Khái quát lịch sử phát triển tư tưởng địa- chính trị thế giới.

Ts Nguyễn Thế Lực- Viện quan hệ quốc tế- Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

Địa- chính trị là một môn khoa học đã có ngay từ khi có sự xuất hiện các nhà nước quốc gia- dân tộc. Tuy nhiên, cũng còn không ít những quan điểm sai trái do các lực lượng chính trị phản động lợi dụng để phục vụ cho các tư tưởng dân tộc cực đoan, chủ nghĩa phát xít..., nhất là trong 2 cuộc Đại chiến thế giới. Do vậy trong một thời gian dài, khoa học địa- chính trị đã bị lãng quên, phải đến thập kỷ 60 trở lại đây, bộ môn khoa học này mới bắt đầu được chú ý trở lại và dần dần phát triển phù hợp với các xu thế mới của thế giới.

Địa- chính trị là khoa học nghiên cứu về mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố địa lý và chính trị. Mục đích của nó là nhằm luận giải các quan hệ quốc tế dựa trên các yếu tố địa lý, tức là nghiên cứu các thực thể, quá trình, xu hướng cũng như sự phân bố quyền lực chính trị trên phạm vi địa lý và trong thời điểm lịch sử cụ thể.

Trong những năm gần đây, khái niệm "địa- chính trị" thường được đề cập nhiều trong các công trình nghiên cứu về quan hệ quốc tế. Đó là vì quá trình nghiên cứu về chính trị thế giới hiện nay vẫn dựa trên việc phân tích tình hình ở các khu vực, các quốc gia. Việc xác định các nước láng giềng, các khu vực có vị trí trọng yếu với những ý đồ và chiến lược có thể là đối tác quan hệ hoặc là đối tượng đấu tranh ... luôn là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với mỗi quốc gia trong thời đại hiện nay. Từ đó các nước có thể tiến hành việc hoạch định chiến lược đối ngoại của mình sao cho phù hợp với tình hình thế giới và khu vực, để phục vụ kịp thời mục tiêu phát triển đất nước. Trong điều kiện thế giới đang có nhiều diễn biến sâu sắc và phức tạp như hiện nay, vai trò của địa- chính trị với tư cách là một khoa học tiếp cận, nghiên cứu quan hệ quốc tế sẽ ngày càng được chú ý và coi trọng.

Tư tưởng về địa- chính trị đã có từ rất lâu đời, ngay khi có sự xuất hiện các nhà nước quốc gia- dân tộc. Nhưng phải đến nửa sau thế kỷ XIX, địa- chính trị mới trở thành một khoa học độc lập. Có thể chia quá trình phát triển tư tưởng địa- chính trị thành các giai đoạn chủ yếu sau:

1. Giai đoạn từ thế kỷ XIX đến chiến tranh thế giới thứ nhất.

Người được coi là cha đẻ của địa- chính trị học là một lý thuyết gia người Mỹ- ông Alfred Theyer Mahan (1840- 1914). Khái niệm cơ bản được ông sử dụng là " các vùng biển và quyền lực quốc gia ". Tác phẩm được coi là kinh điển của địa- chính trị học có tên gọi "Sự ảnh hưởng của quyền lực hàng hải đối với lịch sử" được Mahan viết năm 1890. Trong cuốn sách này, Mahan một mặt phân tích tác động của việc kiểm soát các vùng biển, lãnh hải (nhất là các vùng hẹp) đối với đường giao thông biển của các quốc gia; mặt khác ông cũng nghiên cứu về sự lớn mạnh của đế chế Anh với tư cách là một quốc gia hải đảo. Từ đó, ông đi đến kết luận: Việc kiểm soát quyền lực trên biển là vấn đề cực kỳ quan trọng đối với quyền lực quốc gia, những quốc gia có lối vào trên biển dễ trở thành cường quốc hơn các quốc gia trên bộ. Có thể nói, tư tưởng này của Mahan có ảnh hưởng rất lớn đối với các lý thuyết địa- chính trị sau này.

1

 


Năm 1899, Rudolph Kjellen- nhà địa lý học Thuỵ Điển là người đầu tiên đã sử dụng thuật ngữ "địa- chính trị". Năm 1905, Kjellen sử dụng thuật ngữ này nhằm biểu thị "khoa học của một quốc gia với tư cách là một vùng trong không gian". Quan niệm này của ông chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng địa- chính trị của Friedrich Ratzel (người Đức). Kjellen quan niệm quốc gia như một cơ thể sống và có một quyết tâm sống mãnh liệt. Năm 1917, Kjellen đã nêu lên định nghĩa về địa - chính trị: Đó là khoa học coi quốc gia là một tổ chức về mặt địa lý hay là một hiện tượng trong không gian. "Tổ chức" này bị ràng buộc với cuộc đấu tranh không bao giờ kết thúc để có được các nguồn lực cần thiết cho sự sống, trong đó lãnh thổ là cái quan trọng nhất.

Người có sự mô tả rõ ràng và tương đối phong phú về thế giới dưới góc độ địa - chính trị là nhà địa lý học người Anh - Sir Halford Mackinder (1861-1947). Ông đã nêu ra tư tưởng về "trục quay địa lý của lịch sử". Ông cho rằng, trái đất là một hệ thống đóng, trong đó sự thay đổi trên một bộ phận của hệ thống này sẽ làm thay đổi sự cân bằng của các mối quan hệ trên tất cả các phần còn lại. Mackinder rất quan tâm tới sự chi phối về mặt địa lý, đặc biệt là quyền lực của đất và quyền lực của nước (biển và đại dương). Đến sau chiến tranh thế giới thứ nhất, Mackinder đưa ra học thuyết "Vùng đất trung tâm", trong đó ông đã nhìn thấy mối quan hệ giữa 3 yếu tố địa lý- kỹ thuật- chính trị của một quốc gia, sự phát triển của 3 yếu tố ấy sẽ đem lại quyền lực trên đất liền chứ không phải trên biển như Mahan quan niệm. Mackinder đã nêu lên một luận điểm nổi tiếng: Ai chiếm được vùng Đông Âu thì sẽ chiếm được vùng đất trung tâm (hàm ý nói về nước Nga); ai nắm được vùng đất trung tâm sẽ chỉ huy được hòn đảo của thế giới (đại lục á- Âu); ai nắm được hòn đảo của thế giới sẽ chi phối được cả thế giới. Quan điểm của Mackinder đã rất được ưa chuộng trong giới khoa học chính trị phương Tây thời đó.

2. Giai đoạn giữa hai cuộc chiến tranh thế giới.

Vào những năm 20 của thế kỷ XX, trung tâm nghiên cứu về địa- chính trị đã chuyển sang nước Đức, hình thành nên một trường phái địa chính trị mới do Karl Haushofer đứng đầu. Tư tưởng cơ bản của trường phái này nhằm đưa nước Đức trở lại với vị trí quyền lực trong đời sống quan hệ quốc tế sau thất bại nặng nề trong chiến tranh thế giới thứ nhất. Quan điểm địa - chính trị của người Đức thời kỳ này đặc biệt nhấn mạnh tới yêu cầu về không gian lãnh thổ của một quốc gia.

Từ năm 1924, Haushofer đã sáng lập ra tạp chí chuyên ngành về địa - chính trị với tên gọi "Zeitschirift Fiir Geopolitik", trong đó đăng nhiều bài bào chữa và khuyếch trương cho chính sách dân tộc cực đoan, cũng như hành động xâm chiếm lãnh thổ đầy tội ác của chủ nghĩa phát xít Đức. Ông ta đã đưa ra khái niệm "không gian sinh tồn" quốc gia và nhìn thế giới dưới góc độ có một vùng đất trung tâm (nước Đức) và các khu vực liên quan. Từ đó, ông ta cho rằng nước Đức là một tổ chức quan trọng sống còn được thiên phú cho cái quyền tự nhiên đi bành trướng xâm lược, thống trị các dân tộc khác. Có thể nói, lý thuyết địa - chính trị của Haushofer lúc ấy đã trở thành nền móng về mặt tri thức và là công cụ tuyên truyền cho cuộc chiến tranh xâm lược thế giới của nước Đức quốc xã.

1

 


Năm 1921, Isaiah Bowman - một lý thuyết gia về địa - chính trị người Mỹ và là kiến trúc sư của sự phân chia lãnh thổ trong Hội nghị Versailles sau chiến tranh thế giới thứ nhất - đã cho xuất bản cuốn sách "Thế giới mới - các vấn đề trong địa - chính trị". Trong đó, thế giới được nhìn nhận như là một thực thể thống nhất; đồng thời Bowman phân tích, đánh giá tình hình thế giới sau chiến tranh với nhiều lợi thế thuộc về Mỹ. Cuốn sách đã thu hút sự quan tâm mạnh mẽ của các chính trị gia, đến năm 1928 được tái bản đến lần thứ tư và trở thành một trong những cuốn sách bán chạy nhất trong thời kỳ đó.

Tóm lại, trong suốt một thời kỳ lịch sử dài, các nhà địa - chính trị học trên thế giới đã nhấn mạnh mối quan hệ giữa các yếu tố địa lý và chính trị, cố gắng phân tích và luận giải vai trò của địa - chính trị trong nghiên cứu các mối quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, cũng còn không ít các quan điểm sai trái và bị các lực lượng chính trị phản động lợi dụng để phục vụ cho các tư tưởng dân tộc cực đoan, phát xít v.v....

3. Giai đoạn từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay.

Sự vận động thăng trầm của địa - chính trị học sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc là một nét đặc thù của đời sống khoa học chính trị quốc tế. Với tư cách là một nội dung học thuật, địa- chính trị gần như bị lãng quên do ảnh hưởng của sự căm ghét chủ nghĩa phát xít Đức tại các nước phương Tây. Thuật ngữ địa - chính trị (Geopolitics) được hiểu theo nghĩa tiêu cực và bị loại ra khỏi danh mục các môn khoa học chính trị. Phải đến thập kỷ 60, địa- chính trị mới bắt đầu được chú ý trở lại và dần dần được phát triển theo quan điểm của những nhà tư tưởng Mỹ, tiêu biểu trong số đó là Saul Cohen. Do có nhận thức sâu sắc rằng những vấn đề địa - chính trị là cực kỳ quan trọng, nên Cohen đã cố gắng duy trì nghiên cứu thế giới từ góc độ địa - chính trị và ông đã khuyến cáo các chính trị gia không được xem thường hoặc phủ nhận các vấn đề đó.

ở thời kỳ chiến tranh lạnh, trật tự hai cực Xô - Mỹ đã phân chia thế giới thành hai phe, hai hệ thống xã hội đối lập nhau. Sự tập hợp lực lượng xung quanh các siêu cường này càng làm rõ nét những khu vực và vùng lãnh thổ bị ảnh hưởng của các chế độ xã hội khác nhau. Để bảo vệ mình và đồng minh, các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) đứng đầu là Liên Xô lúc đó đã thành lập ra Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) vào năm 1949 và khối Vacsava năm 1955. Còn Mỹ và các nước phương Tây lập ra Khối quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO) năm 1949. Đồng thời, các nước tư bản đã thành lập 130 căn cứ quân sự ở Tây Âu và 500 căn cứ quân sự ở Châu á - Thái Bình Dương, tạo thành vành đai địa- chính trị bao vây và ngăn chặn ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội. Như vậy, hai siêu cường thế giới đã xây dựng và phát triển lực lượng chính trị - quân sự nhằm thực hiện các mục tiêu chiến lược riêng. Vì vậy, trong thời kỳ chiến tranh lạnh (nhất là những năm 60-70), việc nghiên cứu địa - chính trị phát triển mạnh ở Mỹ, Tây Âu và Liên Xô (trước đây). Nó phản ánh cuộc đối đầu gay gắt giữa các phe Xô - Mỹ, Đông - Tây, chủ nghĩa xã hội - chủ nghĩa tư bản....

1

 


Trong bối cảnh đó, Saul Cohen cho rằng, việc hoạch định đường lối đối ngoại của Mỹ phải tiếp cận từ giác độ các lý thuyết địa - chính trị. Năm 1964, Cohen đã đưa ra bản thiết kế về một thế giới được phân chia thành các khu vực địa - chiến lược dưới áp lực của các siêu cường. Từ khu vực địa - chiến lược, Cohen chia nhỏ thành các khu vực địa - chính trị. Các siêu cường cạnh tranh nhau để có được các nước trong khu vực địa - chính trị gắn bó, trung thành với mình. Theo Cohen, các quốc gia có quyền lực lớn ngày càng đóng vai trò quyết định trong những vấn đề toàn cầu.

Năm 1991, Cohen đã cho công bố những sản phẩm nghiên cứu về địa - chính trị của mình, trong đó đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng địa - chiến lược của hai lãnh địa đối với Mỹ. Đó là: Lãnh địa mậu dịch hàng hải hướng ngoại (Tây Âu, châu Phi, các nước châu Mỹ) và lãnh địa lục địa hướng nội (Liên Xô trước đây, Trung Quốc). Phần lớn các khu vực có vị trí quyền lực trọng yếu ở hàng thứ hai đều nằm trong phạm vi hai lãnh địa này. Có 3 khu vực nằm ngoài hai lãnh địa trên là: Khu vực Nam á độc lập; khu vực vành đai đứt đoạn Trung Đông và khu vực cửa ngõ Trung- Đông Âu.

ở Liên Xô (trước đây), những tri thức địa- chính trị được coi là một trong những nội dung cơ bản của môn học quan hệ quốc tế. Nó đã được đưa vào giảng dạy trong các trường đại học ngoại giao, các cơ sở đào tạo cán bộ làm công tác đối ngoại, cán bộ lãnh đạo của Đảng và Nhà nước Xô Viết. Những kiến thức địa- chính trị ở Liên Xô (trước đây) được nghiên cứu và giảng dạy dưới tên gọi "Bản đồ chính trị thế giới". Mục đích của môn học này là nhằm cung cấp một cách có hệ thống những tri thức về điều kiện địa lý tự nhiên, tiềm năng kinh tế, văn hoá, nhân lực, về các quá trình, sự kiện chính trị- xã hội đang diễn ra trên thế giới (ở từng khu vực và ở các nước lớn). Các quốc gia, các khu vực được phân chia chủ yếu theo tiêu chí hệ tư tưởng, thể chế chính trị- xã hội và hình thành hai nhóm nước XHCN và TBCN.

Chiến tranh lạnh kết thúc, trật tự thế giới hai cực cùng với hệ thống XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ làm biến đổi sâu sắc bản đồ chính trị thế giới. Sự thay đổi tương quan so sánh lực lượng giữa các nhóm nước, các khu vực và các châu lục diễn ra nhanh chóng. Lúc này, hợp tác và đấu tranh trên thế giới rất phức tạp; xu thế khu vực hoá, quốc tế hoá nền kinh tế thế giới phát triển mạnh. Các nước đều nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đồng thời đẩy mạnh đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại. Tình hình trên đặt ra nhiều yêu cầu bức xúc trong nghiên cứu địa- chính trị ở hầu hết các quốc gia trong giai đoạn hiện nay nhằm làm rõ các vấn đề cơ bản sau: Vai trò và chính sách của các nước lớn, các trung tâm sức mạnh kinh tế, chính trị trên thế giới như thế nào; vì sao có những khu vực phát triển năng động, đồng thời cũng không ít khu vực bị mất ổn định, gây ra những hậu quả nặng nề; vai trò, vị trí của các châu lục, các tổ chức kinh tế- thương mại thế giới trong đời sống quan hệ quốc tế v.v....

1

 


Như vậy, sau những bước thoái trào (trong khoảng một phần tư thế kỷ sau chiến tranh thế giới thứ hai), tư tưởng địa- chính trị đã dần dần được hồi phục và phát triển. Từ thập kỷ 80, địa- chính trị đã được sử dụng phổ biến hơn để phân tích các vấn đề toàn cầu và khu vực. Hiện nay, nhiều nhà hoạch định chính sách trên thế giới thường xuyên sử dụng các tri thức khoa học địa- chính trị. Chính điều này đã làm tăng giá trị và tính phổ biến của môn khoa học này. Trong địa- chính trị học hiện đại, người ta không chỉ chú ý đến mối quan hệ của yếu tố địa lý tự nhiên với chính trị mà cần chú trọng hơn đến địa lý- nhân văn (môi trường, lao động...). Điều đó phù hợp với xu thế toàn cầu hoá, quốc tế hoá các lĩnh vực của đời sống thế giới trước ngưỡng cửa của thiên niên kỷ mới.

(Biên tập: Nguyễn Thị Hương Giang; nguồn: http://www.clst.ac.vn/AP/tapchitrongnuoc/hdkh/2000/so07/16.htm  ).

 

Tài nguyên địa chính trị của Việt Nam

Vũ Hồng Lâm

  26/11/2005 08:28:26 AM 

 

Tài nguyên địa chính trị là một khái niệm ít được dùng nhưng bản thân tài nguyên địa chính trị lại được khai thác và sử dụng thường xuyên. Vận mệnh của một dân tộc, sự thịnh suy của một quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào tài nguyên địa chính trị của quốc gia ấy, vào khả năng khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên này.

Tài nguyên địa chính trị của Việt Nam hiện nay

Tài nguyên địa chính trị của Việt Nam là một tổng thể hết sức đa dạng và phức tạp. Tổng thể ấy cấu thành từ rất nhiều yếu tố. Giá trị và ý nghĩa của từng yếu tố cũng không nhất thành bất biến. Chẳng hạn Việt Nam là một cửa ngõ của Lào và Campuchia ra biển, nhưng yếu tố này quan trọng đến đâu còn tùy theo Lào và Campuchia giàu mạnh đến đâu. Tài nguyên địa chính trị, do đó, không chỉ là địa thế như thuyết địa chính trị cổ điển vẫn hiểu, cũng không chỉ là cục diện như cách nghĩ của trường phái địa chính trị Kissinger, mà luôn là sự kết hợp của cái “thế” về địa lý tự nhiên và nhân văn, với một bối cảnh chính trị và kinh tế quốc tế nào đó. Chính cục diện chính trị-kinh tế xung quanh Việt Nam sẽ quyết định yếu tố nào là vượt trội, có tầm vóc chiến lược, trong các tài nguyên địa chính trị của Việt Nam.

Xét tham vọng và tầm với của các nước lớn hiện nay thì Việt Nam đang nằm trong bàn cờ chiến lược của bốn nước lớn là Trung Quốc, Mỹ, Nhật và Ấn Độ.

1

 


Trước kia, Việt Nam từng đóng vai trò như là cửa ngõ chính của Trung Quốc thông xuống phía Nam. Nhưng đối với Trung Quốc hiện nay, vai trò ấy của Việt Nam đã mờ nhạt dần. Chiến lược của Trung Quốc hiện nay nhằm mở hai đường thông xuống phương Nam. Trên biển, Trung Quốc đã chiếm quần đảo Hoàng Sa từ năm 1974 và tiếp tục chiếm một số bãi đá ở quần đảo Trường Sa từ năm 1988. Trên bộ, Trung Quốc kết thân với Myanmar để mượn đường thông ra Ấn Độ Dương. Trung Quốc đã xây dựng căn cứ quân sự ở Myanmar và dự định sẽ xây đường ống dẫn dầu từ cảng nước sâu Sittwe bên bờ vịnh Bengal của nước này lên Vân Nam, Trung Quốc. Với việc từng bước lấn chiếm biển Đông, Trung Quốc muốn tự mình sở hữu cái “then chốt” trên con đường biển nối nước họ với Ấn Độ Dương và Đông Nam Á. Vai trò cửa ngõ ra biển của Việt Nam đối với miền Tây Nam Trung Quốc cũng suy giảm sau khi Vân Nam đã mở đường ra Ấn Độ Dương qua ngả Myanmar, và Quảng Tây tăng cường phát triển các cảng biển của mình trên vịnh Bắc Bộ như Khâm Châu, Phòng Thành và giao thông với Vân Nam. Vai trò chiến lược của Việt Nam đối với Trung Quốc tiếp tục bị hạ thấp sau khi Trung Quốc thiết lập quan hệ “đối tác chiến lược” với Indonesia vào đầu năm nay. Indonesia là nước lớn nhất Đông Nam Á về dân số và diện tích nhưng chủ yếu là có vùng biển nối liền từ Ấn Độ Dương sang biển Đông. Như vậy, chỉ cần kiểm soát biển Đông, bắt tay với Myanmar và Indonesia, là Trung Quốc bảo đảm lưu thông tới Ấn Độ Dương, đồng thời có hai gọng kìm kẹp lấy Đông Nam Á.

Việc Trung Quốc tăng cường khống chế biển Đông và gây ảnh hưởng ở Đông Nam Á, trong bối cảnh Trung Quốc đang vươn lên thành cường quốc thế giới và lãnh đạo khu vực, đã khiến các nước lớn Mỹ, Nhật và Ấn Độ đổ dồn con mắt về biển Đông, Đông Nam Á, và tìm biện pháp đối phó. Là nước muốn đóng vai trò “lãnh đạo thế giới”, Mỹ đương nhiên coi sự trỗi dậy của Trung Quốc là một mối nguy ở tầm đại chiến lược. Hai nước Nhật và Ấn Độ không nuôi tham vọng toàn cầu nhưng muốn làm cường quốc châu Á, tất nhiên không muốn Trung Quốc nổi lên “lãnh đạo khu vực”. Nhật chọn liên minh chiến lược với Mỹ, đứng dưới sự “lãnh đạo thế giới” của Mỹ để chống lại sự “lãnh đạo khu vực” của Trung Quốc. Ấn Độ tìm một vị trí “tự do” hơn, nhưng chủ đạo cũng là liên minh chiến lược với Mỹ. Trên địa bàn châu Á, nổi lên tranh chấp quyền lãnh đạo khu vực giữa một bên là Trung Quốc và bên kia là trục Mỹ-Nhật-Ấn.

Trong bối cảnh đó, biển Đông và Đông Nam Á trở thành một địa bàn chiến lược trên bàn cờ quan hệ nước lớn. Biển Đông có tầm quan trọng đặc biệt sống còn đối với Nhật. 90% dầu lửa mà Nhật tiêu thụ và hầu hết hàng hóa giao dịch giữa Nhật với Trung Đông và châu Âu phải qua đây. Chỉ cần Trung Quốc “thực thi chủ quyền” của họ trên biển Đông, cổ họng Nhật coi như nằm trong bàn tay Trung Quốc. Đối với Trung Quốc, biển Đông cũng có tầm quan trọng sống còn. 80% dầu lửa nhập khẩu của Trung Quốc cũng như phần lớn hàng hóa thông thương giữa Trung Quốc với châu Âu và Trung Đông đi qua đây. Biển Đông tuy không sống còn đối với Mỹ nhưng có tầm quan trọng chiến lược. Nó án ngữ con đường ngắn nhất thông từ Thái Bình Dương sang Ấn Độ Dương, cũng là một “huyết mạch chủ” của kinh tế khu vực, của Trung Quốc, đối thủ chủ yếu của Mỹ, và Nhật, đồng minh chính của Mỹ, trong khu vực.

1

 


Là nước chiếm giữ phân nửa các đảo đã bị chiếm trên quần đảo Trường Sa, đồng thời đóng chốt trên một số bãi ngầm ngoài khơi thềm lục địa Nam bộ, lại có bờ biển chạy dọc theo hải trình quốc tế, Việt Nam là nước có lợi thế nhất về mặt địa lý trong việc khống chế biển Đông. Trong số các nước Đông Nam Á, Việt Nam là nước tiếp giáp nhiều nhất và chiến lược nhất với Trung Quốc, lại có lịch sử lâu dài nhất và kinh nghiệm dày dạn nhất trong đối xử với Trung Quốc. Do đó, các nước Mỹ, Nhật và Ấn Độ đều muốn Việt Nam đóng một vai trò tích cực và nếu cần, then chốt trong việc bảo đảm an ninh biển Đông cho họ và muốn Việt Nam đứng về phía họ trong trường hợp tranh chấp nước lớn trở nên gay gắt.

Như vậy, từ cuối thập niên 1990, đầu thập niên 2000, sự trỗi dậy của Trung Quốc đã làm tăng ý nghĩa chiến lược của biển Đông, Đông Nam Á và Việt Nam trên bàn cờ chiến lược quốc tế. Việt Nam trở nên có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng đối với Nhật. Với Mỹ, Việt Nam cũng từ một chương sử cũ trở thành một vị trí chiến lược. Hai nước này đều muốn Việt Nam trở thành đồng minh quan trọng của họ ở Đông Nam Á. Trong khi ấy thì tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc với Việt Nam trên biển Đông khiến Việt Nam không thể đóng vai trò đồng minh chiến lược của Trung Quốc trong khu vực. Ngược lại, Việt Nam là vật cản lớn nhất trên con đường nam tiến của Trung Quốc.

Chính sách nam tiến của Trung Quốc là một phần trong đại chiến lược “hòa bình trỗi dậy” của nước này. Con đường này được Trung Quốc chia làm ba giai đoạn:

- Giai đoạn đầu gọi là “ấp ủ”, hình thức là bảo vệ, tiêu chí là “chủ quyền lãnh thổ không thể bị chia cắt”;

- Giai đoạn giữa gọi là “tạo dựng”, hình thức là chủ động, tiêu chí là “thu hồi lại những vùng đất đã mất”;

- Giai đoạn cuối gọi là “kinh lược”, áp dụng các biện pháp nhằm làm cho cộng đồng quốc tế chấp nhận trật tự chính trị-kinh tế có lợi cho Trung Quốc, tiêu chí là “đạt đến cân bằng và ổn định chiến lược”.(*)

Trong đoản kỳ, nhìn nhận thực lực của mình còn hạn chế, Trung Quốc xác định vẫn ở giai đoạn 1. Về trung hạn, vào giai đoạn 2 của “hòa bình trỗi dậy”, Trung Quốc sẽ tìm cách “thu hồi chủ quyền” trên biển Đông và Đài Loan. Trong dài hạn, vào giai đoạn 3, Trung Quốc sẽ đảm lãnh vai trò cầm trịch trật tự ở khu vực và thế giới. Cùng lúc với Trung Quốc, các cường quốc khác cũng có đại chiến lược của mình, mà về cơ bản cũng có thể chia làm ba giai đoạn tương tự như của Trung Quốc. Tuy nhiên, do thực lực mạnh hơn nên Mỹ đã ở giai đoạn 3 và Nhật đã ở giai đoạn 2 trên con đường trỗi dậy riêng của họ. Mỹ cho việc họ chi phối trật tự thế giới, can thiệp vào các ổ bất ổn là trách nhiệm của họ. Nhật đang tiến tới mở rộng phạm vi hoạt động của lực lượng vũ trang, mở rộng khu vực lợi ích sống còn của họ. Trong khi đó thì Ấn Độ mới đang ở thời kỳ đầu của giai đoạn 1. Tất cả những điều này tạo ra tính phức tạp của một cuộc tranh đua quyền lực nước lớn nhiều giai đoạn cùng một lúc. Việt

1

 


Nam cần hết sức sáng suốt và quyết đoán để chèo lái thành công trong vùng nước xoáy này.

Tài nguyên địa chính trị của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa

Trong khi cục diện chính trị khu vực có xu hướng phân tán thì cục diện kinh tế lại có xu hướng hội tụ. Các thế lực kinh tế thị trường đang hoạt động rất mạnh tại các nước trong khu vực, tạo ra nhu cầu liên kết và giao thương to lớn giữa các nước, các địa phương. Trong bối cảnh ấy, lợi thế địa lý của Việt Nam do nằm kề “trục lộ xương sống” của kinh tế khu vực, đặc biệt khu vực miền Nam và miền Trung ở vị trí “bản lề” giữa biển và đất liền, ngay tâm hình học của miền Đông Nam châu Á, nếu được phát huy mạnh mẽ sẽ là nguồn tài nguyên vô giá giúp Việt Nam phồn thịnh. Việc phát huy tài nguyên địa chính trị của Việt Nam có thể diễn ra theo hai hướng: 1. làm “cửa ngõ” ra biển của nội địa châu Á; 2. làm “đầu cầu” trên đất liền của con đường giao thương - trên biển và trên không - qua biển Đông.

Từng phần lãnh thổ Việt Nam có thể đóng vai trò “cửa ngõ” của nội địa châu Á thông ra Thái Bình Dương. Miền Bắc làm cửa ngõ ra biển của miền Tây Nam Trung Quốc. Miền Trung làm cửa ngõ ra biển của Đông Bắc Thái Lan, Lào, có thể cả Myanmar. Miền Nam làm cửa ngõ ra biển của Campuchia. Tuy nhiên, “cửa ngõ” chỉ có thể sầm uất khi nội địa có sức sản xuất mạnh. Xét thực lực của các trung tâm sản xuất trong nội địa nói trên, vai trò “cửa ngõ” chưa phải là một “chìa khóa” cho sự đi lên của Việt Nam. Như vậy, chỉ còn cách là phải “kéo” được các luồng giao thương qua khu vực biển Đông vào Việt Nam.

Nhìn vào bản đồ, ta thấy Việt Nam có thể hướng tới vai trò “trạm trung chuyển” cho tuyến giao thông biển xuyên khu vực, và vai trò “trục bản lề” miền Đông Nam châu Á (tính cả Nam Trung Quốc, Đài Loan và Đông Ấn Độ). Tuy nhiên, có mấy khó khăn lớn. Một là, vai trò “trục bản lề” chỉ có thể phát huy sau khi Việt Nam đã làm tốt vai trò “cửa ngõ” và “trạm trung chuyển”. Hai là, trong khu vực đã có Hồng Kông và Singapore đóng vai trò trạm trung chuyển. Với điều kiện kỹ thuật và cao trình phát triển hiện nay, khu vực Đông Nam Á không cần có thêm một trung tâm nào nữa cỡ Hồng Kông và Singapore.

Để Việt Nam có thể bứt phá, trở thành một “đầu mối” của con đường giao thương qua biển Đông, chỉ còn cách là phải liên kết với các đầu mối khác trên con đường này, thông qua chiến lược “lan tỏa”, hình thành nên một đầu mối nữa trên lãnh thổ Việt Nam. Gần đây, Việt Nam đã có những bước đi ban đầu trong việc kết nối kinh tế với Nhật và Singapore. Đây là những bước đi hợp quy luật vì sự cần nhau giữa Việt Nam, Nhật và Singapore ở mức độ khá lý tưởng. Trong viễn tượng nối kết kinh tế giữa ba nước, Việt Nam cần trở thành hậu phương đất liền của Singapore - trung tâm tài chính, dịch vụ, môi giới, nghiên cứu của khu vực Đông Nam Á nhưng thiếu không gian và nhân lực. Mặt khác, Việt Nam phải thu hút tư bản, công nghệ và tri thức của Nhật để trở thành một tụ điểm kinh tế hàng đầu ở khu vực Đông Nam Á và trên con đường sang không gian châu Á-Ấn Độ Dương.

1

 


Trong quá trình phát triển, Việt Nam sẽ phải đối phó với sự chênh lệch tài nguyên địa chính trị giữa các vùng, miền ở trong nước, dẫn đến phát triển mất cân đối giữa các địa phương. Lợi thế của một địa phương không chỉ nhờ “địa lợi”, “nhân hòa” mà còn nhờ “thiên thời”. Lãnh thổ Việt Nam hiện nay đã từng là đầu mối của con đường giao thương qua biển Đông trong quá khứ. Nhưng vị trí của “đầu mối” ấy dịch chuyển dần theo đà tiến bộ của kỹ thuật giao thông, từ hai đầu mối ở miền Bắc (xứ Giao Chỉ cũ) và miền Nam (xứ Phù Nam cũ), hợp vào một đầu mối ở miền Trung (xứ Chămpa cũ), rồi chuyển vào miền Nam (vùng Đồng Nai-Bến Nghé). Giao Chỉ và Phù Nam thịnh vào nửa đầu thiên kỷ thứ nhất, Chămpa thịnh vào nửa đầu rồi tàn lụi vào nửa sau thiên kỷ thứ hai, cuối cùng nhường vai trò cho miền Đồng Nai-Bến Nghé, để rồi chính miền này cũng phải đấu tranh để khỏi bị bỏ qua, khi các con tàu đi biển không còn bị bắt buộc phải cập bến từng chặng ngắn nữa và khi miền Nam bán đảo Đông Dương chưa tự mình là một trung tâm sản xuất mạnh.

Ngày nay, miền Bắc nằm xa con đường hàng hải chính qua biển Đông, lại bị đảo Hải Nam chặn trước mặt, nên không thể trở thành vị trí của một “đầu mối” trên con đường biển ấy. Miền Trung tuy có bờ biển như “bao lơn” trên Thái Bình Dương, có nhiều vịnh nước sâu, kín gió, nhưng địa hình chia cắt, tính liên thông với các trung tâm sản xuất khác trong nội địa kém, nên khó phát huy được lợi thế. So với miền Đông Nam bộ, miền Trung có nhược điểm là không gian phát triển manh mún, phân tán, hậu phương thưa dân, sản xuất yếu, sức mua nhỏ. Bản thân miền Đông Nam bộ đã là đầu mối của một tiểu khu vực bao gồm cả miền Tây Nam bộ, miền Trung và Campuchia. Do đó, lợi thế của miền Trung (vị trí “bao lơn”, các vịnh nước sâu, kín gió) chỉ có thể được phát huy một cách hiệu quả nếu miền Trung hướng tới gắn mình vào luồng giao thương quốc tế, đầu tư nhắm vào xuất khẩu, không nhất thiết phục vụ thị trường nội địa.

Tài nguyên địa chính trị có ý nghĩa chiến lược hết sức quan trọng đối với vận mệnh của một đất nước. Sự thịnh suy của một quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào khả năng khai thác và tận dụng nguồn tài nguyên địa chính trị. Trong bối cảnh chính trị-kinh tế quốc tế hiện nay, một trật tự thế giới mới đang ló dạng, trong đó Việt Nam nằm ở một vị trí tương đối trung tâm của tranh chấp nước lớn và liên kết kinh tế của khu vực. Điều này đang đặt ra những thách thức to lớn, nhưng cũng đem lại những vận hội không nhỏ cho Việt Nam.


(*) Tôn Xa Phong, “Hòa bình trỗi dậy và chính sách Nam Hải của Trung Quốc”, tạp chí Học thuật Đại học Công nghiệp Quảng Đông, số tháng 3 năm 2005.

1

 


Nguồn:  Thời báo Kinh tế Sài Gòn

 

1

 

nguon VI OLET