I. Một số vấn đề chung về dạy học nhằm hình thành năng lực

1. Bối cảnh của giáo dục thế giới và Việt Nam:

Đầu thế kỉ XXI nhiều nước có nền giáo dục phát triển đã chuyển hướng từ CT coi trọng nội dung giáo dục sang CT coi trọng phát triển năng lực người học.

Thành tựu về KH công nghệ hiện nay giúp cho con người cùng một lúc có thể tiếp nhận một nguồn thông tin khổng lồ của toàn nhân loại. Điều này đặt ra thách thức không nhỏ cho cả hệ thống GD thế giới. Dù muốn hay không, thực tiễn toàn cầu hóa cũng đang đặt các loại hình đào tạo, trong đó có nhà trường trước những thử thách về việc đào tạo nguồn nhân lực lao động cạnh tranh – có khả năng thích ứng với nhu cầu sống và làm việc trong một thế giới luôn luôn thay đổi. Albert Einstenin đúc kết: ”Giá trị của một nền GD (....) không phải là dạy và học được nhiều sự kiện mà là đào luyện cho tinh thần biết tư duy” là một xu hướng tất yếu trong thời đại ngày nay. Việt Nam tất yếu cũng nằm trong xu thế đó.

NQ 29- NQ /TW về Đổi mới căn bản toàn diện GD-ĐT, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, sau khi chỉ ra những yếu kém của hệ thống GD đã khẳng định quan điểm chỉ đạo: ”Chuyển mạnh quá trình GD từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất của người học”. NQ cũng chỉ ra những nhiệm vụ và giải pháp cụ thể đối với ngành GD: ”Đổi mới nội dung theo hướng tính giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành nghề; tăng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn.... Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ PPDH theo hướng hiện đại, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học; KHắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng và phát triển năng lực.

Lần ngược lại về trước, sinh thời, Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nói: ”Cái quan trọng nhất trong giảng dạy nói chung, trong giảng dạy văn nói riêng là rèn luyện bộ óc, rèn luyện PP suy nghĩ, PP nghiên cứu, PP tìm tòi, PP vận dụng kiến thức của mình... Vì vậy dứt khoát chúng ta phải có cách dạy khác, phải dạy cho HS biết suy nghĩ, suy nghĩ bằng trí óc của mình và diễn tả sự suy nghĩ đó theo cách của mình thế nào cho tốt nhất. Ngày nay, sự hiểu biết của con người luôn luôn đổi mới, cho nên dù học được ở nhà trường bao nhiêu chăng nữa cũng chỉ là rất có hạn. Thế thì cái gì là quan trọng? Cái quan trọng là rèn luyện bộ óc, rèn luyện PP suy nghĩ, PP học tập, PP tìm tòi, PP vận dụng kiến thức, PP vận dụng tốt nhất bộ óc của mình. Bởi vì bộ óc của con người có thể phát huy được tất cả cái hay, cái mới và phát huy mãi mãi. Chúng ta phải làm thế nào, bằng GD phổ thông mà rèn luyện cho HS có bộ óc để suy nghĩ, để tiếp thụ cái gì có giá trị, sau đó tự học và vận dụng sáng tạo” (Phạm Văn Đng. Tuyển tập văn học. NXB Văn học 1996).

Kết quả: Chương trình GDPT tổng thể đã xây dựng theo định hướng phát triển năng lực người học. Việc chuyển quá trình giáo dục từ định hướng nội dung sang định hướng phát triển năng lực là sự thay đổi hệ hình trong tư duy, trong lí luận dạy học.

 2. CTGDPT tổng thể

  Từ trước đến nay, kể cả CT hiện hành, về cơ bản vẫn là CT tiếp cận nội dung. Theo cách tiếp cận nội dung, CT thường chỉ nêu ra một danh mục đề tài, chủ đề của một lĩnh vực/môn học nào đó cần dạy và học. Tức là tập trung xác định và trả lời câu hỏi: Chúng ta muốn học sinh biết cái gì? Nên chạy theo khối lượng kiến thức, ít chú ý dạy cách học, nhu cầu, hứng thú của người học…

 CT mới chuyển sang cách tiếp cận năng lực, nhằm phát triển phẩm chất và năng lực người học. Đó là là cách tiếp cận nêu rõ học sinh sẽ làm được gì và làm như thế nào vào cuối mỗi giai đoạn học tập trong nhà trường. Cách tiếp cận này cũng đòi hỏi HS nắm vững những kiến thức, kĩ năng cơ bản nhưng còn chú trọng yêu cầu vận dụng kiến thức, kĩ năng vào thực hành, giải quyết các tình huống trong học tập và cuộc sống; tính chất và kết quả hoạt động cũng phụ thuộc rất nhiều vào hứng thú, niềm tin, đạo đức… của người học nên CT cũng rất chú trọng đến mục tiêu phát triển các phẩm chất của học sinh; phát triển các phẩm chất chủ yếu và các năng lực chung mà mọi học sinh đều cần có, đồng thời phát triển các phẩm chất và năng lực riêng của từng em; tập trung vào việc dạy và học như thế nào?

 Sự thay đổi căn bản trong cách tiếp cận này sẽ chi phối và bắt buộc tất cả các khâu của quá trình dạy học thay đổi: nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức, cách kiểm tra, đánh giá, thi cử; cách thức quản lý và thực hiện… nhằm tạo ra sự thay đổi căn bản về chất lượng giáo dục.

 Những thuật ngữ liên quan tới Chương trình

Trong CT sẽ xuất hiện những thuật ngữ khoa học mới:

CT tổng thể là phương hướng và kế hoạch khái quát của toàn bộ CT GDPT, trong đó quy định những vấn đề chung của GDPT, bao gồm: Quan điểm xây dựng CT, mục tiêu CT GDPT và mục tiêu CTGD của từng cấp học, yêu cầu cần đạt về phẩm chất chủ yếu và năng lực chung của học sinh cuối mỗi cấp học, các lĩnh vực giáo dục và hệ thống các môn học, thời lượng của từng môn học, định hướng nội dung giáo dục bắt buộc ở từng lĩnh vực giáo dụcphân chia vào các môn học ở từng cấp học đối với tất cả học sinh trên phạm vi toàn quốc, định hướng về phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục và cách thức đánh giá chất lượng giáo dục của từng môn học, điều kiện tối thiểu của nhà trường để thực hiện được CT.

 CT môn học là phương hướng và kế hoạch cụ thể của một môn học, trong đó xác định vị trí, vai trò môn học trong thực hiện mục tiêu CT GDPT; mục tiêu và yêu cầu cần đạt của môn học về kiến thức, kỹ năng, thái độ và định hướng phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh ở mỗi lớp hoặc cấp học; nội dung giáo dục cốt lõi (bắt buộc) ở từng cấp học đối với tất cả học sinh trên phạm vi toàn quốc; kế hoạch dạy học môn học ở mỗi lớp và mỗi cấp học; định hướng phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, cách thức đánh giá kết quả học tập của học sinh trong môn học.

Năng lực là khả năng thực hiện thành công hoạt động trong một bối cảnh nhất định nhờ sự huy động tổng hợp các kiến thức, kỹ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,... Năng lực của cá nhân được đánh giá qua phương thức và kết quả hoạt động của cá nhân đó khi giải quyết các vấn đề của cuộc sống.

 Năng lực chung là năng lực cơ bản, thiết yếu mà bất kỳ một người nào cũng cần có để sống, học tập và làm việc. Các hoạt động giáo dục (bao gồm các môn học và hoạt động trải nghiệm sáng tạo), với khả năng khác nhau, nhưng đều hướng tới mục tiêu hình thành và phát triển các năng lực chung của học sinh.

Năng lực đặc thù môn học (trong CTGD của một số nước gọi là năng lực cốt lõi hay năng lực xuyên CT):  Là năng lực mà 1 môn học cụ thể nào đó có ưu thế hình thành và phát triển. Một năng lực có thể là năng lực đặc thù của nhiều môn học khác nhau.

Phẩm chất là những tính tốt thể hiện ở thái độ, hành vi ứng xử trong đạo đức, lối sống, ý thức pháp luật, niềm tin, tình cảm,... của con người. Phẩm chất cùng với năng lực tạo nên nhân cách con người.

Yêu cầu cần đạt là kết quả mà học sinh cần đạt được về phẩm chất và năng lực, kiến thức, kỹ năng, thái độ,...sau mỗi cấp học, lớp học ở từng môn học; ở mỗi cấp học, lớp học sau đều có những yêu cầu riêng và bao gồm cả những yêu cầu đối với các cấp học, lớp học trước đó. Trong chương trình tổng thể yêu cầu cần đạt được diễn đạt kèm theo các biểu hiện cụ thể về phẩm chất chủ yếu và năng lực chung của học sinh.

Dạy học phân hoá là định hướng dạy học phù hợp các đối tượng học sinh khác nhau, nhằm phát triển tối đa tiềm năng vốn có của mỗi học sinh dựa vào đặc điểm tâm - sinh lý, khả năng, nhu cầu và hứng thú khác nhau của học sinh.

(Tính phân hoá thể hiện ở sự phân biệt dựa theo các đối tượng khác nhau, áp dụng cách thức tổ chức, vận dụng nội dung, phương pháp và hình thức,... hoạt động khác nhau, sao cho phù hợp nhất với từng đối tượng, nhằm đạt hiệu quả cao).

Dạy học tích hợp là định hướng dạy học giúp học sinh phát triển khả năng huy động tổng hợp kiến thức, kỹ năng,... thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau để giải quyết có hiệu quả các vấn đề trong học tập và trong cuộc sống, được thực hiện ngay trong quá trình lĩnh hội tri thức và rèn luyện kỹ năng; phát triển được những năng lực cần thiết, nhất là năng lực giải quyết vấn đề.

(Tính tích hợp thể hiện qua sự huy động, kết hợp, liên hệ các yếu tố có liên quan với nhau của nhiều lĩnh vực để giải quyết có hiệu quả một vấn đề và thường đạt được nhiều mục tiêu khác nhau).

Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo dục trong đó từng học sinh được trực tiếp hoạt động thực tiễn trong nhà trường hoặc trong xã hội dưới sự hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục, qua đó phát triển tình cảm, đạo đức, các kỹ năng và tích luỹ kinh nghiệm riêng của cá nhân. Trải nghiệm sáng tạo là hoạt động được coi trọng trong từng môn học; đồng thời trong kế hoạch giáo dục cũng bố trí các hoạt động trải nghiệm sáng tạo riêng, mỗi hoạt động này mang tính tổng hợp của nhiều lĩnh vực giáo dục, kiến thức, kỹ năng khác nhau.

Hoạt động trải nghiệm sáng tạo dành cho tất cả học sinh từ lớp 1 đến lớp 12 giúp học sinh vận dụng những tri thức, kiến thức, kỹ năng, thái độ đã học từ nhà trường và những kinh nghiệm của bản thân vào thực tiễn cuộc sống một cách sáng tạo.

Bên cạnh việc hình thành và phát triển các phẩm chất và năng lực chung của chương trình giáo dục, hoạt động trải nghiệm sáng tạo còn tập trung hình thành, phát triển các năng lực đặc thù cho học sinh: Năng lực tổ chức hoạt động, năng lực tổ chức và quản lý cuộc sống, năng lực tự nhận thức và tích cực hoá bản thân, năng lực định hướng và lựa chọn nghề nghiệp.

Ở giai đoạn giáo dục cơ bản, chương trình hoạt động trải nghiệm sáng tạo tập trung vào việc hình thành các phẩm chất nhân cách, những thói quen, kỹ năng sống,... Thông qua hoạt động trải nghiệm học sinh được bước vào cuộc sống xã hội, được tham gia các dự án học tập, các hoạt động từ thiện, tình nguyện, hoạt động lao động, các loại hình câu lạc bộ khác nhau,... Bằng hoạt động trải nghiệm của bản thân, mỗi học sinh vừa là người tham gia, vừa là người kiến thiết và tổ chức các hoạt động cho chính mình nên học sinh không những biết cách tích cực hoá bản thân, khám phá bản thân, điều chỉnh bản thân mà còn biết cách tổ chức hoạt động, tổ chức cuộc sống và biết làm việc có kế hoạch, có trách nhiệm. Đặc biệt, ở giai đoạn này, mỗi học sinh cũng bắt đầu xác định được năng lực, sở trường, và chuẩn bị một số năng lực cơ bản cho người lao động tương lai và người công dân có trách nhiệm.

Hoạt động trải nghiệm sáng tạo sử dụng các hình thức và phương pháp chủ yếu sau: thực địa, tham quan, câu lạc bộ, hoạt động xã hội/tình nguyện, diễn đàn, giao lưu, hội thảo, trò chơi, cắm trại, thực hành lao động,...

Ngoài hoạt động trải nghiệm sáng tạo được nêu trên, trong từng môn học cũng coi trọng việc tổ chức, hướng dẫn các hoạt động trải nghiệm sáng tạo phù hợp với đặc trưng nội dung môn học và điều kiện dạy học.

Tự học có hướng dẫn

Đối với các trường tiểu học thực hiện dạy học hai buổi/ngày, ngoài các môn học, hoạt động trải nghiệm sáng tạo, ở tất cả các lớp đều có hoạt động tự học có hướng dẫn. Giáo viên giúp đỡ, hướng dẫn học sinh tự học ở trường, giảm tối đa việc học ở nhà; góp phần hình thành và phát triển năng lực tự học cho học sinh. Đối với các trường tiểu học chỉ dạy học một buổi/ngày thì không có điều kiện thiết kế hoạt động này trong chương trình giáo dục. Các trường căn cứ điều kiện cụ thể để linh hoạt thực hiện.

3. Quan điểm xây dựng Chương trình GDPT nói chung và Giáo dục Tiểu học nói riêng([1])

Khi xây dựng CT GDPT theo định hướng phát triển năng lực, mục tiêu giáo dục cần được cụ thể hoá thành phẩm chất và năng lực cần hình thành cho học sinh, được thể hiện dưới dạng yêu cầu cần đạt cụ thể cho từng cấp học. Năng lực bao gồm năng lực chung và năng lực đặc thù môn học. Trong đó, năng lực chung được hình thành và phát triển thông qua tất cả các lĩnh vực học tập, hoạt động giáo dục; năng lực đặc thù môn học được hình thành và phát triển thông qua lĩnh vực học tập, môn học tương ứng.

(1). Trên cơ sở giáo dục toàn diện và hài hoà đức, trí, thể, mỹ, mục tiêu chương trình giáo dục phổ thông xác định những yêu cầu cần đạt về phẩm chất, năng lực của học sinh ở từng cấp học; mục tiêu chương trình môn học xác định những yêu cầu về kiến thức, kỹ năng, thái độ, hướng đến hình thành những phẩm chất, năng lực đặc thù môn học và các phẩm chất, năng lực khác ở từng lớp, từng cấp học, coi đó là cam kết bảo đảm chất lượng của cả hệ thống và từng cơ sở giáo dục, là căn cứ để chỉ đạo, giám sátđánh giá chất lượng giáo dục phổ thông.

(2). Giáo dục phổ thông 12 năm, gồm hai giai đoạn: Giai đoạn giáo dục cơ bản (gồm cấp tiểu học 5 năm và cấp trung học cơ sở 4 năm) và giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp (cấp trung học phổ thông 3 năm).

Nội dung giáo dục phổ thông bảo đảm tinh giản, hiện đại, thiết thực, thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, phù hợp với đặc điểm tâm - sinh lý lứa tuổi học sinh; giáo dục nhân cách, đạo đức, văn hoá pháp luật và ý thức công dân; tập trung vào những giá trị cơ bản của văn hoá, truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hoá nhân loại, giá trị cốt lõi và nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; dạy ngoại ngữ và tin học theo hướng chuẩn hoá, thiết thực, bảo đảm năng lực sử dụng của học sinh; giáo dục nghệ thuật và giáo dục thể chất coi trọng việc định hướng thẩm mỹ và bồi dưỡng hứng thú rèn luyện sức khoẻ, hoạt động nghệ thuật.

(3). Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo định hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; tập trung dạy cách học và rèn luyện năng lực tự học, tạo cơ sở để học tập suốt đời, tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc; vận dụng các phương pháp, kỹ thuật dạy học một cách linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với mục tiêu, nội dung giáo dục, đối tượng học sinh và điều kiện cụ thể của mỗi cơ sở giáo dục phổ thông.

Đa dạng hoá hình thức tổ chức học tập, coi trọng cả dạy học trên lớp và các hoạt động xã hội, trải nghiệm sáng tạo, tập dượt nghiên cứu khoa học. Phối hợp chặt chẽ giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong các hoạt động giáo dục.

(4). Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá chất lượng giáo dục, bảo đảm trung thực, khách quan, góp phần hướng dẫn, điều chỉnh cách học và cách dạy. Phối hợp sử dụng kết quả đánh giá trong quá trình học với đánh giá cuối kỳ, cuối năm học; đánh giá của người dạy với tự đánh giá của người học; đánh giá của nhà trường với đánh giá của gia đình và của xã hội; thực hiện đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông ở cấp độ quốc gia, địa phương và tham gia các kỳ đánh giá quốc tế để làm căn cứ đề xuất chính sách, giải pháp cải thiện chất lượng giáo dục phổ thông.

4. Mục tiêu Chương trình giáo dục cấp Tiểu họcmới

Chương trình giáo dục cấp tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự hình thành và phát triển hài hoà về thể chất và tinh thần, phẩm chất và năng lực được nêu trong mục tiêu chương trình giáo dục phổ thông; định hướng chính vào giá trị gia đình, dòng tộc, quê hương, những thói quen cần thiết trong học tập và sinh hoạt; có được những kiến thức và kỹ năng cơ bản nhất để tiếp tục học trung học cơ sở.

 Mục tiêu của CT GDPT hiện hành chưa chú trọng yêu cầu phát triển năng lực và phát triển tiềm năng riêng của mỗi học sinh. Mục tiêu của CT GDPT mới nhấn mạnh yêu cầu phát triển năng lực, chú ý phát huy tiềm năng vốn có của mỗi HS, chú ý phát triển cả con người xã hội và con người cá nhân. Đó chính là đổi mới căn bản trong CT GDPT.

Ngoài ra CT mới còn cụ thể hóa mục tiêu giáo dục thành hệ thống phẩm chất và năng lực cần đạt với những biểu hiện cụ thể theo từng cấp học. Đây là điểm mới mà các CTGD lần trước chưa có.

Trong CT GDPT mới, mục tiêu giáo dục tiểu học không chỉ chú ý “chuẩn bị cho học sinh những cơ sở ban đầu của việc hình thành và phát triển hài hoà về thể chất và tinh thần, có được những kiến thức và kỹ năng cơ bản nhất để tiếp tục học THCS như CT hiện hành mà còn chú ý yêu cầu phát triển phẩm chất, năng lực và nhấn mạnh “định hướng chính vào giá trị gia đình, dòng tộc, quê hương, những thói quen cần thiết trong học tập và sinh hoạt.

 

5. Yêu cầu cần đạt về phẩm chất chủ yếu, năng lực chung của học sinh Tiểu học

1. Chương trình giáo dục phổ thông nhằm hình thành và phát triển cho học sinh những phẩm chất chủ yếu sau:

- Sống yêu thương; - Sống tự chủ; - Sống trách nhiệm.

2. Chương trình giáo dục phổ thông nhằm hình thành và phát triển cho học sinh những năng lực chung chủ yếu sau:

- Năng lực tự học; - Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; - Năng lực thẩm mỹ; - Năng lực thể chất; - Năng lực giao tiếp; - Năng lực hợp tác; - Năng lực tính toán; - Năng lực công nghệ thông tin và truyền thông (ICT).

Các phẩm chất chủ yếu và các năng lực chung được thể hiện tường minh dưới dạng các biểu hiện, hành vi có thể quan sát và đánh giá được với các cấp độ từ thấp đến cao.

Các thành tố và các hành vi của các phẩm chất và năng lực với HS tiểu học:

(1) Sống yêu thương

 

  1. Yêu Tổ quốc

Yêu quý, không xâm hại các cảnh, vật, công trình của quê hương, đất nước; quan tâm đến những sự kiện thời sự nổi bật ở địa phương.

b) Giữ gìn, phát huy truyền thống gia đình Việt Nam

Yêu mến và sẵn sàng cùng người thân làm một số việc đơn giản; kính trọng người trên trong gia đình.

c) Giữ gìn, phát huy giá trị các di sản văn hoá của quê hương, đất nước. Yêu quý các thuần phong mỹ tục của địa phương.

d) Tôn trọng các nền văn hoá trên thế giới. Yêu thích các sản phẩm, hoạt động văn hoá khác nhau trên thế giới

đ) Nhân ái, khoan dung: Yêu thương, tôn trọng bạn bè, thầy cô và những người xung quanh; sẵn sàng giúp đỡ mọi người, tha thứ cho người mắc lỗi với mình; không đồng tình với các hành vi sai trái.

g) Yêu thiên nhiên: Có ý thức chăm sóc, bảo vệ cây xanh và các con vật có ích; không đồng tình với những hành vi phá hoại thiên nhiên.

(2) Sống tự chủ

a) Trung thực: Không gian dối, không đồng tình với các hành vi gian dối trong học tập và trong cuộc sống.

b) Tự trọng: Biết giữ lời hứa, không đồng tình với người không giữ lời hứa.

c) Tự lực: Có thói quen tự làm và làm được những việc của mình ở trường, ở nhà theo sự phân công, hướng dẫn.

d) Chăm chỉ, vượt khó: Học tập, lao động, giải trí đều đặn, đúng giờ; tìm cách vượt qua những khó khăn thường gặp trong học tập và sinh hoạt.

đ) Tự hoàn thiện: Yêu mến và làm theo những tấm gương đạo đức.

(3) Sống trách nhiệm

a)     Tự nguyện: Làm tròn bổn phận với người thân, gia đình, bạn bè, thầy cô giáo.

b)    Chấp hành kỷ luật: Chấp hành nội quy nhà trường và những quy định chung của cộng đồng nơi ở.

c)     Tuân thủ pháp luật: Sẵn sàng thực hiện các quy định của pháp luật khi đã được hướng dẫn.

d)    Bảo vệ nội quy, pháp luật: Không đồng tình với những hành vi trái quy định của nội quy, pháp luật.

 

Các năng lực chung

(1) Năng lực tự học

 là năng lực biểu hiện thông qua việc xác định đúng đắn mục tiêu học tập; lập kế hoạch và thực hiện cách học; và đánh giá, điều chỉnh cách học nhằm tự học và tự nghiên cứu một cách hiệu quả và có chất lượng.

Các biểu hiện, hành vi:

a) Xác định mục tiêu học tập: Ghi nhớ nhiệm vụ và kết quả cần đạt được trong học tập do giáo viên yêu cầu để thực hiện.

b) Lập kế hoạch và thực hiện cách học: Biết lập và làm theo thời gian biểu học tập hàng ngày; vận dụng các cách học: Ghi nhớ bằng học thuộc, đánh dấu những ý, đoạn cần thiết,...; thu thập và trình bày được thông tin từ sách giáo khoa, giờ giảng của giáo viên bằng các hình thức như: bản ghi tóm tắt, lập bản tổng kết,...

c) Đánh giá và điều chỉnh việc học: Nhận ra và sửa chữa sai sót trong bài kiểm tra qua lời nhận xét của giáo viên; biết hỏi giáo viên và người khác khi chưa hiểu bài.

(2) Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo

Là năng lực biểu hiện thông qua việc phát hiện và làm rõ được vấn đề; đề xuất, lựa chọn, thực hiện và đánh giá được các giải pháp giải quyết vấn đề; nhận ra, hình thành và triển khai được các ý tưởng mới; và có tư duy độc lập.

Các biểu hiện, hành vi:

a)     Phát hiện và làm rõ vấn đề: Thu nhận thông tin từ tình huống, nhận ra những vấn đề đơn giản và đặt được câu hỏi.

b) Đề xuất, lựa chọn giải pháp: Nêu được cách thức giải quyết vấn đề đơn giản theo hướng dẫn.

c) Thực hiện và đánh giá giải pháp giải quyết vấn đề: Tiến hành giải quyết vấn đề theo hướng dẫn.

d) Nhận ra ý tưởng mới: Xác định và làm rõ thông tin, ý tưởng mới với bản thân từ các nguồn tài liệu cho sẵn theo hướng dẫn

đ) Hình thành và triển khai ý tưởng mới: Dựa trên hiểu biết đã có, hình thành ý tưởng mới đối với bản thân và dự đoán được kết quả khi thực hiện.

e)Tư duy độc lập: Nêu được thắc mắc về sự vật, hiện tượng; không e ngại nêu ý kiến cá nhân trước các thông tin khác nhau về sự vật, hiện tượng; sẵn sàng thay đổi khi nhận ra sai sót.

(3) Năng lực thẩm mỹ

 Là năng lực biểu hiện thông qua các hành vi nhận ra cái đẹp; diễn tả, giao lưu thẩm mỹ; và tạo ra cái đẹp.

 Biểu hiện:

a) Nhận ra cái đẹp: Có cảm xúc và bày tỏ cảm xúc trước cái đẹp trong cuộc sống.

b) Diễn tả, giao lưu thẩm mỹ: Mô tả được cái đẹp, tiếp nhận được thông tin trao đổi về biểu hiện ở bên ngoài của các sự vật, hiện tượng thế giới xung quanh ở mức độ đơn giản.

c) Tạo ra cái đẹp: Tái hiện được trong sáng tác của mình những cái đẹp trong tự nhiên, trong đời sống xã hội bằng phương tiện phù hợp.

(4) Năng lực thể chất

 Là năng lực biểu hiện thông qua cuộc sống thích ứng và hài hòa với môi trường; rèn luyện sức khỏe thể lực; và nâng cao sức khỏe tinh thần.

Các biểu hiện, hành vi:

 a) Sống thích ứng và hài hòa với môi trường: Nhận ra một số yếu tố chủ yếu (của môi trường sống, thời tiết, thức ăn) có lợi, có hại cho sức khoẻ. Tuân thủ những chỉ dẫn của người lớn về vệ sinh cá nhân, ăn, mặc, sinh hoạt, học tập có lợi cho sức khoẻ.

b) Rèn luyện sức khoẻ thể lực: Kể tên và nêu được chức năng của một số bộ phận chính của cơ thể người; diễn tả được một số biểu hiện bất thường của cơ thể; nêu và mô tả được các hoạt động vận động trong thể dục, thể thao thường ngày; thực hiện được các loại hình vận động

c) Nâng cao sức khoẻ tinh thần: Thực hành các hành vi ứng xử vui tươi, thân thiện; xử lý các tình huống đơn giản, cụ thể trong cuộc sống với thái độ tự trọng, tự tin, có trách nhiệm và hoà đồng với mọi người.

(5) Năng lực giao tiếp

 Là năng lực biểu hiện thông qua việc xác định mục đích giao tiếp; kỹ năng thể hiện thái độ giao tiếp; lựa chọn và sử dụng phương thức giao tiếp dựa trên nền tảng kỹ năng sử dụng tiếng Việt và ngoại ngữ.

Các biểu hiện, hành vi:

 Sử dụng tiếng Việt:

- Đọc trôi chảy và đúng ngữ điệu; đọc hiểu bài đọc ngắn về các chủ đề quen thuộc, phù hợp với tâm lí lứa tuổi; bước đầu biết phản hồi các văn bản đã học…

 - Viết đúng chính tả và ngữ pháp; viết được bài văn ngắnvề các chủ đề quen thuộchoặc cá nhân ưa thích (bằng chữ viết tay và đánh máy, bước đầu biết kết hợpngôn ngữ với hình ảnh minh họa); trình bày được ý kiến của cá nhân; điền được thông tin vào các mẫu văn bản đơn giản

- Phát âm đúng; vốn từ vựng cần thiết cho học tập và giao tiếp hàng ngày; bước đầu biết cách sử dụng các kiểu câu thông dụng; nói rõ ràng, mạch lạc và đúng ngữ điệu; kể được các câu chuyện ngắn, đơn giản về các chủ đề quen thuộc, phù hợp với tâm lí lứa tuổi; trình bày được nội dung chủ đề đơn giản, thuộc chương trình học tập;trình bày được những ý kiến, suy nghĩ của mình; bước đầu biết kết hợp lời nói với động tác cơ thể và các phương tiện hỗ trợ khác …

- Nghe hiểu trong giao tiếp thông thường và các chủ đề học tập phù hợp với tâm lí lứa tuổi; có thái độ tích cực trong khi nghe; bước đầu có phản hồi phù hợp…

 Sử dụng ngoại ngữ

Đạt năng lực bậc 1 về một ngoại ngữ.

a) Xác định mục đích giao tiếp: Nhận ra ý nghĩa của giao tiếp trong việc đáp ứng các nhu cầu của bản thân.

b) Thể hiện thái độ giao tiếp: Tập trung chú ý khi giao tiếp; nhận ra được thái độ của đối tượng giao tiếp.

c) Lựa chọn nội dung và phương thức giao tiếp: Diễn đạt một cách rõ ràng, đủ ý.

(6) Năng lực hợp tác

Là năng lực biểu hiện thông qua việc xác định mục đích và phương thức hợp tác, trách nhiệm và hoạt động của bản thân trong quá trình hợp tác, nhu cầu và khả năng của người hợp tác; tổ chức và thuyết phục người khác; đánh giá hoạt động hợp tác.

Các biểu hiện, hành vi:

a) Xác định mục đích và phương thức hợp tác: Thích sự trao đổi, giúp đỡ nhau trong học tập; thực hiện sự hợp tác trong nhóm nhỏ ứng với nhiệm vụ học tập được giao theo sự hướng dẫn của giáo viên.

b) Xác định trách nhiệm và hoạt động của bản thân: Biết được trách nhiệm của mình trong công việc của cả nhóm theo hướng dẫn.

c) Xác định nhu cầu và khả năng của người hợp tác: Góp ý phân công công việc cho từng thành viên và tranh thủ sự hỗ trợ của các thành viên; đề xuất phân công công việc cho từng thành viên trong nhóm.

d) Tổ chức và thuyết phục người khác: Cố gắng hoàn thành phần việc mình được phân công và chia sẻ giúp đỡ thành viên khác cùng hoàn thành việc được phân công; vui mừng trước kết quả chung.

đ) Đánh giá hoạt động hợp tác: Cùng các thành viên báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ của cả nhóm; tham gia đánh giá kết quả đạt được của cả nhóm và của bản thân, rút kinh nghiệm trên cơ sở nhận xét của giáo viên.

(7) Năng lựctính toán

 Là năng lực biểu hiện thông qua khả năng sử dụng các phép tính và đo lường cơ bản; sử dụng ngôn ngữ toán; và sử dụng các công cụ tính toán.

Các biểu hiện, hành vi:

 a) Sử dụng các phép tính và đo lường cơ bản: Sử dụng được các phép tính số học (cộng, trừ, nhân, chia) trong học tập; đo lường được kích thước, khối lượng, thời gian trong các trường hợp đơn giản và bước đầu biết ước lượng.

 b) Sử dụng ngôn ngữ toán: Nhận ra và có thể sử dụng được các thuật ngữ, ký hiệu toán học, tính chất đơn giản của số tự nhiên và một số hình đơn giản; bước đầu biết sử dụng thống kê trong học tập; hình dung và có thể vẽ phác hình dạng của các hình hình học cơ bản; nhận ra và biểu diễn được mối liên hệ toán học giữa các yếu tố trong các tình huống đơn giản hay bài toán có lời văn.

 c) Sử dụng công cụ tính toán: Sử dụng được các dụng cụ đo, vẽ, tính trong học tập; sử dụng được máy tính cầm tay với những chức năng tính toán đơn giản trong học tập và trong cuộc sống.

(8) Năng lực công nghệ thông tin và truyền thông (ICT)

 Là năng lực biểu hiện thông qua khả năng sử dụng và quản lí các phương tiện, công cụ của công nghệ kĩ thuật số; nhận biết, ứng xử phù hợp chuẩn mực đạo đức trong xã hội số hóa; phát hiện và giải quyết vấn đề trong môi trường công nghệ tri thức; học tập, tự học với sự hỗ trợ của ICT; và giao tiếp, hòa nhập và hợp tác trong môi trường ICT.

Các biểu hiện, hành vi:

a) Sử dụng và quản lý các phương tiện, công cụ của công nghệ kỹ thuật số: Thực hiện được một số thao tác cơ bản trên một số thiết bị ICT thông dụng để sử dụng được ứng dụng hỗ trợ học tập, vui chơi, giải trí.

b) Nhận biết, ứng xử phù hợp chuẩn mực đạo đức và pháp luật trong xã hội số hóa: Biết rằng thông tin mà mỗi người tạo ra hay cung cấp có thể được sử dụng hoặc bị lạm dụng bởi người khác; biết bảo vệ thông tin cá nhân, biết về quyền sở hữu trí tuệ, biết bảo vệ sức khoẻ bản thân khi sử dụng thiết bị ICT.

c) Phát hiện và giải quyết vấn đề trong môi trường công nghệ tri thức: Nêu được nhu cầu thu thập thông tin cần thiết cho một số vấn đề đơn giản. Tìm được thông tin từ nguồn dữ liệu số đã cho theo hướng dẫn.

d) Học tập, tự học với sự hỗ trợ của ICT: Sử dụng được một số phần mềm trò chơi hỗ trợ học tập, phần mềm học tập.

đ) Giao tiếp, hòa nhập, hợp tác qua môi  trường ICT: Sử dụng được các công cụ ICT thông dụng theo hướng dẫn để chia sẻ và trao đổi thông tin với đối tượng phù hợp.

 

6. Các môn học/hoạt động giáo dục được phân bổ ở cấp Tiểu học:

Các môn bắt buộc gồm: Tiếng Việt, Toán, Ngoại ngữ 1, Thể dục, Giáo dục lối sống, Cuộc sống quanh ta (lớp1,2,3), Tìm hiểu tự nhiên (lớp 4,5), Tìm hiểu xã hội
(lớp 4,5).

Ngoài các môn học bắt buộc, học sinh được tự chọn:

+ Tự chọn tuỳ ý (TC1) gồm: Ngoại ngữ 2, Tiếng dân tộc.

+ Tự chọn trong môn học (TC3) gồm: Kỹ thuật - Tin học, Thể thao, Âm nhạc, Mỹ thuật, Hoạt động trải nghiệm sáng tạo.

 

II. Dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học theo định hướng hình thành và phát triển năng lực người học

1. Một số vấn đề chung:

1.1. Vai trò của môn Tiếng Việt với việc phát triển các năng lực chung của học sinh tiểu học

Tiếng Việt là môn học bắt buộc từ lớp 1 đến lớp 5. Nội dung cốt lõi bao gồm các mạch kiến thức và kỹ năng cơ bản, thiết yếu về tiếng Việt phù hợp với lứa tuổi và các yêu cầu cần đạt về phẩm chất và năng lực của học sinh ở cấp học.

Môn Tiếng Việt có thể chia thành các phân môn (như CT hiện tại), hoặc theo các kĩ năng: Nghe – nói – đọc – viết.

Môn Tiếng Việt có vai trò quan trọng trong phát triển các NL chung cho HS tiểu học:

+ Tự học: A; GQVĐ và sáng tạo: A; Giao tiếp: A; Thẩm mĩ: A;

+ Hợp tác: B;

+ Thể chất: C; Tính toán: C; CNTT và Truyền thông: C.

1.2. Thế nào là dạy Tiếng Việt theo hướng hình thành và phát triển năng lực

Dạy học nhằm hình thành năng lực là dạy học hướng đến mục tiêu phát triển những năng lực chung và những năng lực chuyên biệt của môn Tiếng Việt để HS trở thành con người có tiềm lực phát triển, thích nghi với hoàn cảnh sống, học tập, làm việc luôn biến đổi trong cả cuộc đời.

1.3. Các năng lực cần được hình thành và phát triển cho học sinh tiểu học qua  môn Tiếng Việt

- Nhóm năng lực chung

- Nhóm năng lực chuyên biệt: (Quan điểm của PGS.TS Nguyễn Thị Hạnh Hạnh):

Năng lực làm chủ tiếng Việt:  Kiến thức tiếng Việt; Kĩ năng đọc và xem; Kĩ năng viết và trình bày; Kĩ năng nghe và nói; Thái độ với tiếng Việt;

Vận dụng kiến thức kĩ năng vào giao tiếp xã hội và học tập.

Năng lực văn học:

+ Kĩ năng đọc hiểu và cảm thụ văn học

+ Vận dụng kiến thức kĩ năng vào sáng tạo tác phẩm (viết 1 bài thơ, viết 1 câu chuyện,…), vào cuộc sống

Các biểu hiện chủ yếu của năng lực làm chủ tiếng Việt của học sinh tiểu học:             

- kỹ năng đọc lưu loát thành tiếng, kĩ năng đọc hiểu; kĩ năng  nghe chính xác; kĩ năng nói; kĩ năng viết chính xác; viết sáng tạo.

Mỗi kĩ năng được chia ra thành các mức độ thành thạo khác nhau

- Về kiến thức tiếng Việt;

Các mức độ nhận thức theo Bloom ở tiểu học :

- Biết là nhớ khái niệm, quy tắc  và nhắc lại ; là nhớ lại các thông tin thu thập được và nhắc lại.

- Hiểu là diễn đạt lại các khái niệm, quy tắc bằng ngôn ngữ của bản thân, có khả năng  áp dụng khái niệm, quy tắc vào tình huống đơn giản theo mẫu , hoặc có khả năng  đưa ra ví dụ theo mẫu.

- Vận dụng thấp là kết nối các kiến thức đã học để giải quyết các tình huống giả định gần giống tình huống mẫu.

- Vận dụng cao là dùng kiến thức để giải quyết một tình huống mới.

Trong môn Tiếng Việt ở tiểu học, nội dung được đánh giá nhận thức bao gồm : kiến thức về quy tắc chính tả, kiến thức về từ và câu, kĩ năng đọc hiểu văn bản, kĩ năng nghe hiểu.

Quan trng nhất là khả năng vận dụng kiến thức, kỹ năng vào giải quyết một nhiệm vụ giao tiếp cụ thể trong đời sống

Ví dụ: giải quyết tình huống, bao gồm việc viết bài văn với các kiểu VB và phương thức biểu đạt khác nhau, trình bày một VB nói, hoặc tạo lập VB có sự kết hợp giữa văn học và hội họa, âm nhạc,...

Không chỉ là những kiến thức, kỹ năng chuyên biệt mà quan trọng hơn là đánh giá năng lực /kỹ năng sống của mỗi HS (bài viết, bài nói, hoạt động nhóm,...)

GV giúp HS biết rõ trình độ của mình sau 1 giai đoạn học tập so với chuẩn Chương trình.

2. Dạy đọc hiểu cho HS lớp 4,5 theo định hướng phát triển năng lực:

2.1. Yêu cầu cần đạt của dạy đọc hiểu:

- Đọc được các chữ cái, phân biệt âm đầu, vần, tiếng; chú ý việc đọc đúng;

- Đọc thành tiếng, từ và câu rõ ràng, chính xác, hiểu nghĩa của từ và câu trong khi đọc;

- Đọc thành tiếng đoạn văn, ngắt nghỉ đúng, thể hiện việc hiểu nội dung đoạn;

- Đọc (diễn cảm) với sự hứng thú, thể hiện việc hiểu nội dung đoạn, bài (về tính cách nhân vật, về các tình tiết sự kiện, thông tin thú vị,…);

- Liên hệ với những trải nghiệm của bản thân từ nội dung bài đọc;

- Nhận xét được cảm xúc, tâm trạng, tính cách nhân vật,… trong bài đọc;

- Phán đoán cảm xúc tâm trạng của tác giả được thể hiện trực tiếp hoặc gián tiếp;

- Nắm được nội dung thông tin chính của bài; tóm tắt được nội dung bài;

- Xác định được ý trọng tâm và ý nghĩa của bài đọc đối với bản thân;

- Đánh giá nội dung ý nghĩa hoặc những thông tin quan trọng của bài dựa trên suy nghĩ và ý kiến của bản thân;

- Đánh giá nội dung ý nghĩa hoặc những thông tin quan trọng của bài dựa trên suy nghĩ và ý kiến cúa bản thân;

- Chia sẻ với người khác những cảm nhận về bài đọc hoặc những điều học tập được từ bài đọc. (…)

Những năng lực được hình thành và phát triển:

Năng lực tiếp nhận; năng lực tư duy sáng tạo; năng lực giao tiếp; năng lực thẩm mĩ (cảm xúc, thẩm mĩ)

 

1

 


([1]) Theo tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày 28/11/2014 của Quốc hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông; Quyết định số 404/QĐ-TTg ngày 27/3/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông.

nguon VI OLET