Tuần thực hiện                                                         Kí duyệt:

 

                      Chuyên đề: ĐỊA LÍ ĐỊA PHƯƠNG NINH BÌNH

PHẦN I: LÝ DO THỰC HIỆN CHUYÊN ĐỀ

 Đổi mới dạy học nói chung, dạy học môn địa lí nói riêng là nhiệm vụ rất cần thiết, nhất là trong giai đoạn hiện nay học sinh ít hứng thú với môn học, học sinh chỉ tập trung học môn học địa lí  khi chuẩn bị cho kỳ kiểm tra hoặc ôn thi.

Với phương pháp dạy học truyền thống học sinh học tập thụ động, không có kỹ năng làm việc độc lập, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng thể hiện năng lực bản thân; đặc biệt là học sinh không tự tin khi trình bày quan điểm của bản thân trước lớp.

Dạy học theo chủ đề sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên sử dụng các phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực, nhằm phát triển năng lực và phẩm chất của học sinh; học sinh tích cực, tự lực, sáng tạo trong việc lĩnh hội kiến thức.

Dạy học theo chủ đề là một mô hình mới cho hoạt động lớp học thay thế cho lớp học truyền thống (với đặc trưng là những bài học ngắn, cô lập, những hoạt động lớp học mà giáo viên giữ vai trò trung tâm) bằng việc chú trọng những nội dung học tập có tính tổng quát, liên quan đến nhiều lĩnh vực, dạy học gắn liền với thực tiễn, lấy học sinh làm trung tâm.

Thông qua dạy học theo chủ đề, việc học của học sinh thực sự có giá trị vì nó kết nối với thực tế và rèn luyện được nhiều kĩ năng hoạt động và kĩ năng sống. Học sinh cũng được tạo điều kiện minh họa kiến thức mình vừa nhận được và đánh giá mình học được bao nhiêu và giao tiếp tốt như thế nào.Với cách tiếp cận này, vai trò của giáo viên chỉ là người hướng dẫn, chỉ bảo thay vì quản lý trực tiếp học sinh làm việc. Đó là lý do nhóm địa lý trường THPT Ngô Thì Nhậm chọn nội dung “Dạy học theo chủ đề trong môn địa lí lớp 12” để làm nội dung nghiên cứu.

PHẦN II: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1. Cơ sở lý luận 

Trong Công văn hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2015-2016, Bộ GDĐT nhấn mạnh: Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy học, đánh giá học sinh nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và rèn luyện phương pháp tự học của học sinh; tăng cường kĩ năng thực hành, vận dụng kiến thức, kĩ năng vào giải quyết các vấn đề thực tiễn; đa dạng hóa các hình thức học tập, chú trọng các hoạt động trải nghiệm sáng tạo, nghiên cứu khoa học của học sinh; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”.


Do đó, dạy học theo chủ đề với những lợi thế về đặc điểm như đã so sánh ở trên so với dạy học theo cách tiếp cận truyền thống, đặc biệt là nó có thể giải quyết được ba vấn đề trên, chính là bước chuẩn bị tương đối phù hợp cho đổi mới chương trình và sách giáo khoa trong thời gian tới.

2. Cơ sở thực tiễn

Thực tế trên cho thấy, khi giải quyết một vấn đề trong thực tiễn, bao gồm cả tự nhiên và xã hội, đòi hỏi học sinh phải vận dụng kiến thức tổng hợp hoặc liên quan đến nhiều môn học. Vì vậy, dạy học cần phải tăng cường theo hướng tích hợp đa chiều, liên môn. Do đó, hệ quả là buộc chúng ta phải xây dựng các chủ đề để tiến hành dạy học. Tất nhiên, việc xây dựng các chủ đề trong dạy học cũng không tham vọng sẽ giải quyết việc đưa toàn bộ thực tiễn vào chương trình, thậm chí mô hình này cũng chưa thể tạo ra một phương pháp giáo dục hoàn toàn mới, nhưng quan trọng hơn hết chính là nó mở đường cho giáo viên và học sinh tiếp cận với kiến thức theo một hướng khác. Không phải là sự thụ động mà là chủ động của học sinh. Không phải là sự tiếp nhận kiến thức sau khi học mà có thể là ngay khi làm nhiệm vụ học. Nó cũng không chỉ dừng ở mục tiêu “đầu vào” về kiến thức mà nó còn hướng tới định hướng “đầu ra” (tức khả năng vận dụng kiến thức vào giải quyết thực tiễn) nhờ vào việc xác định các năng lực cần phát triển song song với những mục tiêu về chuẩn nội dung kiến thức, kĩ năng trong chương trình học.

PHẦN III: NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ

I. Tác giả chuyên đề

Họ và tên: Lưu Thị Thanh – Đinh Thị Hiền

Đơn vị công tác: Trường THPT Ngô Thì Nhậm.

II. Đối tượng học sinh bồi dưỡng

- Học sinh lớp 12B.

- Dự kiến số tiết bồi dưỡng: 02 tiết.

III. MỤC TIÊU BÀI HỌC

Học xong bài này, HS có khả năng:


- Hiểu được một số đặc điểm cơ bản về vị trí địa lí, đặc điểm về điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên, đặc điểm về kinh tế – xã hội và một số ngành kinh tế của tỉnh Ninh Bình.

- Củng cố kĩ năng phân tích bảng số liệu thống kê.

- Biết được các phương pháp thu thập và xử lí tài liệu, trình bày một vấn đề cụ thể của địa lí địa phương.

- Giáo dục về môi trường.

- Biết các bước tổ chức một hội nghị khoa học.

- Thể hiện tình yêu quê hương, ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ xây dựng quê hương.

IV. PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC

- Bản đồ hành chính Ninh Bình.

- Bản đồ tự nhiên Ninh Bình. 

- Bản đồ kinh tế Ninh Bình.

- Bản đồ dân cư Ninh Bình.

- Các bảng số liệu thống kê có liên quan.

- Tài liệu Địa lí Ninh Bình.

V. TIẾN TRÌNH CHUÊN ĐỀ

Giao nhiệm vụ : Chuẩn bị và viết báo cáo về địa lí Ninh Bình

Bước 1: GV nêu yêu cầu của CHUYÊN ĐỀ.

Bước 2: GV chia lớp thành 5 nhóm, phân công nhiệm vụ.

- Nhóm 1: Chủ đề 1.                   - Nhóm 3: Chủ đề 3.

- Nhóm 2: Chủ đề 2.                   - Nhóm 4: Chủ đề 4.

                       - Nhóm 5: Chủ đề 5.

Bước 3 : Giáo viên  hướng dẫn học sinh thu thập, xử lí tài liệu.

- Tài liệu quan trọng nhất là: Tài liệu Địa lý Ninh Bình.

Bước 4 :  Học sinh  viết báo cáo.

Thực hiện trên lớp

1. Ổn định tổ chức

2. Tiến trình

* Khám phá: GV giới thiệu qua về quê hương Ninh Bình. Gợi mở cho các em tình yêu quê hương Ninh Bình.

- Các nhóm trình bày thảo luận theo chủ đề và giáo viên chuẩn kiến thức.

Chủ đề 1: Vị trí địa lí, phạm vi lãnh thổ và sự phân chia hành chính


I. Vị trí địa lí và phạm vi lãnh thổ

1. Vị trí địa lí và phạm vi lãnh thổ

- Nằm ở tây nam của Đồng bằng sông Hồng.

- Toạ độ địa lí:

+ Cực Nam 19057B  (Cửa Đáy, xã Kim Đông, huyện Kim Sơn).

+ Cực Bắc: 200­28 B  (xóm Lạc Hồng, xã Xích Thổ, huyện Nho Quan).

+ Cực Tây: 1050 3230  Đ  (núi Điện, xã Cúc Phương, huyện Nho Quan).

+ Cực Đông:  10505320 Đ  (bến đò Mười, xã Xuân Thiện, huyện Kim Sơn).

- Tiếp giáp:  + Phía Bắc giáp huyện Thanh Liêm tỉnh Hà Nam.

+ Phía TB giáp 2 huyện Yên Thuỷ và Lạc Thuỷ tỉnh Hoà Bình.

+ Phía nam là vịnh Bắc Bộ.

+ Phía đông và ĐB giáp huyện Ý Yên và Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định.

+ Phía tây và TN giáp huyện Thạch Thành, thị xã Bỉm Sơn, huyện Hà Trung và huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hoá.

+ Diện tích 1388,7 km2, chiếm khoảng 9% diện tích Đồng bằng sông Hồng.

- Sự phân chia hành chính: Gồm 6 huyện (Gia Viễn, Hoa Lư, Kim Sơn, Nho Quan, Yên Khánh và Yên Mô), 1 thị xã (Tam Điệp), 1 thành phố (Ninh Bình).

2. Ảnh hưởng của vị trí địa lí đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh

* Thuận lợi

- Nằm trong vùng Đồng bằng sông Hồng và vùng Bắc Bộ rộng lớn, giàu tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên, dân cư đông đúc, nguồn lao động dồi dào, điều đó có ảnh hưởng lớn việc phát triển kinh tế của tỉnh.

-  Nằm án ngữ con đường giao thông huyết mạch ( quốc lộ 1A và tuyến đường sắt Bắc – Nam) nối liền vùng kinh tế trọng điểm phía bắc, trong đó có thủ đô Hà Nội với các tỉnh duyên hải miền Trung và Tây Nguyên, đặc biệt là với thành phố Hồ Chí Minh và Đồng bằng sông Cửu Long. Đồng thời còn liên lạc trực tiếp và là cửa ngõ giao lưu của các tỉnh phía nam với vùng Tây Bắc giàu tiềm năng về tài nguyên, nhưng thiếu nhân lực có trình độ chuyên môn, thiếu vốn và kỹ thuật… Tỉnh có điều kiện thuận lợi để mở rộng các mối quan hệ nội vùng, ngoại vùng tạo nên động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội.

-  Bờ biển của tỉnh không dài (16,5 km), nhưng giàu tiềm năng nuôi trồng và khai thác thuỷ hải sản.

* Khó khăn: Diện tích không lớn, lại nằm ngoài vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, nên việc thu hút đầu tư trong và ngoài nước gặp nhiều khó khăn.


--------------------

Chủ đề 2: Đặc điểm tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên

II. Các đặc điểm nổi bật về tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên

1. Địa hình

Khá đa dạng, tuy nhiên đồng bằng chiếm trên 80% diện tích đất tự nhiên, còn vùng đồi núi chỉ chiếm gần 20% diện tích toàn tỉnh. Hướng dốc địa hình là hướng tây bắc - đông nam. Địa hình thể hiện khá rõ rệt tính chất phân bậc.

2. Khoáng sản

Khá đa dạng, trong đó có một số loại có giá trị:

-  Đá vôi có diện tích tới 2 vạn ha, với trữ lượng hàng chục tỉ m3  và hàng chục triệu tấn đôlômít làm nguyên liệu để sản xuất vật liệu xây dựng và một số hoá chất. Đất sét làm gạch ngói rất tốt ở Sơn Hà, Xích Thổ (Nho Quan), Đồng Giao, Ghềnh (Tam Điệp)… có thể cung cấp cho các xí nghiệp gạch ngói với công suất 20 – 30 triệu viên/năm. Ngoài ra còn có sét cao lanh làm nguyên liệu sành sứ, và sét để sản xuất xi măng.

- Than dùng làm nguyên liệu cháy: Gồm có than bùn, than mỡ, than nâu trữ lượng ít phân bố ở Nho Quan, Tam Điệp.

- Nước khoáng nóng: Có giá trị như nguồn nước khoáng Kênh Gà (Gia Thịnh, Gia Viễn). Ngoài ra ở Nho Quan còn phát hiện ra suối nước nóng Kỳ Phú, ở Cúc Phương.

Đánh giá: Nếu so sánh với các tỉnh có nhiều đồi núi như Hoà Bình, Thanh Hoá… thì Ninh Bình là tỉnh nghèo về tài nguyên khoáng sản, nhất là khoáng sản kim loại cần thiết cho phát triển công nghiệp, nhưng nếu so sánh với các tỉnh đồng bằng thì Ninh Bình lại là một trong số ít tỉnh có nhiều nguồn tài nguyên khoáng sản, nhất là đá vôi, sét, nước khoáng và than.

3. Khí hậu

Nằm trong đới gió mùa chí tuyến á đới có một mùa đông lạnh khô. Nền nhiệt cao, với nhiệt độ trung bình năm là 22,3 – 24,00C. Tổng nhiệt độ năm đạt tới 85000C. Trong năm có từ 8 đến 9 tháng có nhiệt độ trung bình trên 200C.

- Thuận lợi: Khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều và có một mùa đông lạnh thuận lợi cho phát triển sản xuất nông nghiệp với cơ cấu cây trồng đa dạng, tạo khả năng đưa vụ đông lên thành vụ chính.

- Khó khăn: Tính chất thất thường của chế độ nhiệt, sự giao động về ngày bắt đầu và kết thúc các mùa gây trở ngại cho việc quy định thời vụ. Sự thất thường của chế độ mưa gây ra tác hại lớn (úng lụt vào mùa mưa bão; nắng nóng, khô hanh vào mùa hạ hoặc mưa phùn kéo dài cuối đông).


4. Thuỷ  văn

Mạng lưới sông ngòi có mật độ khoảng 0,6 – 0,9 km/km2. Lượng nước sông ngòi khá dồi dào, dòng chảy trung bình đạt 30l/s/km2. Mạng lưới sông suối phân bố tương đối đều, gồm hàng chục các con sông lớn nhỏ với tổng chiều dài khoảng 1000 km. Các sông chính là sông Đáy, sông Hoàng Long, sông Bôi, sông Bến Đang, sông Nho Quan, sông Vạc.

- Hồ: Có nhiều hồ, đầm như đầm Cút (Gia Viễn), hồ Đồng Chương, hồ Yên Quang (Nho Quan), hồ Yên Thắng (Yên Mô). Các hồ này ngoài giá trị thuỷ lợi chứa và tưới nước, đều có cảnh quan đẹp, nằm trong quần thể các núi đá vôi, tiềm năng để phát triển du lịch.

- Thuận lợi: Sông ngòi dẫn nước sông có phù sa mầu mỡ cung cấp cho đồng ruộng, lại vừa có tác dụng tiêu nước trong đồng ruộng ra sông khi bị mưa úng lụt, tạo điều kiện cho giao thông đường thuỷ.

5. Thổ nhưỡng

Có 4 nhóm đất chính:

- Nhóm đất phù sa: Có diện tích lớn nhất 74529,8 ha, chiếm 53% diện tích, phân bố chủ yếu ở Yên Khánh, Kim Sơn, Hoa Lư, Yên Mô…, thích hợp cho thâm canh lúa, cây ngắn ngày.

- Nhóm đất mặn: Có diện tích 14194,4 ha, chiếm 10,1% diện tích, phân bố ở vùng ven biển Kim Sơn. Đất mặn điển hình thích hợp cho phát triển hệ sinh thái rừng ngập mặn, nuôi trồng hải sản. Đất mặn trung bình hoặc ít chủ yếu trồng cói, cải tạo mặn, sau đó trồng lúa.

- Nhóm đất xám bạc màu: Có diện tích 3481 ha, chiếm 2,5% diện tích, có ở Nho Quan, Yên Mô, Gia Viễn, Tam Điệp và rải rác ở các nơi khác.

- Nhóm đất đỏ vàng: Diện tích 24997,3 ha, chiếm 17,8% diện tích tự nhiên của tỉnh. Phân bố chủ yếu ở xã Quang Sơn, Nông trường Đồng Giao của thị xã Tam Điệp, xã Quỳnh Lưu, Xích Thổ, Vườn quốc gia Cúc Phương huyện Nho Quan và một phần huyện Gia Viễn, huyện Yên Mô.

6. Sinh vật

- Thực vật: Thảm thực vật tự nhiên nói chung còn lại rất ít, chủ yếu là các lùm cây bụi lúp xúp. Chỉ có rừng Cúc Phương nơi có địa hình núi đá vôi hiểm trở và được nhà nước quy hoạch bảo vệ từ lâu nên rừng còn phong phú cả về hệ sinh thái, về loài và về gen. Ngoài ra, ở một số nơi trên sườn núi đá vôi có thảm thực vật thứ sinh nghèo. Ở ven biển Kim Sơn có một ít rừng ngập mặn với cây sú, vẹt thưa thớt.

- Động vật: Có nhiều loại trong đó có một số loài động vật hoang dã có ý nghĩa quan trọng trong bảo vệ nguồn gen.


---------------------

Chủ đề 3: Đặc điểm dân cư – lao động

III. Đặc điểm dân cư

1.  Dân số và sự gia tăng dân số

- Dân số: 915,7 nghìn người, chiếm hơn 1,1% dân số cả nước, đứng thứ 10 trong 11 tỉnh, thành phố của Đồng bằng sông Hồng (năm 2005). Dân số thuộc loại trung bình của cả nước. Phân bố không đồng đều, tập trung đông nhất ở Kim Sơn, Nho Quan,…, thị xã Tam Điệp có số dân ít nhất (năm 2005)

- Sự gia tăng dân số: Năm 1992 là 802,6 nghìn người, năm 2005 là 915,7 nghìn người. Từ năm 1995 trở lại đây, dân số đang có xu hướng tăng chậm lại.

-  Kết cấu dân số theo độ tuổi: Năm 2005, số người dưới độ tuổi lao đông chiếm 28,3% dân số, trong độ tuổi lao động chiếm 59,4% dân số, quá độ tuổi lao động chiếm 12,3% dân số. Xu hướng thay đổi: giảm mạnh tỉ lệ nhóm tuổi dưới lao động, tăng tỉ lệ nhóm tuổi trong độ tuổi lao động và quá độ tuổi lao động.

-  Sự phân bố dân cư: Năm 2005 mật độ dân số trung bình là 659 người/km2, gấp 2,6 lần mật độ dân số cả nước, nhưng thấp nhất so với các tỉnh ở vùng Đồng bằng sông Hồng. Dân cư phân bố không đồng đều giữa khu vực phía đông và phía tây. Những huyện có mật độ dân số cao là Yên Khánh, Kim Sơn và Hoa Lư; còn Nho Quan, Gia Viễn và Tam Điệp có mật độ dân số thấp hơn. Dân cư nông thôn chiếm 86,4%, dân thành thị chiếm 13,6%.

2. Thuận lợi

-  Nguồn lao động dồi dào, nguồn lao động bổ sung hàng năm lớn, lực lượng lao động trẻ năng động, nhạy bén.

3. Khó khăn

- Kết cấu dân số tạo nên sức ép lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, đối với tài nguyên môi trường và nâng cao đời sống nhân dân trong tỉnh.

- Gia tăng dân số gây khó khăn trong việc giải quyết việc làm cho số lao động mới gia tăng.

- Phân bố dân cư không đều gây khó khăn cho việc phát triển kinh tế, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống cho nhân dân, gây khó khăn trong việc sử dụng hợp lí lao động và khai thác hợp lí các nguồn tài nguyên của các khu vực trong tỉnh.

IV. Đặc điểm nguồn lao động

1. Thực  trạng nguồn lao động

- Nguồn lao động tương đối dồi dào, năm 2005 số người trong độ tuổi lao động là 549.427 người (tăng 54.899 lao động so với năm 2000), chiếm 59% dân số,


-  số lao động làm việc trong các ngành kinh tế là 460.439 người chiếm 84% tổng số lao động. Bình quân mỗi năm tăng hàng chục nghìn lao động.

- Năm 2006, lao động có trình độ đại học, cao đẳng chiếm 3,1%, trình độ trung học chuyên nghiệp chiếm 4,27%, tỉ lệ lao động qua đào tạo là 26%, trong đó tỉ lệ qua đào tạo nghề là 19%.

- Tỉ lệ lao động nông nghiệp cao, người lao động còn thiếu tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động và trình độ chuyên môn, tay nghề còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

2. Hướng giải quyết

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đẩy mạnh việc đào tạo nghề, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật cho lao động.

3. Vấn đề việc làm và hướng giải quyết

a) Thực trạng

Bình quân mỗi năm có hơn 12.000 lao động không có việc làm ( năm 2005 là 12.936 lao động không có việc làm). Theo kết quả điều tra ngày 01/7/2004, ở khu vực thành thị tỉ lệ lao động thất nghiệp là 3,94%, thiếu việc làm là 4,73%; ở khu vực nông thôn tỉ lệ thời gian thiếu việc làm là 24,2% (Đồng bằng sông Hồng năm 2005 có tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị là 5,61%, tỉ lệ thời gian thiếu việc làm ở nông thôn là 21,25%).

b) Hướng giải quyết

- Phân bố lại dân cư và lao động giữa các vùng để khai thác tốt tiềm năng của mỗi vùng, tạo thêm việc làm cho người lao động.

- Đẩy mạnh kế hoạch hoá gia đình và đa dạng hoá các hoạt động kinh tế ở nông thôn. Phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá thâm canh, khôi phục và phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống, các hoạt động dịch vụ ở nông thôn, thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá nông thôn.

- Đẩy mạnh đào tạo nghề, nhất là cho lao động ở vùng giải phóng mặt bằng làm khu công nghiệp, cụm công nghiệp gắn với quy hoạch xây dựng nhà ở, khu vui chơi giải trí cho lao động.

- Phát triển hoạt động công nghiệp và dịch vụ. Mở rộng liên doanh hợp tác đầu tư nước ngoài.

- Đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động, xây dựng cơ chế chính sách về đào tạo nguồn lao động để người lao động có cơ hội tìm việc làm tốt hơn, có thu nhập cao hơn.


- Đa dạng hoá các loại hình đào tạo, đẩy mạnh hoạt động hướng nghiệp, dạy nghề ở các nhà trường, các trung tâm học tập cộng đồng, hoạt động giới thiệu việc làm, giúp cho người lao động có thể tự tạo việc làm hoặc dễ t́m việc làm hơn.

----------

Chủ đề 4: Khái quát về tình hình phát triển kinh tế

V. Quá trình phát triển kinh tế

-  Thời kì cơ chế bao cấp (1954 – 1986): Nhìn chung nền kinh tế chậm phát triển, mang nặng tính chất tự cung tự cấp, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn.

- Thời kỳ đổi mới (1986 đến nay): Đây là thời kỳ thăng hoa của nền kinh tế nước ta nói chung và tỉnh Ninh Bình nói riêng. Công cuộc Đổi mới toàn diện của Đảng và Nhà nước diễn ra được 8 năm thì tỉnh Ninh Bình tái lập trên cơ sở tách ra từ tỉnh Hà Nam Ninh. Mười năm xây dựng và phát triển (1992 – 2007), vượt lên mọi khó khăn và trở ngại, kinh tế – xã hội Ninh Bình đã có nhiều đổi thay đáng trân trọng, nhưng cũng bộc lộ một số hạn chế cần khắc phục.

VI. Hiện trạng về kinh tế

Những thành tựu đã đạt được về kinh tế từ khi tái lập tỉnh (năm 1992) đến năm 2005.

1. Sự tăng trưởng của tổng sản phẩm (GDP)

Từ 1995 – 2005 tổng sản phẩm đã tăng liên tục và khá cao, mức gia tăng trung bình là 10,6%/năm, cao hơn mức gia tăng trung bình cùng thời kỳ của cả nước (7,4%).

2. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế

- Cơ cấu ngành kinh tế: Chuyển dịch theo hướng giảm tỉ trọng khu vực I từ 63% (năm 1992) xuống còn 30,6% (năm 2005), tăng tỉ trọng khu vực II từ 25,4% (năm 1992) lên 35,2% (năm 2005) và tăng tỉ trọng khu vực III từ 21,6% (năm 1992) lên 34,2% (năm 2005).

- Trong nội bộ từng ngành kinh tế cũng có sự biến động rõ rệt: Ở khu vực I, giảm dần tỉ trọng của trồng trọt từ 74% (năm 1995) xuống còn 64% (năm 2005), tỉ trọng chăn nuôi tăng dần từ 24,9% (năm 1995) lên 34,4% (năm 2005). Ở khu vực II, cơ cấu ngành công nghiệp đa dạng hơn; tăng tỉ trọng các ngành công nghiệp chế biến, giảm tỉ trọng các ngành công nghiệp khai thác.

- Cơ cấu thành phần kinh tế: Thành phần kinh tế cá thể luôn chiếm tỉ trọng cao nhất và ít biến động (chiếm 33,9% năm 2000 và 32,9% năm 2005), kinh tế tư nhân và kinh tế Nhà nước có tỉ trọng tăng lên (tương ứng là 4% lên 17,3% và 29,2% lên 31,8%), tỉ trọng của thành phần kinh tế tập thể lại giảm mạnh (từ 32,9% năm 2000 xuống còn 18,0% năm 2005).


- Cơ cấu lãnh thổ kinh tế: Trong những năm đầu của thế kỉ XXI, cơ cấu lãnh thổ kinh tế của tỉnh cũng có những bước đột phá đáng kể. Trong nghiệp đã hình thành một số vùng chuyên canh theo hướng sản xuất hàng hoá, điển hình là vùng lúa đặc sản (Yên Khánh, Kim Sơn), vùng cây ăn quả (Tam Điệp, Nho Quan), vùng chăn nuôi trâu bò lấy thịt (Nho Quan), vùng nuôi lợn sữa, lợn siêu nạc (Yên Khánh), vùng nuôi cá nước ngọt (Gia Viễn), vùng nuôi tôm nước lợ (Kim Sơn). Trong công nghiệp đã quy hoạch hai khu công nghiệp (Ninh Phúc, Tam Điệp) và 20 cụm công nghiệp.

-  Vị trí về kinh kế so với cả nước: Khả năng đóng góp vào giá trị tổng sản phẩm của cả nước rất nhỏ, chiếm khoảng 0,56% (năm 2005 theo giá thực tế).

3. Những thế mạnh và hạn chế

a) Những thế mạnh

GDP có mức tăng trưởng khá cao, cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch đúng hướng, các nguồn lực đã được phát huy, đời sống nhân dân được cải thiện.

b) Những hạn chế

Hiện trạng Ninh Bình vẫn là một tỉnh nghèo trong khu vực Đồng bằng sông Hồng. Quy mô nền kinh tế còn nhỏ bé, phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh của địa phương.

- GDP bình quân trên đầu người còn thấp (năm 2005 là 5,3 triệu động, gần bằng một nửa mức bình quân GDP của cả nước và thấp nhất ở Đồng bằng sông Hồng).

- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm, tỉ trọng của khu vực I đã giảm nhưng vẫn

còn cao, tỉ trọng khu vực II đã tăng lên nhưng còn thấp so với cơ cấu kinh tế cả nước.

- Hoạt động kinh tế đối ngoại còn nhiều hạn chế: Tổng kim ngạch xuất khẩu rất thấp, năm 2005 chỉ đạt 21,9 triệu USD, mặt hàng xuất khẩu chưa đa dạng, chủ yếu là nông sản và các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, chất lượng và sức cạnh tranh chưa cao. Hoạt động thu hút vốn đầu tư nước ngoài gần như còn bỏ trắng và cũng chưa có biện pháp cụ thể để tháo gỡ vấn đề này.

- Hoạt động du lịch và dịch vụ: Hoạt động du lịch chưa có hiệu quả, dịch vụ du lịch còn nghèo nàn, đội ngũ lao động du lịch còn yếu kém, chưa đáp ứng được nhu cầu của du khách. Số lượng khách đến hàng năm còn ít, doanh thu chưa cao (năm 2005 mới có trên 1 triệu lượt khách và doanh thu là 63 tỷ đồng).

4. Hướng phát triển

- GDP thời kỳ 2005 – 2010 bình quân mỗi năm tăng 14,5%, thu nhập bình quân đầu người tăng 2,5 lần.


-  Đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra những bước ngoặt có tính đột phá, thúc đẩy kinh tế phát triển. Đến năm 2010, cơ cấu kinh tế sẽ là: Khu vực I chiếm 17,0%, khu vực II chiếm tỉ trọng 48,0%, khu vực III chiếm 35%.

-  Xây dựng một cơ chế chính sách đồng bộ và phù hợp để thu hút nguồn vốn trong nhân dân, ở tỉnh ngoài và nước ngoài vào hai ngành kinh tế mũi nhọn là công nghiệp và du lịch.

-  Gắn sản xuất với chế biến và vấn đề môi trường, nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững trên quy mô toàn tỉnh.

-  Về du lịch: Khai thác có hiệu quả các tiềm năng và thế mạnh về cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử, các danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh. Coi du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn. Phấn đấu đến năm 2010 doanh thu đạt 350 tỉ đồng.

---------------------

Chủ đề 5: Địa lí một số ngành kinh tế chính

VII. Địa lí nông – lâm nghiệp và thuỷ sản

1. Điều kiện phát triển

a) Điều kiện tự nhiên

* Địa hình, đất đai

- Thuận lợi:

+ Đa dạng, vừa có đồi núi, vừa có đồng bằng, vừa có vùng ô trũng và đất mặn ven biển.

+ Vùng đồi núi tập trung chủ yếu ở các huyện Nho Quan, thị xã Tam Điệp và một phần thuộc huyện Gia Viễn, Hoa Lư..., ở đây có đất feralít phát triển trên đá vôi, đá phiến và các loại đá mẹ khác, thích hợp cho trồng cây công nghiệp lâu năm, cây ăn quả, trồng rừng và chăn thả gia súc lớn.

+ Vùng đồng bằng tập trung chủ yếu ở thành phố Ninh Bình, huyện Yên Khánh, Kim Sơn và một phần thuộc các huyện Yên Mô, Gia Viễn, Hoa Lư..., có đất phù sa màu mỡ do sông ngòi bồi đắp, rất thuận lợi cho trồng lúa và các cây công nghiệp hàng năm, vùng ô trũng Gia Viễn có thể kết hợp trồng lúa một vụ với nuôi trồng thuỷ sản.

+ Vùng ven biển huyện Kim Sơn, trên đất phù sa mới bồi tụ thích hợp với trồng rừng ngập mặn để chắn sóng và gió bão, ngoài ra có thể kết hợp nuôi tôm sú, cua bể đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn nhiều so với trồng lúa nước hoặc cói.

- Hạn chế: Vùng đồi núi đất dốc dễ bị xói mòn, rửa trôi trong mùa mưa; vùng ven biển đất bị nhiễm ặn, phèn phải cải tạo tốn kém.

* Khí hậu, sông ngòi

- Thuận lợi:

nguon VI OLET