CHƯƠNG III
KỸ THUẬT MÔN NHẢY XA

  1. PHÂN TÍCH KỸ THUẬT NHẢY XA

 1/ Giai đoạn chạy đà và chuẩn bị giậm nhảy

 Tính từ lúc bắt đầu chạy đến khi đặt chân vào ván giậm nhảy

a.Nhiệm vụ: Tạo ra tốc độ tối đa theo phương nằm ngang trước khi giậm nhảy và chuẩn bị tốt cho việc đặt chân giậm nhảy chính xác vào ván giậm.

b.Xác định đà, cách đo đà :

 - Cự ly chạy đà: Số bước chạy đà đối với nam xuất sắc từ

18 –24 bước ( khoảng 38 - 48 m ), đối với nữ từ  16 - 22 bước ( khoảng 32 - 42m  ).

- Cách đo đà: Có 2 cách : 

  + Một bước chạy đà bằng 6 bàn chân

  + Một bước chạy đà bằng 02 đi thường

Người chạy đứng trên ván giậm và tiến hành đo, bằng cách đi theo một trong hai cách trên từ ván giậm đến vạch xuất phát.

- Xác định đà:

 + Nếu chạy đà, số bước chẵn (12 -14 - 16...) bước thì chân giậm nhảy đặt sát ngay sau vạch xuất phát.( đặc trước)

 + Nếu chạy đà, số bước lẻ (13 -15 - 17...) bước thì chân lăng đặt sát  ngay sau vạch xuất phát ( hay chân giậm nhảy đứng phía sau)

c. Nhịp điệu chạy đà:

Có hai cách để tăng tốc độ là

- Cách thứ nhất: Tăng tốc độ đều trên toàn đà và đạt tới tốc độ tối đa ở các bước cuối ( phù hợp với người mới tập ).

- Cách thứ hai:  Chạy đà và đạt  tốc độ cao ngay từ đầu, duy trì tốc độ cao  trên cự ly và lại cố gắng tăng tốc độ  ở cuối cự ly, phù hợp cho những người có trình  độ tập luyện cao, tần số bước chạy nhanh, động tác thoải mái, tầm vóc người cao lớn.

- Tốc độ chạy đà phải đạt:   

  +   9-10m/giây đối với nữ.

  + 10-11m/giây đối với nam.

Nhiệm vụ của chạy đà : Tạo lực nằm ngang 

d. Kỹ thuật chạy đà

Cơ bản giống như kỹ thuật chạy giữa quãng của cự  ly ngắn, nhưng để chuẩn bị tốt cho động tác giậm nhảy nên các bước chạy trong nhảy xa có đàn tính  cao hơn, trọng tâm thân thể nhấp nhô hơn, góc độ đạp sau lớn hơn, thời gian chân chạm đất lâu hơn thân người càng về gần ván giậm càng thẳng đứng, nhằm để kéo dài  bước chạy ở 4 bước cuối cùng chuẩn bị tốt cho động tác giậm nhảy ( hình vẽ ).

 

 

 

 

 

 

 

 

 

e) Chuẩn bị giậm nhảy :

Trang 1


Được biểu hiện ở 4 bước nhảy cuối cùng bằng cách thân trên thẳng đứng trọng tâm cơ thể hạ thấp để tăng độ dài  bước và bước chạy tạo bởi chân giậm ngắn hơn bước chạy của chân lăng ở thời kì chống tựa từ  15 – 20cm

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chú ý: Trong trường hợp chân giậm đặt không chính xác vào ván ( trước hoặc sau ván ) thì xem khoảng cách đó so với ván là bao nhiêu mà xê dịch điểm xuất phát. Xong chạy lại nhiều lần nhờ bạn kiểm soát bước chân của mình có giẫm đúng vào các dấu chân đã chạy ở các lần trước chưa? Đặc biệt lưu ý đến chân giậm có đặt đúng vào ván và vào vạch kiểm tra ở 6 bước cuối không? Căn cứ theo dấu chân đã chạy để ta ấn định vạch xuất phát và vạch kiểm tra ở 6 bước cuối. Sau đó ta dùng thước dây, hoặc bàn chân đo lấy mức cố định.

2/ Giai đoạn giậm nhảy

Tính từ khi đặt chân giậm đến khi chân giậm rời ván giậm.

- Nhiệm vụ của giậm nhảy : Làm thay đổi phương chuyển động của trọng tâm cơ thể và đồng thời tạo lực thẳng đứng.

- Tốc độ chạy đà và tốc độ giậm nhảy có mối quan hệ  khăng khít với nhau. Nên để tận dụng được tốc độ nằm ngang chuyển sang giai đoạn bay, người nhảy cần phải kết thúc chạy đà một cách hợp lý để đặt chân giậm nhảy vào điểm giậm nhảy một cách tích cực.

Giai đoạn chạy đà được chi 03 thời điểm:

a. Thời điểm đặt chân lên ván giậm.

- Khi đặt chân vào điểm giậm nhảy, do điểm đặt chân ở phía trước hình chiếu trọng tâm cơ thể. Nên đùi chân giậm nhảy không nhấc cao mà chủ động ép đùi về sau để chân giậm tiếp xúc với ván giậm hầu như thẳng. Đặt cả bàn chân vào ván giậm, gót chân chạm hơi sớm hơn một chút gần với điểm dọi của trọng tâm cơ thể, góc đặt chân giậm là 660 ± 30, góc ở gối là 1720 ± 50, góc giữa hai đùi là 380  ± 50, góc ngả thân trên (So với phương thẳng đứng) là 30 ± 20, góc giậm nhảy là 740 ± 30,  lực tác động lên ván giậm khoảng 700kg - 750 kg

b. Thời kỳ thẳng đứng:

Sau khi đặt chân lên điểm giậm nhảy xong, do ảnh hưởng quán tính và trọng lực, đồng thời để giảm chấn động cho cơ thể và chuẩn bị đạp duỗi. Lúc này các khớp: gối, hông, cổ chân và cột sống gập lại một cách tích cực (góc độ khớp gối khoảng 1420 ± 40, khớp hông 1530 ±  50, góc giữa hai đùi 380 ± 120, góc ngả thân trên ( So với phương thẳng đứng ) là 00 ± 10 . Do động tác hoãn xung này làm trọng tâm cơ thể hạ thấp và di chuyển lên gần trùng với điểm chống của chân giậm, lực phản tác dụng lên cơ thể khoảng 200 kg, chân giậm bắt đầu đạp duỗi.

c. Thời điểm chân giậm rời ván

Cùng lúc chân lăng gập lại ở cẳng chân đuổi vượt chân giậm và đá mạnh từ sau ra trước lên trên; đồng thời chân giậm đạp duỗi hết các khớp: cổ chân, gối, hông và bật thêm lên trên làm thay đổi hướng chuyển động trọng tâm cơ thê, người nhảy bắt đầu vào giai đoạn bay. ( góc độ khớp gối khoảng 1740 ± 50 ), khớp hông 1950 ± 50, góc giữa hai đùi 1060 ± 50 , góc ngã thân trên (So với phương thẳng đứng) là 00 ± 20.

d. Tư thế “bước bộ trên không”.

Trang 1


- Kết thúc động tác giậm nhảy là hình thành tư thể bước bộ trên khôn

- Tu thế lúc này thân trên và đùi chân lăng tạo thành 1 góc khoảng 90 độ, gối co lại khoảng 83 độ. Chân giậm đạp duỗi thẳng hết các khớp và giữ lại  ở phía sau. Tay cùng bên với chân giậm co ở khuỷu 90độ đánh từ sau xuống dưới ra trước lên trên và dừng khi cánh tay song song với mặt đất. Tay cùng bên với chân lăng gấp ở khuỷu đánh từ trước ra sau lên trên sang ngang lòng bàn tay úp ở trước ngực, khuỷu tay hơi cao hơn vai. Hai vai cố định nín thở, đầu và mắt hướng thẳng về trước ( Như hình vẽ )

 

 

 

 

 

 

 

 

 

3/ Giai đoạn bay trên không:

- Tính từ khi chân giậm rời khỏi ván giậm ( tư thế bước bộ trên không)đến khi một bộ phận của cơ thể chuẩn bị chạm đất.

- Nhiệm vụ: Giữ thăng bằng và tận dụng được quĩ đạo bay của trọng tâm cơ thể và hình thành tư thế của kỹ thuật..

- Do tốc độ nằm ngang lớn hơn tốc độ thẳng đứng nên góc độ bay ban đầu của môn nhảy xa khoảng từ  21độ  ± 2 độ

- Sự khác biệt giữa các kiểu nhảy xa chính là ở giai đoạn này. Có ba kiểu nhảy xa đó là: “ Kiểu ngồi”, “ Kiểu ưỡn thân”, “Kiểu cắt kéo”.

a. Bay trên không nhảy xa “kiểu ngồi”

- Là kiểu nhảy đơn giản dễ thực hiện, phù hợp với mọi lứa tuổi, mọi người

- Sau khi bay ở tư thế “bước bộ” được 1/3 đến 1/2 cự ly, người nhảy thực hiện đưa đùi chân lăng lên cao và duỗi ra trước, nhanh chóng kéo chân giậm lên song song với chân ở phía trước (chân lăng) và nâng hai đùi lên sát ngực. Hai tay từ tư thế bước bộ đưa lên cao, thân trên hơi ngã về trước tạo thành tư thế ngồi ở trên không đến khi gần rơi xuống hố cát hai chân hầu như được duỗi thẳng hoàn toàn ra trước, đồng thời,ï đánh mạnh hai tay từ trên ra trước xuống dưới và ra sau. Động tác có tính chất bù trừ này tạo điều kiện tốt cho việc duổi thẳng chân trước khi rơi xuống và giữ thăng bằng

Bay trên không nhảy xa “kiểu ngồi”

 

 

 

 

 

 

 

4/ Giai đoạn rơi xuống cát

Nhiệm vụ của tiếp đất :

Giảm chấn động nhằm đảm bảo an toàn cho người nhảy,  giữ thành tích và nâng cao thành tích, Giai đoạn này xảy ra trong thời gian rất ngắn và gây chấn động lớn cho cơ thể.

- Để đạt được độ xa của lần nhảy và giảm chấn động cho cơ thể việc thực hiện đúng kỷ thuật rơi xuống cát có ý nghĩa rất lớn. Trong tất cả các kiểu nhảy, việc thu chân chuẩn bị rơi xuống cát được bắt đầu khi tổng trọng tâm cơ thể ở cách mặt cát ngang với mức khi họ kết thúc giậm nhảy.

Trang 1


Để chuẩn bị cho việc rơi xuống cát, đầu tiên cần nâng đùi đưa hai đầu gối lên sát ngực và gập thân trên nhiều về trước. Cẳng chân lúc này được hạ xuống dưới, hai tay chuyển từ trên cao ra phía trước. Tiếp đó là duổi chân, nâng cẳng chân để gót chân chỉ thấp hơn mông một chút. Thân trên lúc này không nên gập về trước quá nhiều vì sẽ gây khó khăn cho việc nâng chân lên cao.Tay lúc này gấp ở khủyu  và được hạ xuống theo hướng xuống dưới và ra sau. Sau khi hai gót chân chạm cát cần gấp gối để giảm chấn động và tạo điều kiện chuyển trọng tâm cơ thể xuống dưới - ra trước vượt qua điểm chạm cát của gót. Thân trên lúc này cũng cố gập về trước để giúp không đổ người về sau làm ảnh hưởng tới thành tích.

Để giảm chấn động người nhảy khi tiếp đất phải co các khớp ( ngón chân, cổ chân , gối , hông)

Giai đoạn rơi xuống cát

 

 

 

 

 

 

 

CHƯƠNG IV
TÓM TẮT LUẬT THI ĐẤU MÔN NHẢY XA

 

I. SÂN THI ĐẤU NHẢY XA :

Ván giậm nhảy là một khối hình hộp bằng gỗ hoặc vật liệu cứng phù hợp khác, có chiều dài 1,21 - 1,22m, rộng 0,20m. Ván màu trắng, được chôn ngang mức với đường chạy đà và bề mặt của khu vực rơi (hố cát). Cnh của ván giậm gần với khu vực rơi được gọi là vạch giậm nhảy. Ngay sau vạch giậm nhảy được đặt một ván phủ chất dèo để giúp trọng tài xác định phạm quy.

- Vạch kiểm tra  : ở phía hố cát sát với ván giậm nhảy, rộng 10 cm, làm bằng cát ướt hay chất dẻo. Nếu làm bằng cát ướt cao hơn ván giậm 0,3 cm

- Hố nhảy: Khoảng cách từ ván đến cuối mép hố cát dài 10 m, rộng 2m75, cát trong hố phải ẩm và ngang bằng với mặt ván giậm nhảy, ván giậm đặt cách hố nhảy từ  1m - 1m50.

- Đường chạy đà rộng 1,22m - 1,25m, dài 40m - 45m và được đánh dấu bằng những vạch trắng rộng 5cm.

II. LUẬT THI ĐẤU MÔN NHẢY XA

- Từ khi trọng tài gọi tên cho đến khi vận động viên bắt đầu nhảy thời gian không được kéo dài  quá 1,5 phút.

- Khi trọng tài đưa cờ trắng lên thì vận động viên bắt đầu nhảy. Nếu đưa cờ đỏ là tạm ngừng.( Hoặc 1cờ, cờ phất lên  được nhảy, cờ hạ xuống thì  không được nhảy).

- Trong tất cả các cuộc nhảy xa (trừ thi đấu đồng đội) nếu có từ 8 vận động viên trở xuống thì mỗi vận động viên được nhảy và tính điểm 6 lần và lấy thành tích cao nhất trong 6 lần nhảy đó để xếp thứ hạng.

Nếu có từ  8 vận động viên trở lên thì phải cho đấu loại. Trong thi loại mỗi vận động viên nhảy 3 lần, 8 vận động viên có thành tích cao nhất được vào chung kết, và thứ tự thi đấu được xếp từ thấp đến cao, (mỗi Vận động viên được nhảy 3 lần nữa và lấy thành tích cao nhất trong 6 lần nhảy của 2 vòng để xếp thứ hạng. Nếu có hai hoặc nhiều Vận động viên  có thành tích cao nhất bằng nhau thì xếp hạng bằng nhau hoặc xếp theo thành tích cao nhất của các lần nhảy còn lại (kể cả đấu loại và chung kết).

Ví dụ :  Hai Vận động viên A và B có thành tích các lần nhảy như sau:

- A: 639cm, 671cm, 6.83cm, 6.40cm, 6.50cm, 6.51cm, 6.83cm (1)

Trang 1


- B: 6.50cm, 66.66cm, 6.83cm, 6.70cm, 6.60cm, 6.83cm (2)

- Vậy Vận động viên A tiếp sau thành tích cao nhất (683cm) là 6,71m, cao hơn Vận động viên B là 6m70 nên được xếp hạng cao hơn.

- Nếu  thi đấu đồng đội mỗi Vận động viên  chỉ được nhảy 3 lần tính theo thành tích cao nhất.

 - Trong khi thi đấu vận động viên có quyền bỏ một vài lần nhảy của mình.

 - Nếu thi đấu tạm ngừng vì thời tiết hay vì nguyên nhân nào khác không phải do trọng tài hoặc Vận động viên gây nên) thì hoãn thi đấu trong vài giờ hoặc chuyển sang ngày khác, địa điểm khác.

- Vận động viên nhảy xa giậm nhảy bằng một chân rơi xuống bằng hai chân.

 - Vận động viên chỉ được quyền giậm nhảy trên ván giậm hay trên đường chạy đà. Nếu giậm nhảy chạm vạch kiểm tra ngoài ván giậm nhảy, hoặc khi nhảy xong đi ngược  lại trong hố xem như phạm luật, thành tích lần đó không công nhận.

 - Thành tích môn nhảy xa được xác định từ mép vạch kiểm tra sát ván giậm đến điểm rơi (chạm cát) gần nhất của bất cứ một bộ phận cơ thể nào. Thước dây phải đặt thẳng vuông góc với vạch kiểm tra, thành tích xác định bằng đơn vị cm.

(1) Trích Luật Điền kinh, NXB TDTT, 2006.

Trang 1

nguon VI OLET