ và sát nhập với Trường Pháp Chính để thành Trường Cao Học Đông Dương.

Trường Khoa Học Thực Hành (École des Sciences Appliquées): thành lập năm 1923 nhưng vì thiếu giáo sư và học cụ nên chỉ được một thời gian ngắn rồi bị bãi bỏ.

Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương (École des Beaux-Arts de l'Indochine): Nghị định thành lập do toàn quyền Merlin ký ngày 27/10/1924, chương trình học 3 năm do Sở Học Chánh quản trị.  Giám đốc đầu tiên là giáo sư Tardieur.  Từ 1926 chương trình đổi thành 5 năm.  Năm 1927 thêm ngành kiến trúc.  Năm 1928 thêm nghệ thuật sơn mài.  Năm 1932 thêm ngành khắc chạm kim loại (ciselure).  Năm 1937 Jonchère thay Tardieur làm giám đốc thêm ngành đồ gốm và đồ sứ.  Năm 1938 đổi thành Trường Mỹ Thuật và Mỹ Thuật Thực Hành Đông Dương (École des Beaux-Arts et des Arts Appliqués) bằng nghị định ngày 21/05/1938 của toàn quyền Brévié.  Nghị định ngày 22/10/1942 đặt trường trực thuộc Viện Đại Học Đông Dương (Université Indochinoise).   

CHỦ TRƯƠNG CỦA PHÁP TRONG VIỆC THIẾT LẬP CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG VÀ ĐẠI HỌC


Năm 1907, trước cao trào thanh niên tìm cách xuất dương du học, người Pháp muốn kìm hãm và ngăn chận phong trào Đông Du do Phan Bội Châu khởi xướng, nên tuy việc xây dựng hệ thống giáo dục bậc trung học chưa hoàn tất, toàn quyền Paul Beau (nhiệm kỳ 1902-1907) đã ra nghị định ngày 10/11/1907 thành lập Trường Đại Học Hà Nội gồm 5 trường cao đẳng là Luật và Pháp Chính, Khoa Học, Y Khoa, Xây Dựng, Văn Chương (11).  Năm sau, 1908, toàn quyền Klobukowski (nhiệm kỳ 1908-1911) bãi bỏ việc thành lập này, nhưng đến năm 1918 toàn quyền Albert Sarraut tổ chức lại và giải thích : "Mở các lớp cao đẳng của Trường Đại Học Hà Nội cho người An Nam để không ai có quyền ra khỏi Đông Dương..." (12)   

 Tuy mang tên trường cao đẳng và đại học nhưng trong thời gian từ 1902 đến 1924 thực chất chỉ là các trường chuyên nghiệp trung cấp.  Những phê bình và chỉ trích về thực chất các trường cao đẳng và đại học của giới trí thức và báo chí Việt Nam đã áp lực người Pháp đưa đến cuộc cải cách giáo dục năm 1924-1925.  Nội dung cải cách nhằm sửa đổi qui chế các trường hiện hữu để thực sự có tính chất cao đẳng, cụ thể là :
- Nâng cao trình độ tuyển sinh: ngoài điều kiện có bằng cao đẳng tiểu học (thành chung) phải có giấy chứng nhận đã học hết 2 năm trung học.  Được miễn thi nếu tốt nghiệp 3 năm trung học (tức có bằng tú tài II).
- Nâng cao học trình: trung bình thêm 1 năm so với trước (cũng có trường không tăng)
- Nâng cao nội dung giảng dạy: sửa đổi để có tính chất cao đẳng.
Ngoài các biện pháp trên còn dự tính tăng sốù giáo chức giảng huấn có học vị cao nhưng thực tế không có gì thay đổi đáng kể.  Cơ sở vật chất cũng không có gì thêm.
Ngày 26/06/1940 Pháp thua trận ở chính quốc, tiếp đó Pháp đầu hàng Nhật ở Đông Dương ngày 23/09/1940.  Pháp tiếp tục cai trị dưới quyền kiểm soát của Nhật.  Trong bối cảnh lịch sử đó Pháp sửa đổi chính sách giáo dục nhằm 2 mục đích :

- Mua lòng người Việt để tranh giành ảnh hưởng trên lãnh vực văn hóa với Nhật: nhằm giữ thanh niên Việt Nam trong quỹ đạo của Pháp, người dân thuộc địa hết lòng hết sức với mẫu quốc (13).

- Bảo đảm việc giáo dục cho các con em của người Pháp: vì tình hình chiến tranh không thể về Pháp, các con em của những người Pháp làm việc ở Đông Dương vẫn tiếp tục việc học được.
Với mục đích trên Pháp thực hiện một số thay đổi về các trường cao đẳng và đại học như sau:

- Những thay đổi trong năm 1941 : đổi tên Trường Kiêm Bị Y Dược (École de Plein Exercise de Médecine et de Pharmacie) thành Trường Đại Học Hỗn Hợp Y Duợc (Faculté Mixte de Médecine et de Pharmacie),  đổi tên Trường Cao Đẳng Luật Khoa (École Supérieure de Droit) thành Trường Đại Học Luật Khoa (Faculté de Droit) (14), mở lại Trường Cao Đẳng Thú Y và nâng cao qui chế để đào tạo bác sĩ thú y, thiết lập Trường Cao Đẳng Khoa Học (École Supérieure des Sciences) ở Hà Nội theo mô hình Trường Đại Học Khoa Học (Faculté des Sciences) ở Pháp nhằm đào tạo sinh viên về các chứng chỉ cử nhân khoa học.

- Năm 1944 Trường Công Chánh (École des Traveaux Publics) đổi thành Trường Cao Đẳng Công Chánh (École Supérieure des Traveaux Publics) để đào tạo kỹ sư và phó kỹ sư công chánh (Ingénieur et Ingénieur Adjoint Indochinois des Traveaux Publics).

Đến giai đoạn này nếu xét về mặt qui chế thì các trường cao đẳng và đại học mới thực sự có tính chất một nền giáo dục cao đẳng và đại học hiện đại nếu so sánh với những trường tương đương lúc đó ở Pháp.  Xét về thành phần giáo chức thì hầu hết do người Pháp đảm nhận, người Việt chỉ đóng vai trò trợ giảng mà thôi.  Về phương diện vật chất thiết bị thì các trường Đông Dương ở vị trí thấp nhất.  Tuy nhiên, từ năm 1935 việc tuyển lựa, thi cử  rất gắt gao, kỷ luật học tập chặt chẽ.  Sinh viên Việt Nam vốn thông minh và chăm học nên phần lớn phẩm chất sinh viên tốt nghiệp đạt mục tiêu đào tạo về mặt khoa học và chuyên môn. 
  
 KẾT LUẬN

Sau khi chiếm được toàn bộ Đông Dương người Pháp chuẩn bị và bắt tay ngay vào việc khai thác thuộc địa.  Tài lực và vật lực của Đông Dương đã đóng góp một phần đáng kể cho nhu cầu của mẫu quốc, nhất là qua hai cuộc thế chiến (15).  Việc thiết lập các trường cao đẳng và đại học nằm trong chính sách quan trọng của Pháp chủ yếu là cung cấp các cán sự phụ tá người Pháp (được đào tạo ở Pháp sang), để việc khai thác tài nguyên và nhân công của thuộc địa Đông Dương trở thành qui mô và hữu hiệu hơn.  Việc nâng các trường cao đẳng chuyên nghiệp và đại học cho các trường này có thực chất vào giai đoạn cuối của nền đô hộ không nằm trong chủ trương của người Pháp.  Hoàn cảnh chính trị trong giai đoạn này đã đưa đến công cuộc cải tổ có lợi về phương diện giáo dục cho dân tộc Việt Nam. 

 

nguon VI OLET