ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

 

 

 

Description: images (3)

CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG

THEO CHUẨN CHỨC DANH NGHỀ NGHIỆP

GIÁO VIÊN THCS HẠNG II

 

Chuyên đề 3

QUẢN LÍ GIÁO DỤC VÀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

 

 

 

 

 

 

 

 

Thái Nguyên, năm 2017  


 A. MỤC TIÊU CỦA CHUYÊN ĐỀ

Sau khi tham gia bồi dưỡng, giáo viên đạt được các mục tiêu sau đây:

- Về kiến thức:

+ Hiểu được những vấn đề cơ bản của quản lí nhà nước về giáo dục - đào tạo, đặc biệt là trong bối cảnh kinh tế thị trường.

+ Hiểu rõ các các mô hình quản lí công mới và vấn đề vận dụng trong quản lí giáo dục - đào tạo .

+ Hiểu được những vấn đề cơ bản về cải cách hành chính nhà nước trong GD

+ Phân tích được một số chính sách giáo dục đối với giáo dục phổ thông hiện nay như: chính sách chất lượng; chính sách phổ cập giáo dục; chính sách tạo bình đẳng về cơ hội cho các đối tượng hưởng thụ giáo dục và các vùng miền; chính sách xã hội hóa và huy động các lực lượng xã hội tham gia vào quá trình giáo dục; chính sách đầu tư cho phát triển giáo dục..

- Về kỹ năng:

+ Hình thành được kỹ năng phân tích, đánh giá về các mô hình quản lí nhà nước về giáo dục - đào tạo, xu hướng phát triển của giáo dục trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

+ Phát triển kỹ năng phân tích, đánh giá hiệu quả thực hiện của các chính sách giáo dục tại địa phương nói riêng và đối với giáo dục cả nước. Từ đó đề ra được những giải pháp thực hiện có hiệu quả hơn.

+ Phát triển được kỹ năng tương tác và làm việc nhóm

+ Phát triển được kỹ năng nghiên cứu khoa học

- Về thái độ

+ Nghiêm túc trong quá trình học tập, bồi dưỡng; có tinh thần và tác phong làm việc khoa học, tự giác và linh hoạt trong thực hiện các yêu cầu của khóa học.

+ Xác định đúng động cơ, thái độ và tinh thần làm việc vì sự phát triển chung của giáo dục - đào tạo trong giai đoạn mới.

B. THỜI LƯỢNG THỰC HIỆN CHUYÊN ĐỀ

Tổng số tiết: 12 tiết

(Theo quy định cụ thể trong Chương trình bồi dưỡng ban hành kèm theo các Quyết định số 1611, 1612/QĐ-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ngày 16/5/2016).

 C. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHUYÊN ĐỀ

  Chuyên đề cung cấp cho học viên những hiểu biết về quản lí nhà nước về giáo dục - đào tạo, đặc biệt là trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời giúp học viên biết được mô hình quản lí công mới và sự áp dụng trong quản lí giáo dục- đào tạo; vấn đề cải cách hành chính trong giáo dục - đào tạo. Chuyên đề còn cung cấp cho học viên những kiến thức về các chính sách giáo dục đang được thực hiện trong giai đoạn hiện nay như:


Chính sách phổ cập giáo dục; Chính sách tạo bình đẳng về cơ hội cho các đối tượng hưởng thụ giáo dục và các vùng miền; Chính sách tạo bình đẳng về cơ hội cho các đối tượng hưởng thụ giáo dục và các vùng miền; Chính sách chất lượng; Chính sách xã hội hóa và huy động các lực lượng xã hội tham gia vào quá trình giáo dục; Chính sách đầu tư cho phát triển giáo dục.

D. NỘI DUNG CHI TIẾT CỦA CHUYÊN ĐỀ

1. Quản lý nhà nước về giáo dục trong cơ chế thị trường

1.1. Quản lí nhà nước về Giáo dục - Đào tạo

1.1.1 Khái niệm

Quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các hoạt động giáo dục và đào tạo, do các cơ quan quản lí giáo dục của nhà nước từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng, nhiệm vụ do nhà nước ủy quyền nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo, duy trì trật tự, kỉ cương, thoả mãn nhu cầu giáo dục và đào tạo của nhân dân, thực hiện mục tiêu giáo dục và đào tạo của nhà nước.

Quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo chính là việc nhà nước thực hiện quyền lực công để điều hành, điều chỉnh toàn bộ các hoạt động giáo dục và đào tạo trong phạm vi toàn xã hội để thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà nước.

Trong khái niệm quản lí nhà nước về giáo dục có 3 yếu tố cơ bản là: chủ thể, đối tượng và mục tiêu quản lí nhà nước về giáo dục.

Chủ thể quản lí nhà nước về giáo dục là các cơ quan quyền lực nhà nước (cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp), chủ thể trực tiếp là bộ máy quản lí giáo dục từ trung ương đến cơ sở (các cơ quan quản lí nhà nước về giáo dục được quy định cụ thể trong điều 100 của Luật Giáo dục).

Đối tượng của quản lí nhà nước về giáo dục là hệ thống giáo dục quốc dân, là mọi hoạt động giáo dục và đào tạo trong phạm vi cả nước.

Mục tiêu quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo, về tổng thể đó là bảo đảm trật tự, kỷ cương trong các hoạt động giáo dục và đào tạo, để thực hiện được mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài và phát triển nhân cách của công dân. Mỗi cấp học, ngành học có những mục tiêu cụ thể được quy định trong Luật Giáo dục và các điều lệ nhà trường.

1.1.2 Tính chất, đặc điểm và nguyên tắc quản lí nhà nước về GD&ĐT

* Tính chất của quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo

Quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo là quản lí nhà nước về một lĩnh vực cụ thể, cho nên nó có những tính chất chung của quản lí nhà nước và quản lí hành chính nhà nước, cụ thể như sau:


– Tính lệ thuộc vào chính trị: quản lí nhà nước về giáo dục phục tùng và phục vụ nhiệm vụ chính trị; tuân thủ chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước.

– Tính xã hội: giáo dục là sự nghiệp của nhà nước và của toàn xã hội. Trong quản lí nhà nước về giáo dục cần phải coi trọng tính xã hội và dân chủ hoá giáo dục. Giáo dục và đào tạo luôn phát triển trong mối quan hệ với sự phát triển của kinh tế xã hội.

– Tính pháp quyền: quản lí nhà nước là quản lí bằng pháp luật. Quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo cũng phải tuân thủ hành lang pháp lí mà nhà nước đã quy định cho một hoạt động quản lí các hoạt động giáo dục và đào tạo, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

– Tính chuyên môn nghiệp vụ: cán bộ – công chức hoạt động trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo cần được đào tạo có trình độ tương ứng với yêu cầu về tiêu chuẩn các ngạch, chức danh đã được quy định. Việc tuyển dụng cán bộ – công chức tuân theo các tiêu chuẩn nghiệp vụ, chức danh mà nhà nước đã ban hành.

– Tính hiệu lực, hiệu quả: lấy hiệu quả của hoạt động chuyên môn nghiệp vụ để đánh giá cán bộ – công chức ngành giáo dục và đào tạo; chất lượng, hiệu quả và sự bảo đảm trật tự kỷ cương trong giáo dục và đào tạo là thước đo trình độ, năng lực, uy tín của các cơ sở giáo dục và đào tạo và của các cơ quan quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo.

* Đặc điểm của quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo

Trong một số tính chất nêu trên, có những tính chất có nét đặc biệt mà ta có thể nhấn mạnh hơn và chúng trở thành các đặc điểm cần lưu ý.

Quản lí nhà nước là việc thực thi ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp để điều chỉnh mọi quan hệ xã hội và hành vi của công dân.

Quản lí hành chính nhà nước là thực thi quyền hành pháp để tổ chức, điều chỉnh mọi quan hệ xã hội, hành vi công dân.

Đối với lĩnh vực giáo dục và đào tạo, một hoạt động mang tính xã hội cao, quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo ở cấp cơ sở thực chất là thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền do nhà nước phân cấp và thực tế là thực thi quản lí hành chính nhà nước đối với các cơ sở giáo dục và đào tạo. Vì vậy, ở cấp cơ sở, khái niệm quản lí nhà nước và quản lí hành chính nhà nước đối với giáo dục và đào tạo giao thoa với nhau. Bởi vì, đây chính là cấp tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về hành chính giáo dục. Trên cơ sở nhận thức đó cần nhấn mạnh 3 đặc điểm sau:

a. Kết hợp quản lí hành chính và quản lí chuyên môn trong các hoạt động quản lí giáo dục

Quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo ở cơ sở thực chất là triển khai các hoạt động hành chính nhà nước trong quá trình chỉ đạo các hoạt động giáo dục ở cơ sở. Nó vừa theo nguyên tắc quản lí hành chính nhà nước vừa theo nguyên tắc hành chính giáo dục đối với một cơ sở giáo dục. Đặc điểm hành chính – giáo dục là đặc điểm quan trọng nhất trong hoạt động quản lí nhà nước về giáo dục và chỉ đạo với nhà trường.


Hành chính giáo dục thực chất là triển khai chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do nhà nước ủy quyền, thay mặt nhà nước triển khai sự nghiệp giáo dục và đào tạo; điều hành, điều chỉnh các hoạt động giáo dục và đào tạo trên địa bàn nhằm bảo đảm các quy định, quy chế về giáo dục nhằm thực hiện được mục tiêu giáo dục mà nhà nước quy định. Với vai trò trên, các hoạt động quản lí như bảo đảm môi trường giáo dục, đảm bảo điều kiện giáo dục, bảo đảm trật tự, kỉ cương nhà trường; thanh tra, kiểm tra để bảo đảm quá trình giáo dục và đào tạo thực hiện đúng quy định của nhà nước về mục tiêu, nội dung, quy chế… là hoạt động mang nhiều tính quản lí hành chính. Mặt khác, các hoạt động quản lí quá trình sư phạm… lại mang nhiều tính quản lí chuyên môn. Rõ ràng, quản lí cơ sở giáo dục (nhà trường) thực chất là quản lí các hoạt động hành chính – sư phạm thâm nhập vào nhau, chúng là hai mặt của một quá trình quản lí: quản lí nhà trường. Tuy nhiên, khi ta thực hiện tốt những quy chế chuyên môn chính là ta đang bảo đảm trật tự, kỷ cương trong các hoạt động sư phạm. Mặt khác, khi ta chú ý thích đáng tới việc bảo đảm môi trường kinh tế – xã hội, môi trường giáo dục tốt thì chúng cũng góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục. Cần lưu ý rằng quan tâm thích đáng đến đặc điểm này sẽ giúp cho các cán bộ quản lí giáo dục giải quyết tốt mối quan hệ giữa quản lí theo ngành và quản lí theo lãnh thổ trong hoạt động quản lí giáo dục của mình. Chính vì vậy, một mặt cần phải nắm chắc những quy định, quy chế để chỉ đạo việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ ở cơ sở (quản lí hành chính), mặt khác cần phải hiểu rõ nghiệp vụ sư phạm, đặc điểm của quá trình giáo dục để chỉ đạo chuyên môn. Chỉ trên cơ sở biết kết hợp quản lí hành chính và quản lí chuyên môn thì mới có thể chỉ đạo tốt hoạt động giáo dục và đào tạo, tiến tới thực hiện mục tiêu giáo dục và đào tạo của Nhà nước.

b. Tính quyền lực nhà nước trong hoạt động quản lí

Đặc điểm thứ hai của quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo cũng là đặc điểm nổi bật của quản lí nhà nước và quản lí hành chính nhà nước nói chung ở mọi lĩnh vực, đó là tính quyền lực nhà nước trong các hoạt động quản lí. Đặc điểm này biểu hiện ở ba vấn đề cơ bản là: tư cách pháp nhân trong quản lí, công cụ và phương pháp quản lí và quan hệ thứ bậc trong quản lí.

– Điều kiện để triển khai quản lí nhà nước là phải có tư cách pháp nhân và yêu cầu về tính hợp pháp trong quản lí là yêu cầu trước hết. Muốn có tư cách pháp nhân để quản lí phải được bổ nhiệm và khi đã được bổ nhiệm cần phải thực hiện đúng, đủ chức năng, thẩm quyền


, không lạm quyền cũng không đùn đẩy trách nhiệm; thực hiện đúng chế độ thủ trưởng trong việc ra quyết định và trong việc chịu trách nhiệm về các quyết định quản lí trước tập thể và cấp trên. Trong quản lí nhà nước sẽ không có tư cách pháp nhân để “ra quyền” khi chưa được bổ nhiệm. Tuy nhiên, mỗi tư cách pháp nhân đều có trách nhiệm và quyền hạn tương ứng. Việc hiểu cho đúng, làm cho đủ thẩm quyền là thước đo khả năng sử dụng quyền lực Nhà nước của một tư cách pháp nhân. Trong thực tế có những vấn đề phát sinh do không nhận thức đúng tính quyền lực Nhà nước trong các hoạt động quản lí. Thoái quyền và lạm quyền là hai thái cực của sự vi phạm thẩm quyền. Mặt khác, khái niệm thẩm quyền cũng gắn với sự phân cấp và tuân thủ thứ bậc chặt chẽ trong quản lí nhà nước.

– Phương tiện quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo là các văn bản pháp luật và pháp quy. Phương pháp chủ yếu để quản lí nhà nước là phương pháp hành chính tổ chức. Cần nhận thức rằng pháp luật, pháp quy là sự cụ thể hoá chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, phản ánh lợi ích của toàn dân, vì vậy đây chính là hành lang pháp lí cho việc triển khai các hoạt động quản lí giáo dục, bảo đảm tính quyền lực nhà nước trong quản lí. Việc không tuân thủ hành lang pháp lí trong các hoạt động quản lí giáo dục tức là vi phạm trật tự kỷ cương và sẽ bị xử lí theo quy định của pháp luật.

– Trong quản lí nhà nước phải tuân thủ thứ bậc chặt chẽ hoạt động quản lí theo sự phân cấp rõ ràng và mệnh lệnh – phục tùng là biểu hiện rõ nhất của tính quyền lực trong quản lí nhà nước. Tính quyền lực nhà nước ở đây cũng chính là việc cán bộ quản lí giáo dục cấp phòng cần nhận thức đầy đủ rằng cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng trung ương trong quá trình quản lí giáo dục.

c. Kết hợp nhà nước – xã hội trong quá trình triển khai quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo

Chúng ta đều biết giáo dục và đào tạo là một hoạt động mang tính xã hội cao và Đảng ta cũng đã nhấn mạnh tư tưởng giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của nhà nước và của toàn xã hội.

Rõ ràng, dân chủ hoá và xã hội hoá công tác giáo dục là một tư tưởng có tính chiến lược và nó có vai trò rất to lớn trong sự phát triển giáo dục nói chung và quản lí giáo dục nói riêng. Nhiều bài toán quản lí giáo dục sẽ rất khó giải quyết nếu không có sự tham gia của đông đảo lực lượng xã hội. Đây cũng là một đặc điểm quan trọng cần nhận thức trong quản lí giáo dục.

Tóm lại: Quản lí nhà nước về giáo dục là việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền do nhà nước quy định, phân cấp trong các hoạt động quản lí giáo dục. Ở một cơ sở giáo dục (nhà trường), quản lí nhà nước về giáo dục thực chất là quản lí các hoạt động hành chính – giáo dục, vì vậy nó có hai mặt quản lí thâm nhập vào nhau, đó là quản lí hành chính sự nghiệp giáo dục và quản lí chuyên môn trong quá trình sư phạm.


* Nguyên tắc quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo

Hoạt động quản lí nhà nước về giáo dục cần quán triệt hai nguyên tắc cơ bản sau:

a. Nguyên tắc kết hợp quản lí theo ngành và quản lí theo lãnh thổ

Mọi cơ sở giáo dục thực hiện chức năng, nhiệm vụ giáo dục và đào tạo theo sự chỉ đạo ngành dọc, nhưng các cơ sở giáo dục đều đóng trên một địa bàn cụ thể nào đó, vì vậy cũng phải tuân thủ sự quản lí hành chính của địa phương theo quy định phân cấp của nhà nước.

Mọi hoạt động quản lí không thể tách rời sự chỉ đạo theo ngành dọc và theo lãnh thổ, chúng được coi là một nguyên tắc quan trọng trong quản lí nhà nước nói chung và quản lí nhà nước về giáo dục nói riêng.

Nội dung chủ yếu của nguyên tắc này dưới góc độ vĩ mô có thể diễn đạt như sau: sự nghiệp giáo dục, hệ thống giáo dục quốc dân là một hệ thống nhất. Bộ Giáo dục và Đào tạo là cơ quan quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo thống nhất trong phạm vi cả nước. Chính quyền địa phương quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo theo phần lãnh thổ của mình thông qua cơ quan chuyên môn, theo nhiệm vụ, quyền hạn do nhà nước quy định phù hợp với cơ chế phân cấp.

Để thực hiện được điều đó nhà nước đã quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của ngành và địa phương như sau:

- Nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Giáo dục và Đào tạo được nhà nước quy định, như:

+ Xét duyệt và cho phát hành các loại sách giáo khoa.

+ Quy định tiêu chuẩn đánh giá, thể lệ cấp phát và thu hồi văn bằng, chứng chỉ giáo dục và đào tạo.

+ Xây dựng tiêu chuẩn định mức giáo viên, tổ chức, quản lí thống nhất việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên các cấp.

+ Thực hiện chức năng thanh tra giáo dục trong cả nước

- Nhiệm vụ, quyền hạn Hội đồng nhân dân địa phương:

+ Quyết định quy hoạch, kế hoạch phát triển giáo dục của địa phương.

+ Giám sát việc thi hành pháp luật và chủ trương chính sách về GD ở địa phương.

+ Quyết định chủ trương huy động và sử dụng nguồn lực ở địa phương nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo ở địa phương.

- Nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân địa phương.

+ Xây dựng và chỉ đạo thực hiện kế hoạch phát triển giáo dục, bảo đảm các điều kiện cho các hoạt động sự nghiệp giáo dục trên địa bàn.

+ Quản lí các trường, các cơ sở giáo dục theo sự phân cấp.

+ Chỉ đạo thực hiện xã hội hoá giáo dục, tổ chức thực hiện phổ cập, xoá mù chữ.


Nói chung, chính quyền địa phương có trách nhiệm bảo đảm môi trường kinh tế – xã hội lành mạnh cho các hoạt động giáo dục diễn ra đúng mục tiêu của nhà nước.

Trong hoạt động quản lí ở một cơ sở giáo dục và đào tạo địa phương phải tuân thủ những quy định, quy chế chuyên môn của ngành dọc (thực hiện quy chế thi cử, văn bằng chứng chỉ, chỉ thị năm học…). Sự kết hợp có hiệu quả sự chỉ đạo của ngành và lãnh thổ trong việc triển khai các hoạt động quản lí giáo dục là một nguyên tắc quan trọng trong quản lí nhà nước về giáo dục.

b. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí giáo dục và đào tạo

Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động chính trị xã hội ở nước ta, đồng thời cũng là một nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Quản lí nhà nước về giáo dục cũng tuân thủ nguyên tắc này. Nguyên tắc tập trung dân chủ yêu cầu nhà nước thống nhất quản lí hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương trình, nội dung… quy chế thi cử và hệ thống văn bằng (Điều 13, Luật Giáo dục). Bên cạnh đó phân cấp rõ ràng về quản lí giáo dục cho địa phương và tạo điều kiện để cơ sở phát huy chủ động và sáng tạo.

Nguyên tắc tập trung dân chủ cũng đòi hỏi trong quá trình triển khai quản lí, chỉ đạo cần tuân thủ những quy định chung của cấp trên về chủ trương, đường lối, phát triển giáo dục; đòi hỏi cơ sở phải tuân thủ hành lang pháp lí đã quy định nhưng tuyệt đối không được áp đặt, cần tạo điều kiện cho cơ sở phát huy quyền chủ động sáng tạo của họ.

Nguyên tắc tập trung dân chủ có thể vận dụng được trong hoạt động quản lí nhà nước về giáo dục ở cơ sở, cần trả lời cho câu hỏi: làm thế nào giải quyết tốt mối quan hệ giữa chế độ thủ trưởng và thực hiện dân chủ cơ sở ở một trường học?

Rõ ràng nguyên tắc tập trung dân chủ đối với quản lí nhà nước về giáo dục có nghĩa là Nhà nước thống nhất, tập trung quản lí về chế độ, chính sách giáo dục, về mục tiêu, nội dung giáo dục và quy chế văn bằng… Tuy nhiên, tạo điều kiện cho cơ sở chủ động sáng tạo trong việc triển khai các hoạt động giáo dục và quản lí giáo dục cụ thể, tránh việc ôm đồm hoặc buông lỏng trên cơ sở phân cấp, phân quyền về quản lí giáo dục rõ ràng bằng một hành lang pháp lí hợp lí, đồng bộ. Đối với cơ sở, phát huy quyền làm chủ của tập thể sư phạm, đồng thời đề cao trách nhiệm cá nhân theo chế độ thủ trưởng đối với việc quản lí nhà nước. Dân chủ hoá giáo dục, dân chủ hoá nhà trường là các tư tưởng lớn, tuy nhiên việc dựa vào các văn bản pháp luật, pháp quy để đảm bảo quyền và nghĩa vụ đối với mọi đối tượng tham gia hoạt động giáo dục là điều cần nắm chắc khi triển khai nguyên tắc tập trung dân chủ ở cơ sở.

Tóm lại, nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ ở đây là phát huy quyền chủ động của cơ sở dựa trên hành lang pháp lí được quy định bởi Luật Giáo dục và những văn bản pháp quy trong hoạt động quản lí giáo dục, đồng thời nâng cao tinh thần cá nhân phụ trách, tập thể lãnh đạo và phát huy dân chủ của tập thể theo quy chế dân chủ cơ sở do Chính phủ và Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.


1.1.3 Nội dung quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo

Quản lí nhà nước đối với các cấp quản lí đào tạo bao gồm các nội dung chủ yếu sau đây:

- Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển giáo dục;

- Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục; ban hành điều lệ nhà trường; ban hành quy định về tổ chức và hoạt động của cơ sở giáo dục khác;

- Quy định mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục; tiêu chuẩn nhà giáo; tiêu chuẩn cơ sở vật chất và thiết bị trường học; việc biên soạn, xuất bản, in và phát hành sách giáo khoa, giáo trình; quy chế thi cử và cấp văn bằng, chứng chỉ;

- Tổ chức, quản lý việc bảo đảm chất lượng giáo dục và kiểm định chất lượng giáo dục;

- Thực hiện công tác thống kê, thông tin về tổ chức và hoạt động giáo dục;

- Tổ chức bộ máy quản lý giáo dục;

- Tổ chức, chỉ đạo việc đào tạo, bồi dưỡng, quản lý nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục;

- Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để phát triển sự nghiệp giáo dục;

- Tổ chức, quản lý công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ trong lĩnh vực giáo dục;

- Tổ chức, quản lý công tác hợp tác quốc tế về giáo dục;

- Quy định việc tặng danh hiệu vinh dự cho người có nhiều công lao đối với sự nghiệp giáo dục;

- Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giáo dục; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về giáo dục.

Tuy nhiên QLNN ở các cấp độ khác nhau được cụ thể hoá nội dung không hoàn toàn giống nhau.

- Đối với Bộ GD&ĐT: Bộ Giáo dục và Đào tạo là cơ quan thành viên của Chính phủ thực hiện quyền QLNN về GD-ĐT ở cấp trung ương cần tập trung làm tốt những nội dung sau: Xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển giáo dục. Xây dựng và ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật làm căn cứ cho việc tổ chức và triển khai các hoạt động đổi mới giáo dục trong toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân; xây dựng, củng cố và tăng cường sức mạnh của bộ máy quản lý giáo dục từ trung ương đến cơ sở theo hướng đổi mới quản lý giáo dục, xác định lại chức năng nhiệm vụ của từng cơ quan quản lý, thực hiện phân công, phân cấp và đề cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở nhằm nâng cao tính hiệu lực và hiệu quả trong quản lý; xây dựng chính sách và cơ chế huy động, sử dụng và quản lí các nguồn lực nhằm bảo đảm các điều kiện cho việc thực hiện đổi mới giáo dục; tổ chức thanh tra, kiểm tra các hoạt động giáo dục ở các bậc học, ngành học trên phạm vi toàn quốc; đánh giá và thẩm định chất lượng giáo dục.


- Đối với cấp địa phương: Theo Nghị định số 166/2004/NĐ-CP ngày 16/9/2004, Chính phủ đã quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục của UBND các cấp. Cấp địa phương (tỉnh, huyện thông qua cơ quan chuyên môn của mình là Sở và Phòng GD&ĐT) thì cần tập trung làm tốt những nội dung chủ yếu sau:

+ Xây dựng, trình và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển giáo dục ở địa phương.

+ Giúp UBND quản lý công tác chuyên môn, nghiệp vụ, tổ chức, biên chế nhân sự, tài chính, tài sản và các hoạt động giáo dục khác của các cơ sở giáo dục theo đúng quy định của pháp luật.

+ Xây dựng, trình HĐND, UBND các giải pháp thực hiện xã hội hoá giáo dục; chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện;

+ Thực hiện kiểm tra, thanh tra việc chấp hành luật về giáo dục, xử lý vi phạm hoặc kiến nghị các cấp có thẩm quyền xử lý vi phạm trong lĩnh vực giáo dục theo quy định của pháp luật…

- Đối với cấp cơ sở giáo dục (cấp trường) tập trung làm tốt những nội dung chủ yếu sau:

+ Tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách GD&ĐT thông qua việc thực hiện mục tiêu, nội dung, kế hoạch giáo dục và bảo đảm các qui chế chuyên môn, thi cử ... do Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ban hành;

+ Quản lí đội ngũ sư phạm, học sinh, CSVC, tài chính ... theo các qui định của pháp luật;

+ Điều hành các hoạt động của nhà trường theo điều lệ nhà trường, nội quy nhà trường và giám sát sự tuân thủ đó;

+ Kết hợp các hoạt động kiểm tra nội bộ trường học với thanh tra của các cấp quản lý. 

Như vậy, mặc dù nội dung quản lí nhà nước về GD&ĐT đã được thể chế hoá thành điều 99 Luật Giáo dục, nhưng trong thực tiễn cần nhấn mạnh các nội dung theo cấp độ quản lí, điều này xác đinh "trọng số quan tâm" ở mỗi cấp đó. Nếu ở cấp trung ương chú trọng đến nội dung xây dựng cơ chế, chính sách, chiến lược, kế hoạch phát triển cho ngành ở phạm vi cả nước thì ở cấp độ địa phương (Sở - Tỉnh, Phòng - Huyện) lại khu trú phạm vi nội dung trên ở địa bàn được phân cấp còn ở cơ sở (nhà trường) nơi mà quản lí nhà nước được hiểu rất cụ thể là thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyển do nhà nước uỷ quyền triển khai các hoạt động quản lí nhà trường thì lại coi trọng việc tổ chức thực hiện những qui định của nhà nước (mà cụ thể là điều lệ nhà trường) ở những hoạt động giáo dục và QLGD cụ thể. Vì vậy, để thực hiện tốt chức năng quản lí nhà nước cần làm tốt công tác thể chế hoá và tăng cường giám sát việc thực hiện. Tuy cấp độ thể chế hoá ở một cấp không hoàn toàn giống nhau nhưng vai trò giám sát, thanh tra thì phải coi trọng ở mỗi cấp độ theo sự phân cấp rõ ràng.


1.1.4. Bộ máy quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo

a. Bộ Giáo dục và Đào tạo

Nghị định số 32/2008/NĐ-CP ngày 19/03/2008 quy định vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và  cấu tổ chức của Bộ GD&ĐT như sau:

*Vị trí và chức năng  

Bộ GD&ĐT là  quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về GD&ĐT thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và các cơ sở giáo dục khác về các lĩnh vực, mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch, chất lượng GD&ĐT, tiêu chuẩn nhà giáo, cán bộ quản lý GD, quy chế thi, tuyển sinh, hệ thống văn bằng, chứng chỉ, cơ sở vật chất và thiết bị trường học, quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ theo quy định của pháp luật.

- Cơ cấu tổ chức của Bộ giáo và Đào tạo:

 cấu tổ chức của Bộ GD&ĐT gồm:

+ Các tổ chức giúp bộ trưởng thực hiện chức năng QLNN về GD&ĐT có 23 đơn vị bao gồm: 15 Vụ, 5 Cục, Văn phòng, Thanh tra và  quan đại diện của Bộ tại thành phố Hồ Chí Minh.

+ Các tổ chức sự nghiệp thuộc Bộ gồm: Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, Học viện Quản lý giáo dục, Trường cán bộ quản lý giáo dục thành phố HCM, Báo Giáo dục và Thời đại, Tạp chí Giáo dục…

Trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo:

Bộ GD&ĐT chịu trách nhiệm thực hiện QLNN về GD theo quy định tại: Điều 99, Điều 100 Luật Giáo dục, Nghị định 32/2008/NĐ-CP, ngày 19/03/2008 của Chính phủ về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các đơn vị sự nghiệp của nhà nước và Điều 8, Điều 9 của nghị định số 71/2003/NĐ-CP ngày 19/06/2003 của Chính phủ về phân cấp quản lý biên chế hành chính, sự nghiệp nhà nước.

b. Tổ chức bộ máy của Sở Giáo dục và Đào tạo

Chức năng, nhiệm vụ của Sở Giáo dục – Đào tạo được xác định theo thông tư 47/2011/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 19/10/2011 Hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và  cấu tổ chức của Sở Giáo dục và Đào tạo như sau:

nguon VI OLET