CHƯƠNG 9 : HUẤN LUYỆN THỂ THAO

 

 

9.1. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN

9.1.1. Đào tạo VĐV

 Khi nói đến thể thao không chỉ dừng ở thi đấu, nó còn là sự chuẩn bị tập luyện đặc biệt, là kết quả lao động sáng tạo của mỗi cá nhân và nhiều yếu tố khác nữa nhằm đạt thành tích thể thao cao nhất.

 Yếu tố tạo nên thành tích thể thao gồm 2 loại :

 - Các yếu tố bên trong đó là các khả năngtrang trí thực tế sẵn sàng đạt thành tích nhất định của VĐV.

 - Các yếu tố bên ngoài bao gồm các phương tiện, PP và điều kiện tác động có chủ đích đến sự phát triển VĐV và đảm bảo cho họ đạt được trạng thái sẵn sàng. Để đảm bảo được trạng thái đó người ta đã sử dụng nhiều yếu tố liên quan đến buổi tập thể thao (các phương tiện hồi phục sau tập luyện, chế độ dinh dưỡng, chế độ sinh hoạt, điều kiện tập luyện và thi đấu v.v…) Tất cả các yếu tố kể trên đã tạo thành quá trình đào tạo VĐV.

 Đào tạo VĐV là một quá trình bao gồm nhiều mặt, sử dụng có mục đích nhiều nhân tố tác động có chủ đích tới sự phát triển VĐV và đảm bảo cho họ có trình độ sẵn sàng đạt được thành tích thể thao.

 Các nhân tố và điều kiện sử dụng trong đào tạo VĐV có thể chia thành 3 nhóm sau :

 + Huấn luyện thể thao

 + Thi đấu thể thao : trong trường hợp này chúng ta xem các cuộc thi đấu thể thao như là một trong những phương tiện đào tạo VĐV. Tuy nhiên chúng ta biết rằng thi đấu thể thao còn có những chức năng xã hội khác : hợp tác quốc tế và thẩm mỹ v.v…

 + Các nhân tố ngoài tập luyện và thi đấu nhằm tăng hiệu quả của tập luyện và thi đấu hoặc đẩy nhanh quá trình hồi phục của VĐV sau tác động của LVĐ làm.

9.1.1.1. Huấn luyện thể thao

 Theo nghĩa hẹp thì HLTT là sự chuẩn bị cho VĐV về các mặt thể lực, kỹ thuật thể thao, chiến thuật, trí tuệ, tâm lý và đạo đức dựa trên cơ sở chủ yếu bằng PP, BT. Khái niệm này thể hiện trong các khái niệm huấn luyện SN, mạnh, bền, trình độ tập luyện …

 Theo nghĩa rộng thì HLTT là quá trình chuẩn bị cho VĐV một cách có kế hoạch và hệ thống để đạt thành tích thể thao cao và cao nhất. Nó bao gồm tất cả những nét đặc trưng cơ bản của quá trình sư phạm (giảng dạy, giáo dục) và các biện pháp tự giáo dục của VĐV nhằm mục đích nâng cao thành tích thể thao.

 HLTT là hình thức cơ bản trong đào tạo VĐV vì HLTT thực chất là đào tạo VĐV không qua hệ thống BT, và PP BT là PP đặc trưng của quá trình HLTT, nếu thiếu nó thì không còn là HLTT nữa.

 Mặt khác chỉ có thông qua quá trình HLTT mới có thể giải quyết tương đối trọn vẹn các nhiệm vụ đào tạo VĐV (nhiệm vụ : giáo dục phẩm chất tâm lý cá nhân, chuẩn bị thể lực, chuẩn bị kỹ thuật, chuẩn bị chiến thuật và chuẩn bị trí tuệ) chỉ có thông qua BT trong HLTT mới phát triển được thể lực, kỹ – chiến thuật và hình thành những phẩm chất ý chí cho VĐV.

 Vì vậy, HLTT là hình thức cơ bản trong đào tạo VĐV.

9.1.1.2. Hệ thống thi đấu thể thao

 Hệ thống thi đấu thể thao bao gồm các cuộc thi đấu chính thức và không chính thức trong thể thao, trong đó các cuộc thi đấu chính thức có ý nghĩa hàng đầu. Các cuộc thi đấu đó chi phối rõ rệt đến tổ chức đào tạo của từng VĐV cũng như toàn đội, thậm chí của toàn ngành.

 Các cuộc thi được sắp xếp theo một trật tự tùy theo tính chất và quy mô cuộc thi. Những cuộc thi chủ yếu như : vô địch thế giới, châu lục, khu vực, vô địch toàn quốc có ảnh hưởng trực tiếp đến công tác tổ chức huấn luyện.

 Ngoài các cuộc thi chính thức, phần lớn các cuộc thi còn lại đều có tính chất chuẩn bị. Nhưng các cuộc thi đấu chuẩn bị cũng có ý nghĩa cụ thể nhất định trong quá trình đào tạo VĐV như hoàn thiện kỹ thuật – chiến thuật, hoàn thiện mức độ ổn định tâm lý, kiểm tra mức độ sẵn sàng …

 Như vậy, thi đấu là hình thức quan trọng trong đào tạo VĐV và lẽ đương nhiên là hệ thống huấn luyện phải phù hợp với hệ thống thi đấu.

9.1.1.3. Các nhân tố bổ xung cho huấn luyện và thi đấu để nâng cao hiệu quả đào tạo VĐV

  Trong quá trình đào tạo VĐV thì tập luyện và thi đấu chưa đủ, nhất là ngày nay sự đua tranh TT-TT diễn ra một cách mạnh mẽ. Ngoài ra điều kiện tập luyện và thi đấu hiện đại, các HLV, các nhà khoa học đang khai thác những nhân tố ngoài tập luyện một cách triệt để nhằm nâng cao thành tích thể thao.

 Những nhân tố đó bao gồm :

 - Chế độ sống (CĐS là trật tự các nội dung sinh hoạt, tập luyện trong ngày tạo nên hệ thống phản xạ có ĐK có tác dụng nâng cao sức khỏe và khả năng làm việc) được tổ chức phù hợp yêu cầu HL thể lực. Vấn đề tổ chức chế độ sống có ý nghĩa quan trọng đặc biệt trong HLTT hiện đại.

 - Hồi phục sau tập luyện : Có những VĐV cấp cao tập 5 – 7h/ngày. Vì vậy, cần phải có chế độ sống và sử dụng các phương tiện hồi phục (tắm, xoa bóp, thả lỏng v.v…)

 - Chế độ dinh dưỡng : Dinh dưỡng cần dinh dưỡng đặc biệt vì TLTT là loại hình lao động đặc biệt, tiêu hao năng lượng lớn, nên chế độ ăn uống cũng phải được quan tâm đặc biệt.

 - Ngoài việc tập luyện căng thẳng VĐV cần có thời gian để trao dồi về lý luận và tự giáo dục, vẫn tập thể dục sáng theo hướng vệ sinh, học tập và nghỉ ngơi giải trí.

 - Vì vậy các nhân tố trên có vai trò hợp lý hóa và nâng cao hiệu quả của tập luyện.

9.1.2. Trình độ đào tạo

 Nói đến trình độ đào tạo là nhằm chỉ tất cả các mặt đào tạo để làm cho VĐV có thể đạt được những thành tích thể thao kế tiếp nhau. Trình độ đào tạo bao gồm trình độ đào tạo về thể lực, kỹ thuật, chiến thuật thể thao, tâm lý và cả lý thuyết nhất định của VĐV.

 Trình độ đào tạo thể lực (trình độ thể lực) là mức độ phát triển về SM, SN, SB và các tố chất thể lực khác của VĐV. Trình độ thể lực càng cao thì VĐV hoàn thành nhiệm vụ vận động càng tốt và thi đấu càng có hiệu quả.

 Trình độ đào tạo kỹ thuật – Chiến thuật thể thao là trình độ điêu luyện về những mặt ấy của VĐV.

 Trình độ đào tạo tâm lý là sự vững vàng, nhạy bén về tinh thần và ý thức … đáp ứng những nhu cầu đạt thành tích thể thao cao.

9.1.3. Trình độ tập luyện

 Ngày nay có nhiều cách hiểu khác nhau về trình độ tập luyện : Người Đức và thậm chí một số người Nga coi trình độ TL là kết quả của tất cả các mặt đào tạo, họ cho rằng trong trình độ tập luyện có cả thể lực, kỹ thuật, chiến thuật thể thao và tâm lý. Thực ra cách hiểu như vậy là quá rộng và như thế nó đồng nghĩa với khái niệm trình độ đào tạo.

 Hiện nay, đa số các tài liệu cho rằng : Trình độ tập luyện là những biến đổi thích nghi trong lĩnh vực y – sinh học TDTT. Trình độ tập luyện là những biến đổi thích nghi trong cơ thể VĐV do tác động của tập luyện. Như vậy khái niệm này nó hoàn toàn mang màu sắc y – sinh học.

 Người ta đánh giá trình độ tập luyện thông qua các chỉ số hình thái chức năng cơ thể ở trạng thái tĩnh : hình thái và cấu trúc của cơ, hoạt động của hệ thống tuần hoàn và hô hấp v.v… dó là những dấu hiệu của trình độ tập luyện.

 Người ta còn đánh giá trình độ tập luyện thông qua các bài thử (test) và trình độ tập luyện được thể hiện thông qua sự tiết kiệm hóa chức năng (LVĐ chuẩn) hoặc đạt được những kết quả cao nhất (hoạt động cực đại) và khả năng hồi phục nhanh.

9.1.4. Trạng thái sung sức thể thao (TT  SS TT)

 Trạng thái sung sức thể thao là trạng thái sẵn sàng tối ưu của VĐV về mọi mặt (thể lực, kỹ – chiến thuật và tâm lý) trong mỗi chu kỳ huấn luyện để đạt thành tích thể thao cao.

 TT SS TT có được khi các mặt huấn luyện đạt kết quả cao nhất vào cùng một thời điểm và kết hợp với nhau thành một thể hoàn chỉnh thể lực, tâm lý, kỹ thuật, chiến thuật đều tốt)

 TT SS TT chỉ có hoặc không (chứ không nói TT SS TT kém hoặc trung bình) trong mỗi chu kỳ huấn luyện, và mỗi chu kỳ huấn luyện nó chỉ xuất hiện 1 hoặc vài lần. Duy trì TT SS TT là dậm chân tại chỗ vì duy trì TT SS TT trong thực tế cực kỳ khó khăn đối với quy luật hoạt động của hệ thần kinh và dẫn tới tập luyện quá sức. Do vậy ta phải phá bỏ TT SS TT cũ và xây dựng trạng thái mới.

 Tất nhiên có thể nảy sinh câu hỏi : 1 là trạng thái tối ưu của VĐV thì tại sao không duy trì thường xuyên được TT SS TT cho VĐV? Bởi vì :

 Một là TT SS TT thu được ở một bậc thang nào đó của sự hoàn thiện thể thao là 1 trạng thái tối ưu đối với bậc thang đó nhưng đối với tài nghệ thể thao thì đó lại không phải là tối ưu đối với bậc thang cao hơn tiếp theo. Vì thế nếu duy trì TT SS TT thường xuyên cũng đồng nghĩa với sự “dừng chân tại chỗ”. Để tiến lên phía trước cần phải vứt bỏ trạng thái tạo tiền dề để thu nhận cái mới.

 Hai là do tích lũy kéo dài hiệu quả của những LVĐ tập luyện và thi đấu cần thiết để thu nhận và tạo thành TT SS TT. Duy trì TT SS TT, sớm muộn sẽ xuất hiện phản ứng bảo vệ của cơ thể chống lại sự căng thẳng quá mức. Vì vậy nếu duy trì lâu dài TT SS TT sẽ dẫn đến tập luyện quá sức.

 Ba là bản thân việc duy trì sự cân bằng phức tạp giữa các chức năng với các quá trình sinh vật học khác nha đảm bảo cho TT SS TT là một việc khó khăn, đặc biệt đối với hệ thần kinh của VĐV.

 Như vậy, duy trì lâu dài TT SS TT sẽ gây nên những hậu quả xấu. Nhưng thực ra không cần thiết phải làm như vậy bởi vì muốn nâng thành tích thể thao nhất thiết phải xóa bỏ trạng thái cũ và xây dựng trạng thái mới ở mức cao hơn.

 TT SS TT diễn biến theo 3 giai đoạn : hình thành, duy trì sự ổn định trạng thái trong một thời gian nhất định và giai đoạn tiếp theo là giai đoạn mất đi tạm thời. Quy luật của các giai đoạn phát triển của TT SS TT là cơ sở khoa học để phân chia chu kỳ thành các thời kỳ trong quá trình HLTT.

9.1.5. Thành tích thể thao

 Thành tích thể thao của VĐV là kết quả thể hiện toàn bộ khả năng của người đó trong môn thể thao nhất định. Nó được đánh giá theo những chỉ số đã được thừa nhận : thể lực, điểm số, bàn thắng, thời gian, cự ly, trọng lượng v.v…

 - Năng khiếu cá nhân, VĐV và mức độ đào tạo để đạt thành tích.

 - Hiệu quả của hệ thống đào tạo thể thao, nội dung tổ chức và các điều kiện đảm bảo cơ sở vật chất kỹ thuật.

 - Các điều kiện đảm bảo cho thành tích phát triển.

 Đó là những nhân tố và điều kiện cơ bản có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự phát triển của thành tích thể thao trong xã hội.

9.2. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG TIỆN CỦA HUẤN LUYỆN THỂ THAO

9.2.1. Mục đích của huấn luyện thể thao

 Thể thao bao giờ cũng có quan hệ trực tiếp đến việc xác lập các thành tích thể thao. Thành tích thể thao không thể tự có. Bởi vậy, mục đích của HLTT là phát triển các năng lực thể chất và tinh thần của VĐV để đạt thành tích thể thao cao nhất và sử dụng hoạt động thể thao như là một nhân tố để hình thành hài hòa nhân cách và giáo dục trách nhiệm đối với xã hội.

9.2.2. Nhiệm vụ của huấn luyện thể thao

 HLTT phải giải quyết các nhiệm vụ chung là : đào tạo hoàn thiện tâm lý, kỹ thuật chiến thuật và thể lực cho VĐV. Xuất phát từ các nhiệm vụ chung, trong quá trình HLTT phải giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau :

 * Các nhiệm vụ giáo dục tư tưởng, đạo đức, thẩm mỹ, tri thức và các nhiệm vụ chuyên môn trong lĩnh vực đào tạo tâm lý VĐV.

 Giáo dục lòng yêu nước, giáo dục tính thẩm mỹ chung cũng như thẩm mỹ thể thao, trang bị cho VĐV những kiến thức cơ bản về tâm lý TT, tâm lý chuyên môn phù hợp với yêu cầu của môn thể thao chuyên sâu, có thái độ đúng đắn đối với thành tích thể thao, đồng đội, đối phương và thậm chí cả người xem v.v…

 * Các nhiệm vụ huấn luyện thể lực

 Đó là giáo dục các năng lực thể chất cần thiết ở môn TT chuyên sâu (nhanh, mạnh …) và thể lực chung nhằm đảm bảo đạt thành tích thể thao cao nhất. Việc huấn luyện đó trước hết phải hướng vào phát triển các tố chất thể lực mà trong thi đấu môn thể thao chuyên sâu đòi hỏi. Cơ sở để phát triển các tố chất thể lực đó là khả năng chịu đựng LVĐ cao.

 * Các nhiệm vụ huấn luyện kỹ thuật và chiến thuật thể thao nhằm giáo dưỡng kỹ – chiến thuật thể thao hình thành và hoàn thiện các KNKX vận động, giáo dục những kiến thức về chiến thuật cho VĐV và những phẩm chất khác có liên quan trực tiếp đến việc hoàn thiện kỹ – chiến thuật thể thao.

 

9.2.3. Phương tiện huấn luyện thể thao

 Phương tiện chính quan trọng nhất nhằm nâng cao thành tích thể thao trong huấn luyện đó là BTTC, BTTC được chia thành 3 loại : BT thi đấu, BT chuẩn bị chuyên môn và BT chuẩn bị chung.

9.2.3.1. Bài tập thi đấu

 BT thi đấu là những hành động nguyên vẹn hoặc tổ hợp các hành động vận động được dùng làm phương tiện cơ bản để tiến hành đua tài trong thể thao theo đúng luật thi đấu.

 Với nghĩa này BT thi đấu trùng với khái niệm môn thể thao. Chúng ta cần phân biệt các BT thi đấu đích thực với việc sử dụng BT thi đấu trong tập luyện. BT thi đấu phải được thực hiện trong thi đấu thể thao thực sự còn trong tập luyện mà sử dụng BT thi đấu thì chỉ để giải quyết các nhiệm vụ tập luyện mà thôi.

 Do khái niệm BT thi đấu tương ứng với khái niệm môn thể thao. Ví dụ : BT thi đấu bóng đá trùng với môn bóng đá, mỗi kiểu bơi là một BT thi đấu … Xuất phát từ dó mà Matvêep đã phân các môn thể thao thành 5 nhóm sau :

  1. Bao gồm những môn TT vận động tối đa : cử tạ, đua thuyền bơi v.v…
  2. Nhóm các môn điều khiển đua tài phương tiện dụng cụ : đua môtô, đua thuyền buồm v.v…
  3. Các môn bắn trúng đích : bắn súng, bắn cung v.v..
  4. Các môn lắp ráp mô hình
  5. Các môn tư duy logic : cờ

Cách chia như vậy là tương đối khách quan. Ngoài ra còn có những cách chia thuộc chương trình Olimpic thì chia thành 6 nhóm :

  1. Nhóm các môn TT có chu kỳ, nhóm này được tách nhỏ thành chu kỳ SM tốc độ (cự ly ngắn) và chu kỳ sức bền (cự ly dài)
  2. Các môn SM tốc độ : nhảy, ném, cử tạ v.v…
  3. Các môn phối hợp động tác : TD, trượt băng v.v…
  4. Các môn bóng
  5. Các môn đối kháng cá nhân
  6. Các môn phối hợp : 5 môn phối hợp hiện đại

9.2.3.2. Các bài tập chuẩn bị chuyên môn

 Là các BT hỗ trợ cho việc tiếp thu kỹ thuật của BT thi đấu cũng như hỗ trợ cho việc phát triển các tố chất thể lực chuyên môn, nên người ta chia thành 02 loại : BT hỗ trợ kỹ thuật và BT hỗ trợ thể lực.

 - BT hỗ trợ cho việc tiếp thu những kỹ thuật động tác mới, khó, còn được gọi là BT dẫn dắt.

 - BT hỗ trợ thể lực chủ yếu nhằm phát triển các tố chất thể lực còn được gọi là BT phát triển.

 Các BT chuẩn bị chuyên môn rất phong phú. Chúng có thể là chi tiết của BT thi đấu, cũng có thể là các phương án của BT thi đấu, hoặc là những động tác có hình thức tương tự BT thi đấu. Vi dụ như : chạy các đoạn ngắn đối với VĐV chạy, các động tác và phối hợp nhỏ ở VĐV bóng đá, VĐV nhảy cầu tập các BT nhào lộn. Như vậy một BT chỉ có thể là BT chuẩn bị chuyên môn khi nó có những nét cơ bản giống với BT thi đấu. Nhưng không phải tất cả các BT chạy đều là BT chuẩn bị chuyên môn của VĐV chạy (Bởi vì còn phụ thuộc vào phương án sử dụng)

 Mặt khác, BT chuẩn bị CM cũng không nhất thiết phải giống hệt BT thi đấu. Nhưng chúng phải được lựa chọn sao cho tác động có chủ đích và có hiệu quả đến sự phát triển các tố chất thể lực và kỹ xảo vận động ở ngay chính môn thể thao chuyên sâu. Ví dụ : khi sử dụng các BT gánh tạ đứng lên ngồi xuống cho VĐV cử tạ.

9.2.3.3. Các bài tập chuẩn bị chung

 Các BT chuẩn bị chung nhằm phát triển toàn diện khả năng của cơ thể, tạo vốn KNKX vận động phong phú làm tiền đề cho tiếp thu kỹ thuật ở môn thể thao chuyên sâu.

 Thành phần các BTCB chung thường rộng rãi và đa dạng về tính chất BTCB chung có thể trùng hợp hoặc không trùng hợp với BT chuẩn bị CM, nhưng khi chọn các BTCB chung phải tuân thủ các yêu cầu sau :

 - Phải bao gồm các phương tiện GDTC toàn diện, đặc biệt là các BT tác động có hiệu quả đến phát triển các tố chất thể lực và làm phong phú vốn KNKX vận động cơ bản trong cuộc sống.

 - Nội dung huấn luyện khi sử dụng các BT phải phản ánh được đặc điểm của chuyên môn hóa thể thao và tạo tiền đề cho các BT chuẩn bị chuyên môn.

 Ranh giới giữa các BT đều mang tính quy ước, bởi vì, trong thực tế có những BT đứng giữa hai loại BTCB chung và BT chuẩn bị chuyên môn (được gọi là BT trung gian : bơi các kiểu, nhảy xa các kiểu hoặc chạy ở các cự ly khác cự ly thi đấu) đó là những BT có hình thức giống BT thi đấu nhưng có phương thức thực hiện khác BT thi đấu. Chính những BT này đã đảm bảo mối quan hệ chặt chẽ giữa 2 nội dung huấn luyện chung và chuyên môn cho VĐV. Vì vậy các BT trung gian có vai trò rất quan trọng trong huấn luyện VĐV cấp cao.

9.3. NỘI DUNG CỦA HUẤN LUYỆN THỂ THAO

9.3.1. Giáo dục phẩm chất, nhân cách, huấn luyện về tâm lý chuyên môn và tri thức cho VĐV

 * Để đạt dược thành tích trong tập luyện và thi đấu, điều trước tiên là phải giáo dục cho VĐV có động cơ tập luyện đúng đắn và cao đẹp như mong muốn vươn tới những thành tích thể thao ngày càng cao làm vinh quang cho tập thể và tổ quốc.

 * Một nhiệm vụ quan trọng nữa là giáo dục cho VĐV tiếp thu được những chuẩn mực về đạo đức thể thao tuân thủ các luật lệ thi đấu, tinh thần thi đấu cao thượng thắng không bại thua không nản, cách cư xử đúng đắn chân tình với HLV, đồng đội, với những người hâm mộ v.v… giáo dục cho VĐV tính cần cù, chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn trong tập luyện và thi đấu.

 * Huấn luyện tâm lý chuyên môn được thể hiện trong việc giáo dục tính chủ động, sáng tạo tinh thần tự chủ, năng lực vượt qua những khó khăn tâm lý trong môn thể thao lựa chọn điều hòa trạng thái tối ưu của mình. Song trong quá trình tập luyện và thi đấu thể thao thường xuất hiện những trạng thái tâm lý gây ảnh hưởng xấu tới việc đạt thành tích thể thao. Để điều chỉnh trạng thái tâm lý của VĐV, ngoài những PP sư phạm có thể sử dụng các thủ thuật sau :

 - Sử dụng các yếu tố giáo dục và tự giáo dục như tạo lòng tin trong tập luyện và thi đấu, xây dựng tình đồng đội, tự rèn luyện những phẩm chất ý chí cần thiết.

 - Sử dụng các biện pháp, PP và thủ thuật chuyên môn để điều chỉnh trạng thái tâm lý VĐV. Điều đó giải thích chủ yếu thông qua việc sử dụng LVĐ hợp lý và phong phú về các hình thức khởi động chuyên môn.

 - Làm quen với những điều kiện thi đấu.

 - Sử dụng các PP chuyên biệt để điều khiển và tự điều khiển trạng thái tâm lý như tự kỷ, ám thị, những BT tư duy vận động.

 Sử dụng các điều kiện môi trường tự nhiên, các điều kiện vệ sinh có tác động giải tỏa trạng thái tâm lý.

 * Đào tạo về mặt tri thức cho VĐV cần giáo dục những mặt sau :

 - Những tri thức giúp hình thành thế giới quan đúng đắn, giúp hiểu ý nghĩa xã hội và cá nhân của thể thao đối với VĐV.

 - Những tri thức về các cơ sở khoa học chung của công tác đào tạo VĐV (nguyên tắc chung đào tạo VĐV, các cơ sở khoa học tự nhiên và tâm lý của hoạt động thể thao v.v…)

 - Những tri thức hoạt động thực dụng như luật thi đấu, kỹ – chiến thuật môn thể thao lựa chọn, các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả, các PP huấn luyện về thể lực và tâm lý, PP xây dựng kế hoạch tập luyện, chế độ sinh hoạt v.v… hình thức đào tạo phổ biến là bài giảng, thảo luận và tự đọc sách.

9.3.2. Huấn luyện thể lực

  Huấn luyện thể lực luôn là cơ s73 của HLTT. Huấn luyện thể lực cho VĐV phải phù hợp với quy luật chung của GDTC (đã được trình bày ở chương VII) và những đặc điểm của HLTT. Một trong những đặc điểm tiêu biểu đó là kết hợp chặt chẽ giữa HL thể lực chung với thể lực chuyên môn cho VĐV.

9.3.2.1. Huấn luyện thể lực chung

 Đó là quá trình giáo dục toàn diện những năng lực thể chất của VĐV. Người ta sử dụng các BT khác nhau để nâng cao khả năng chức phận của cơ thể làm phong phú vốn KNKX vận động cho VĐV. Tuy nhiên do đặc điểm chuyên môn hóa khác nhau theo đặc điểm của từng môn thể thao mà huấn luyện thể lực chung cũng được chuyên môn hóa về nội dung và PP.

 Đó là quá trình giáo dục toàn diện những năng lực thể chất của VĐV. Người ta sử dụng các BT khác nhau để nâng cao kh3 năng chức phận của cơ thể làm phong phú vốn KNKX vận động cho VĐV. Tuy nhiên do đặc điểm chuyên môn hóa khác nhau theo đặc điểm của từng môn thể thao mà huấn luyện thể lực chung cũng được chuyên môn hóa về nội dung và PP.

9.3.2.2. Huấn luyện thể lực chuyên môn

 Huấn luyện thể lực chuyên môn cho VĐV là quá trình giáo dục nhằm phát triển và hoàn thiện những năng lực thể chất tương ứng với đặc điểm môn thể thao chuyên sâu. Nó có nhiệm vụ phát triển đến mức tối đa những năng lực dó ở VĐV. Tùy theo đặc điểm của từng môn thể thao khác nhau mà huấn luyện thể lực chuyên môn cho VĐV theo từng môn cũng khác nhau.

 Mối quan hệ giữa HL thể lực chung và chuyên môn có tính biện chứng, mối tương quan này có thay đổi trong quá trình tập luyện nhiều năm, cũng như trong mỗi thời kỳ của chu kỳ lớn.

9.3.3. Huấn luyện kỹ thuật và chiến thuật thể thao

9.3.3.1. Huấn luyện kỹ thuật

 Huấn luyện kỹ thuật bao gồm huấn luyện kỹ thuật chung và huấn luyện kỹ thuật chuyên môn.

 * Huấn luyện kỹ thuật chung là một quá trình giáo dưỡng làm tăng vốn kỹ năng và kỹ xảo hữu ích cho cuộc sống hàng ngày và cho thể thao.

 * Huấn luyện kỹ thuật chuyên môn là quá trình giáo dưỡng nhằm làm cho VĐV nắm vững và hoàn thiện các KNKX của môn thể thao lựa chọn.

 Trong quá trình huấn luyện kỹ thuật HLV phải sử dụng các phương tiện và PP nhằm hoàn thiện kỹ thuật một cách tốt nhất và phù hợp với đặc điểm cá nhân của VĐV.

 + Các phương tiện bao gồm : lời nói, trực quan, các dụng cụ phục vụ cho quá trình HL kỹ thuật, các BT v.v…

 + Các PP huấn luyện kỹ thuật thể thao bao gồm :

 - Các PP hướng dẫn và học tập kỹ thuật thể thao.

 - Các PP đặt kế hoạch.

 - Các phương pháp kiểm tra.

 - Các PP đánh giá

9.3.3.2. Huấn luyện chiến thuật :

  Chiến thuật thể thao là nghệ thuật tranh tài trong thi đấu thể thao.

 Nội dung của huấn luyện chiến thuật thể thao cho VĐV bao gồm :

 - Truyền thụ những hiểu biết về chiến thuật thể thao như các quy luật chiến thuật thể thao, các thủ đoạn chiến thuật, các thủ đoạn vận dụng chiến thuật, xu hướng phát triển chiến thuật trong môn thể thao lựa chọn.

 - Biết khai thác các mặt mạnh, yếu của đối phương và điều kiện cuộc thi.

  - Sử dụng thành thạo các phương án, các miếng, các thủ đoạn chiến thuật.

 - Giáo dục năng lực tư duy chiến thuật và những năng lực cần thiết khác cho việc điêu luyện chiến thuật.

 Trong tất cả các nội dung kể trên thì năng lực tư duy chiến thuật là trọng tâm, vì đó là yếu tố để xây dựng tổ chức và thực hiện kế hoạch thi đấu thể thao nếu thiếu nó thành tích thi dấu sẽ không có kết quả. Năng lực tư duy chiến thuật được thể hiện thông qua năng lực vận dụng các tri thức sẵn có, bề dày kinh nghiệm thi đấu, khả năng quan sát và khả năng nhận biết nhanh, đánh giá đúng tình huống thi đấu. Tư duy chiến thuật là nền móng của sự điêu luyện kỹ thuật thể thao.

 Trong huấn luyện chiến thuật bao giờ cũng có huấn luyện chiến thuật chung và huấn luyện chiến thuật chuyên môn. Huấn luyện chiến thuật chung có định hướng là nhằm hoàn thiện trình độ điêu luyện chiến thuật ở môn thể thao lựa chọn. Huấn luyện chiến thuật chung luôn phục vụ cho HL chiến thuật chuyên môn. Huấn luyện chiến thuật chuyên môn là việc chuẩn bị trực tiếp bằng những BT của môn thể thao lựa chọn nhằm hoàn thiện trình độ chiến thuật ở môn thể thao lựa chọn.

9.4. NHỮNG NGUYÊN TẮC CHUYÊN BIỆT CỦA HUẤN LUYỆN THỂ THAO

 Trong quá trình HLTT, không được xem xét các nguyên tắc huấn luyện một cách tách rời. Các nguyên tắc tạo thành một hệ thống và giữa chúng tồn tại những mối quan hệ chặt chẽ. Các nguyên tắc được thể hiện trong tất cả các khâu và các nhiệm vụ huấn luyện. Chúng xác định nội dung các phương tiện, PP cũng như tổ chức tập luyện.

9.4.1. Nguyên tắc 1 : Huấn luyện thể thao là quá trình nhằm đạt thành tích tối đa ở môn thể thao chuyên sâu

 Đã là thể thao thì phải hướng tới thành tích kỷ lục. Xu hướng thành tích thể thao dược khuyến khích bằng cả hệ thống tổ chức và điều kiện cho hoạt động thể thao trong đó đặc biệt là hệ thống khen thưởng.

 Quy luật định hướng thành tích TT cao nó chi phối hầu hết các đặc điểm và các quy luật khác của HLTT. Định hướng thành tích dòi hỏi trước nhất sử dụng LVĐ lớn, sử dụng các phương tiện, PP hữu hiệu nhất, sử dụng các hệ thống hồi phục, dinh dưỡng đặc biệt. và định hướng thành tích TT còn chi phối cả quy luật tăng LVĐ, luân phiên LVĐ và nghỉ ngơi.

 Xu hướng đạt thành tích cao nhất còn được biểu hiện cụ thể trong từng giai đoạn huấn luyện và nó thay đổi trong quá trình huấn luyện nhiều năm. Ở giai đoạn đầu nó chỉ mang tính dự báo triển vọng sau này, cùng với sự phát triển trình độ điêu luyện thể thao nó ngày càng thể hiện đầy đủ hơn cho đến tận giới hạn phát triển thành tích cao nhất.

 Muốn đạt được thành tích đến mức tối đa đòi hỏi VĐV phải được chuyên môn hóa và bỏ nhiều thời gian, sức lực và tinh thần để hoàn thiện nó. Đó là yêu cầu khách quan, cần thiết để đạt thành tích TT cao nhất.

 Chuyên môn hóa thể thao được thực hiện theo đặc điểm cá nhân của VĐV (cá biệt hóa). Mỗi VĐV chỉ có thể phát huy được đầy đủ, tối ưu các năng lực thể chất và tinh thần của mình để đạt thành tích thể thao cao nhất không phải ở tất cả các môn thể thao mà chỉ đạt được điều đó ở môn thể thao được chuyên môn hóa sâu mà môi. Như vậy giữa chuyên môn hóa và chuyên môn hóa sâu có quan hệ trực tiếp với nhau.

 Khuynh hướng vươn tới thành tích TT cao nhất đòi hỏi VĐV luôn luôn phát huy tính tích cực, sáng tạo trên con đường chinh phục các đỉnh cao thành tích TT mới.

9.4.2. Nguyên tắc 2 : Huấn luyện thể thao là sự thống nhất giữa huấn luyện chung và huấn luyện chuyên môn

 Muốn nâng cao thành tích thể thao đòi hỏi phải tăng các khả năng chức phận của cơ thể, phát triển toàn diện các năng lực thể chất và tinh thần của VĐV.

 Tại sao phải thống nhất giữa HL chung và HL chuyên môn?

 Cơ thể là một khối thống nhất. Vì vậy, sự phát triển tối đa của một tố chất nào đó đặc trưng cho môn thể thao lựa chọn chỉ có thể đạt được khi đồng thời nâng cao các khả năng chức phận của cơ thể. Mặt khác, do sự tác động qua lại của những KNKX vận động khác nhau nghĩa là vốn KNKX vận động càng phong phú trong quá trình HL chung sẽ càng tạo tiền đề tiếp thu nhanh, và hoàn thiện những KNKX vận động ở môn thể thao chuyên sâu.

 Xuất phát từ mục đích phát triển con người toàn diện của nền giáo dục chung của chúng ta.

 Bởi vậy cần phải kết hợp hài hòa giữa HL chung và HL chuyên môn trong quá trình HLTT. Quá trình HL chung phải xuất phát từ đặc điểm của môn TT chuyên môn hóa và HL chuyên môn phải dựa trên các tiền đề do HL chung mang lại.

 Tỷ lệ HL chung và HL chuyên môn trong quá trình HL nhiều năm : theo xu hướng HL hiện đại thì tỷ lệ HL chung giảm dần theo thời gian và giảm tới mức tỷ lệ HL chung trở thành phương tiện nghỉ ngơi tích cực, tương ứng với nó thì tỷ lệ HL chuyên môn tăng lên. Sự thay đổi này thể hiện trong chu kỳ HL phụ thuộc vào từng thời kỳ : thời kỳ chuẩn bị HL chung có thể chiếm 30 – 60% nhưng đến thời kỳ đầu nó không vượt quá 10 – 15%

9.4.3. Nguyên tắc 3 : Tính liên tục của quá trình huấn luyện

 Trong HLTT tính liên tục thể hiện ở 3 điểm :

 Một là, tập luyện thể thao phải là quá trình tập luyện nhiều năm và quanh năm. Cơ sở buổi tập sau, chu kỳ sau được tiến hành chồng lên dấu vết đồng thời củng cố và phát triển chúng.

 Ba là, quãng nghỉ giữa các buổi tập phải được ấn định trong giới hạn đảm bảo hồi phục và hồi phục vượt mức. Nhung trong chu kỳ ngắn có thể tiến hành buổi tập trên nền chưa hồi phục riêng biệt để tạo ra mật độ cao buổi tập. Do vậy ngày nay người ta có thể áp dụng 2 – 3 buổi trên một ngày nhưng với điều kiện phải có những buổi tập dỡ tải (nhả LVĐ). Trong những buổi tập có xu hướng LVĐ khác nhau để tạo nên hiệu quả tập luyện, tiết kiệm thời gian do tận dụng quy luật hồi phục không đồng thời.

 Trong thực tế, những nội dung trên được thể hiện trong hệ thống các buổi tập thường xuyên và cần tính tới các yếu tố có liên quan : trình độ đào tạo ban đầu của VĐV, nhịp độ phát triển trình độ tập luyện, đặc điểm môn thể thao, quỹ thời gian cho tập luyện. Điều quan trọng là phải xây dựng quá trình tập luyện sao cho hiệu quả đạt mức cao nhất loại trừ sự gián đoạn trong tập luyện và hạn chế đến mức thấp nhất sự giảm sút trình độ tập luyện có liên quan đến LVĐ.

9.4.4. Nguyên tắc 4 : Huấn luyện thể thao là một quá trình kết hợp giữa tăng từ từ và tăng tối đa LVĐ

 Tăng từ từ hướng tới tăng tối đa LVĐ (Các nguyên tắc trong GDTC chương V)

 Trong quá trình HLTT để đạt được thành tích TT cao cần phải sử dụng LVĐ tối đa (LVĐ tối đa là LVĐ đạt đến giới hạn tích cực chức phận của cơ thể nhưng không vượt quá giới hạn khả năng thích nghi của cơ thể. Độ lớn của LVĐ bao gồm cả khối lượng lẫn cường độ). Muốn vậy phải kết hợp tăng từ từ với tăng đột biến LVĐ (tức là tăng LVĐ lớn và tăng nhảy vọt)

 Trong quá trình HLTT để đảm bảo xu hướng tăng từ từ LVĐ người ta áp dụng một số các biện pháp tiến hành chuyên sâu hẹp tương đối muộn (chuyên sâu từng cự ly) hoặc là thay đổi nhịp nhàng giữa huấn luyện chung và chuyên môn theo xu hướng tăng dần tỉ lệ chuyên môn. Tăng dần tổng khối lượng tập luyện mỗi năm. Tăng số buổi tập từ 2 – 3 buổi đến 15 – 20 buổi trong tuần, một ngày tăng từ 1 – 3 – 4 buổi, tăng số buổi tập có tác động chọn lọc (phát triển một tố chất nào đó), mở rộng các nhân tố bổ sung.

 Để nâng cao độ lớn “đột biến” của LVĐ trong quá trình tập luyện chủ yếu phụ tuộc vào khả năng thích nghi của VĐV. Có nhiều VĐV dễ dàng thích nghi với LVĐ  ngày càng cao và thành tích thể thao tăng, nhưng ở một số VĐV khác lại không thể. Vì phản ứng thích nghi LVĐ mang tính cá biệt nên trong quá trình tăng LVĐ là phải thường xuyên tiến hành kiểm tra thông qua các test kiểm tra về nhịp độ tăng LVĐ và tăng thành tích thể thao.

 + Trong HLTT, người ta kết hợp 2 cách tăng LVĐ : tăng từ từ và tăng nhảy vọt. Tăng nhảy vọt là tăng LVĐ đến mức tối đa trong từng thời kỳ tập luyện nhưng phải phù hợp với giai đoạn tập luyện tương ứng. Tăng nhảy vọt (đột biến) LVĐ là nhân tố kích thích mạnh, tạo ngưỡng tối đa mới. Nhưng tăng nhảy vọt phải dựa trên cơ sở tăng dần các yêu cầu tập luyện, nếu không sẽ vượt quá khả năng thích nghi của cơ thể và ảnh hưởng tới thành tích thể thao. Mặt khác nếu nâng dần LVĐ không kết quả với tăng đáng kể LVĐ sẽ làm chậm sự phát triển và thành tích TT sẽ không đạt được tối đa.

 Trong thực tiễn, việc tăng LVĐ ngày càng được sử dụng rộng rãi không chỉ trong từng buổi tập, mà còn trong cả tuần, tháng, năm và cả cuộc đời của VĐV. Việc tăng LVĐ không phải là ở tất cả các giai đoạn mà phải căn cứ vào đặc điểm đối tượng, trình độ tập luyện, lứa tuổi … Song, tăng LVĐ là rất cần thiết trong HLTT nhưng phải đảm bảo sự tăng thành tích thể thao.

9.4.5. Nguyên tắc 5 : Huấn luyện thể thao là 1 quá trình diễn biến LVĐ theo hình sóng

 Muốn tăng LVĐ từ từ và tăng tối đa tất nhiên phải diễn biến theo hình sóng. Trong thể thao hiện đại, quá trình tập luyện diễn ra quanh năm thì LVĐ diễn biến theo hình sóng đó là một đặc điểm tiêu biểu và ngày càng được chú ý đặc biệt. diễn biến của LVĐ theo hình sóng áp dụng cho mọi cấu trúc của quá trình huấn luyện (buổi tập là dơn vị cấu trú nhỏ nhất, rồi đến chu kỳ ngắn, chu kỳ trung bình và chu kỳ lớn). Dao động theo hình sóng của LVĐ xuất hiện cả trong những giai đoạn, thời kỳ tương đối nhỏ. Có thể chia các “sóng” thành một số loại sau :

 - Sóng nhỏ tiêu biểu cho diễn biến LVĐ ở chu kỳ ngắn (1 vài buổi đến 1 tuần).

 - Sóng trung bình biểu hiện diễn biến của LVĐ ở một số chu kỳ nhỏ (3 – 6 chu kỳ nhỏ) tương ứng với chu kỳ tháng.

 - Sóng lớn (nửa năm đến một năm) xuất hiện ở một số chu kỳ trung bình.

 Trong đó sóng LVĐ biểu hiện rõ nhất trong các cấu trúc tương đối lớn. Trong chu kì ngắn, chu kì trung bình cũng có thể quan sát thấy các dạng diễn biến khác nhau của LVĐ. Song, quan sát diễn biến của LVĐ trong tổ hợp chu ngắn hoặc 2 – 3 chu kì trung bình ta có thể dễ dàng nhận ra dao động sóng LVĐ.

 Sự diễn biến của LVĐ theo hình sóng trước hết là do chu kỳ tập luyện và tính không đồng thời của quá trình hồi phục thích nghi trong quá trình tập luyện. Sau đó là do dao động c1o tính chu kỳ của năng lực hoạt động cơ thể chịu tác động của nhịp sinh học tự nhiên và các yếu tố môi trường. Cuối cùng là do tác động tương hỗ của khối lượng và cường độ vận động.

 Chúng ta biết rằng diễn biến của LVĐ theo hình sóng không phải là hình thức duy nhất mà còn được thể hiện thông qua diễn biến LVĐ theo bậc thang và theo đường thẳng … đặc biệt là chu kỳ ngắn. Bởi vì ở chu kỳ ngắn thì mức độ tác động tuyệt đối của lVĐ thấp nên diễn biến của LVĐ càng đa dạng.

 Thực tế, diễn biến của LVĐ trong tập luyện được hình thành dưới ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau, nhiều trường hợp tùy thuộc vaò những điều kiện cụ thể có thể có các phương án khác nhau về diễn biến của LVĐ. Tuy nhiên trong quá trình tập luyện nhiều năm diễn biến chung của LVĐ vẫn theo hình sóng vì nó phù hợp với tính liên tục của quá trình tập luyện cũng như xu hướng đạt thành tích thể thao tối đa và các quy luật khác của quá trình tập luyện thể thao.

9.4.6. Nguyên tắc 6 : Quá trình tập luyện thể thao là quá trình có tính chu kỳ

 Chu kỳ tập luyện là sự lặp lại tương đối trọn vẹn các thành tố và các giai đoạn của quá trình tập luyện (buổi tập, chu kỳ, thời kỳ) theo 1 vòng tròn khép kín.

  Tùy thuộc vào quy mô tời gian người ta chia thành 3 loại chu kỳ.

 + Chu kỳ ngắn (chu kỳ nhỏ) : thường là chu kỳ tuần hoặc từ 2 – 3 buổi.

 + Chu kỳ trung bình : chu kỳ tháng hoặc vài tháng

 + Chu kỳ lớn : chu kỳ năm hoặc dài hơn.

 Nguyên tắc chu kỳ đòi hỏi :

 - Khi xây dựng kế hoạch tập luyện, cần xuất phát từ sự lặp lại có hệ thống các thành tố cơ bản về nội dung tập luyện. Đồng thời thay đổi nhiệm vụ tập luyện sao cho tương ứng với sự luân phiên hợp lý giữa các pha, giai đoạn, thời kỳ của quá trình tập luyện.

 - Vận dụng hợp lý các phương tiện. PP tập luyện phải phù hợp trong cấu trúc các chu kỳ tập luyện.

 - Điều chỉnh LVĐ phải theo đúng các quy luật thay đổi các pha, các giai đoạn và thời kỳ tập luyện.

 - Khi xem xét một chu kỳ tập luyện phải đặt nó trong mối quan hệ tương hỗ với các hình thức cấu trúc chu kỳ tập luyện nhỏ hơn hoặc lớn hơn. Ví dụ : xác định vị trí của chu kỳ ngắn, phải xem xét nó ở trong cấu trúc chu kỳ trung bình, một mặt phải chú ý tới đặc điểm chu kỳ ngắn tạo nên, mặt khác phải xem xét vị trí của nó trong cấu trúc chu kỳ lớn.

9.5. TỔ CHỨC HUẤN LUYỆN THỂ THAO

 Cấu trúc của HLTT là một trật tự liên kết tương đối ổn định của những thành phần, những nội dung, những khâu trong HLTT. Đó là sự tương quan lẫn nhau theo quy luật và tuần tự chung giữa chúng.

 Cấu trúc của HLTT là một trật tự liên kết tương đối ổn định của những thành phần, những nội dung, những khâu trong HLTT. Đó là sự tương quan lẫn nhau theo quy luật và tuần tự chung giữa chúng.

 Xác định cấu trúc HLTT gồm những điểm sau :

 * Trình tự liên kết các nội dung huấn luyện. Ví dụ : kết hợp giữa HL thể lực chung với HL thể lực chuyên môn, kết hợp giữa HL thể lực với HL kỹ thuật.

 * Tương quan giữa các thông số của LVĐ (đặc tính khối lượng và cường độ)

  * Tuần tự giữa các khâu trong quá trình HL. Ví dụ : Tuần tự các buổi tập, các giai đoạn, các thời kỳ, các chu kỳ)

 Suy cho cùng cấu trúc của HLTT được quy định bởi những quy luật khách quan mà ta đã nghiên cứu những quy luật thống nhất giữa huấn luyện chung và HL chuyên môn, quy luật tính liên tục, tính chu kỳ … hơn nữa, mỗi hình thức cấu trúc cụ thể còn chịu ảnh hưởng của tổ hợp các điều kiện cơ bản của hoạt động thể thao như chế độ sống.

 Căn cứ vào thời gian mà người ta chia thành các loại cấu trúc sau :

 - Cấu trúc nhỏ : cấu trúc từng buổi tập riêng lẻ và cấu trúc chu kỳ ngắn (chu kỳ tuần)

 - Cấu trúc trung bình : bao gồm một s61 chu kỳ ngắn (chu kỳ tháng).

  - Cấu trúc lớn : cấu trúc của những chu kỳ huấn luyện lớn : nửa năm, 1 năm và nhiều năm.

9.5.1. Cấu trúc buổi tập thể thao

 Đặc điểm cấu trúc buổi tập thể thao :

 Buổi tập thể thao là khâu cơ sở mang tính toàn vẹn liên kết các yếu tố của tập luyện thể thao theo một trật tự nhất định.

 Buổi tập thể thao có nhiều điểm chung với các buổi tập trong GDTC, ch1ng cũng gồm 3 phần : chuẩn bị (trong thể thao gọi là “khởi động”), cơ bản và phần kết thúc. Sở dĩ chúng có điểm khác biệt dó là do nội dung HL có những nét đặc thù thể hiện ở xu hướng chuyên biệt cao và LVĐ lớn.

 Cấu trúc buổi tập thể thao có những đặc điểm sau :

 * Cấu trúc buổi tập thể thao phụ thuộc vào buổi tập trước và sau đó. Do xu hướng tăng tổng khối lượng tập luyện mà ngày nay số buổi tập trong ngày đạt tới trị số cực đại. Việc tổ chức tập luyện 2 – 3 buổi tập trong ngày có thể coi như LVĐ lớn có quãng nghỉ vài giờ. Như vậy, phần khởi động có quan hệ với phần cơ bản của buổi tập thứ 2 và chịu sự chi phối hậu tác dụng của buổi tập thứ nhất, các đặc điểm của buổi tập thử phụ thuộc vào tổng tác dụng của 2 buổi tập đầu.

 * Buổi tập thể thao có tính linh hoạt cao, thời gian dành cho buổi tập cũng dao động rất lớn : khác với giờ học TDTT trong trường phổ thông bị quy định bởi thời khóa biểu học tập ổn định, nhưng thời gian buổi tập thể thao có thể thay đổi từ vài chục phút.

9.5.2. Cấu trúc và phân loại chu kỳ nhỏ

 Chu kỳ nhỏ là tổ hợp một số buổi tập (cùng với những ngày hồi phục) tạo thành một đoạn nhỏ lặp lại tương đối trọn vẹn của quá trình huấn luyện.

 Thông thường thời hạn của một chu kỳ nhỏ là 1 tuần.

 Những nhân tố và điều kiện ảnh hưởng tới cấu trúc chu kỳ nhỏ :

 1. Những nhân tố tạo nên “sóng” nhỏ trong diễn biến của LVĐ là sự tác động qua lại của các quá trình mệt mỏi và hồi phục, và trật tự luân phiên giữa LVĐ (lớn, nhỏ, khác nhau) với nghỉ ngơi.

 2. Luân phiên giữa các buổi tập có xu hướng khác nhau (SM, V, SB, kỹ thuật, chiến thuật v.v..) Cơ sở của quan điểm này là quy luật hồi phục không đồng thời các chức năng sinh lý. Việc sắp xếp các buổi tập có xu hướng khác nhau tạo ra khả năng tiết kiệm thời gian và giải quyết được nhiều vụ trong một chu kỳ nhỏ.

 Trong thực tiễn có nhiều phương án sắp xếp các buổi tập trong tuần có ví dụ như sau :

 + Phương án cho các môn thể thao có SM tốc độ, trong giai đoạn chuẩn bị chung :

  1. Tập kỹ thuật và tập tốc độ
  2. Tập phụ có tính chất hồi phục
  3. Tập kỹ thuật và giáo dục sức mạnh – tốc độ
  4. Giáo dục SB chuyên môn
  5. Tập SB chung

+ Phương án cho các môn thể thao có tính chu kỳ đòi hỏi biểu hiện tối đa SB :

  1. Hoàn thiện kỹ thuật gắn liền với giáo dục tốc độ.
  2. Giáo dục SB chuyên môn, chủ yếu tác động tới thành phần chi tiết của nó.
  3. Phát triển SB chuyên môn với xu thế tác động tới những yếu tố tiền dề của nó.
  4. tập phụ có tính chất hồi phục.
  5. Giáo dục SB chuyên môn thích hợp với các điều kiện thi đấu.
  6. Giáo dục SB chung.

Sự dao động theo nhịp sinh vật học của trạng thái chức năng cơ thể.

Chế độ sống của VĐV và diễn biến năng lực vận động trong tuần do chế độ đó tạo ra. Vì vậy không phải ngẫu nhiên mà những chu kỳ huấn luyện nhỏ thường được xây dựng trong khuôn khổ 1 tuần (không phải chu kỳ nhỏ với thời gian 1 tuần cũng đáp ứng được yêu cầu của cấu trúc tối ưu quá trình huấn luyện, nhưng nó lại thuận lợi cho việc phối hợp tập luyện với nhịp điệu lao động và học tập trong 1 tuần)

Vị trí của chu kỳ nhỏ trong hệ thống cấu trúc chung của quá trình huấn luyện hay nói khác đi, sự thay đổi thành phần này thành phần khác của chu kỳ nhỏ phụ thuộc vào các giai đoạn, các thời kỳ của quá trình huấn luyện.

Trong thực tế, về nguyên tắc không thể có một loại chu kỳ nhỏ phù hợp với tất cả các trường hợp của huấn luyện.

Căn cứ vào đặc điểm, nội dung và vị trí trong hệ thống tổ chức tập luyện mà người ta chia chu kỳ nhỏ thành một số loại sau :

- Loại 1 : Chu kỳ nhỏ huấn luyện đơn thuần

Loại chu kỳ này lại tách thành chu kỳ nhỏ chuẩn bị chung và chu kỳ nhỏ chuẩn bị chuyên môn. Tùy theo LVĐ được áp dụng mà chu kỳ nhỏ huấn luyện đơn thuần lại có thể được chia thành chu kỳ nhỏ thông thường và chu kỳ nhỏ trọng điểm.

- LVĐ trong chu kỳ nhỏ thông thường được tăng lên tương đối đồng đều, khối lượng tương đối lớn và cường độ trung bình.

- Đối với chu kỳ nhỏ trọng điểm, nét đặt trưng là cường độ cao, khối lượng tương đối lớn.

Loại 2 : Chu kỳ nhỏ dẫn dắt

Chu kỳ nhỏ dẫn dắt được tổ chức phù hợp với các kế hoạch chuẩn bị trực tiếp cho kế hoạch thi đấu. Các chu kỳ này hầu như là mô hình hóa về chế độ và chương trình của cuộc thi đấu sắp tới (phân bố vận động và nghỉ ngơi tương ứng với trật tự luân phiên những ngày thi đấu và những ngày nghỉ xen giữa v.v.) Tuy nhiên nội dung cụ thể và hình thức của loại chu kỳ này có thể khác biệt đáng kể tùy thuộc vào trạng thái của VĐV, ý nghĩa cuộc thi và phương thức chuẩn bị cho cuộc thi.

Loại 3 : Chu kỳ nhỏ thi đấu

Chu kỳ này được xây dựng trên cơ sở chế độ cuộc thi, luật thi và điều lệ cụ thể cuộc thi. Cấu trúc của chu kỳ loại này được xây dựng sao cho các buổi tập khởi động đúng và các nhân tố khác đảm bảo được trạng thái tối ưu của VĐV trước lúc bắt đầu thi đấu, thúc dẩy sự hồi phục và hồi phục vượt mức khả năng của vận động trước cuộc thi đấu tiếp theo và đảm bảo phát huy tối đa năng lực vận động trong các cuộc thi đấu chung kết.

Loại 4 : Chu kỳ nhỏ hồi phục

Chu kỳ nhỏ hồi phục thường được tiến hành tiếp theo các cuộc thi đấu căng thẳng hoặc sau các buổi tập với LVĐ lớn. Đặc điểm của chu kỳ loại này là giảm LVĐ, tăng số ngày nghỉ ngơi tích cực, thay đổi loại hình BT và điều kiện bên ngoài nhằm tối ưu hóa quá trình hồi phục. Nét đặc trưng là LVĐ tương đối nhỏ mà người ta thường gọi là lVĐ dỡ tải.

9.5.3. Chu kỳ huấn luyện trung bình

Các loại chu kỳ nhỏ được coi như những “khối xây dựng” từ đó mà xếp đặt thành các chu kỳ huấn luyện trung bình.

Thông thường mỗi chu kỳ trung bình gồm 3 – 6 chu kỳ nhỏ, tạo thành một giai đoạn huấn luyện tương đối trọn vẹn.

Những phân tố và tình huống có vai trò quyết định đối với sự hình thành cấu trúc chu kỳ trung bình :

* chu kỳ trung bình xuất hiện trước tiên do nguyên nhân : Cần phải đảm bảo hiệu quả tập luyện tổng hợp đủ lớn, đồng thời phải ngăn ngừa được rối loạn các quá trình thích ứng xảy ra trong cơ thể VĐV dưới ảnh hưởng của LVĐ tổng hợp.

* Chu kỳ trung bình có những đặc điểm về loại hình khác nhau tùy thuộc vào vị trí của nó trong hệ thống tổ chức tập luyện chung.

Người ta phân biệt một số loại chu kỳ trung bình sau :

- Loại 1 : Chu kỳ trung bình “mở đầu” có đặc điểm : Cường độ vận động tăng lên đều đặn, khối lượng vận động tương đối lớn, nội dung tập luyện có phương hướng tạo tiền đề một cách rõ nét.

- Loại 2 : Chu kỳ trung bình “cơ sở” là loại hình chu kỳ trung bình chủ yếu của thời kỳ chuẩn bị trong huấn luyện. LVĐ chủ yếu để phát triển khả năng hoạt động của cơ thể đối với môn thể thao chuyên sâu.

Loại chu kỳ trung bình này có một số dạng ví dụ : Nội dung chuẩn bị chiếm ưu thế thì người ta phân chia thành chu kỳ “chuẩn bị chung” và “chuẩn bị chuyên môn”. Còn theo yêu cầu tập luyện người ta chia thành chu kỳ “phát triển” và “ổn định”

- Loại 3 : Chu kỳ trung bình kiểm tra và chuẩn bị

Đây là hình thức chuyển tiếp từ chu kỳ trung bình cơ sở đến các cuộc thi đấu. Ở chu kỳ này hoạt động huấn luyện đơn thuần kết hợp với tham gia các cuộc thi đấu chủ yếu có tính chất kiểm tra tập luyện, phục vụ cho các cuộc thi đấu chủ yếu.

- Loại 4 : Chu kỳ trung bình “gọt dũa” được sắp xếp sau chu kỳ kiểm tra và chuẩn bị, khi có sự cần thiết phải sửa bỏ những sai sót, chu kỳ trung bình loại này mang đặc điểm là nâng cao cường độ của BT chuẩn bị chuyên môn trong trường hợp cần phải kích thích sự phát triển trình độ chuyên môn, còn việc duy trì ổn định hay thậm chí hạ thấp mức chung của LVĐ khi thấy có những triệu chứng mệt mỏi quá mức.

Nhìn chung nội dung của chu kỳ trung bình loại này là sự “gọt dũa” chi tiết những KNKX kỹ – chiến thuật thể thao

- Loại 5 : Chu kỳ trung bình trước thi đấu trực tiếp diễn ra ngay trước các cuộc thi đấu quan trọng. Đặc điểm của chu kỳ loại này là phải mô hình hóa đầy đủ toàn bộ chế độ của các cuộc thi đấu sắp tới, đưa VĐV vào trạng thái tối ưu trước thời điểm thi đấu quyết định.

Nếu cuộc thi đấu trước mắt là cuộc thi đấu quan trọng nhất và có những điều kiện khác thường, thì chuẩn bị chuyên môn cho cuộc thi đấu đó được tiến hành theo loại chu kỳ trước thi đấu.

Nếu cuộc thi đấu cũng không có những điều kiện khác thường thì việc chuẩn bị trực tiếp cho thi đấu được thực hiện trong khuôn khổ chu kỳ trung bình thi đấu.

- Loại 6 : Chu kỳ trung bình thi đấu

Mỗi chu kỳ trung bình loại này tối thiểu gồm 1 chu kỳ dẫn dắt, 1 chu kỳ nhỏ có 1 trong các cuộc thi đấu chủ yếu và 1 chu kỳ nhỏ hồi phục. Tùy thuộc vào đặc điểm của chương trình, hệ thống tổ chức tập luyện chung, cấu trúc chu kỳ trung bình thi đấu có thể biến dạng.

- Loại 7 : Chu kỳ trung bình hồi phục – chuẩn bị và hồi phục duy trì

Chu kỳ trung bình hồi phục – chuẩn bị : xây dựng như chu kỳ chuẩn bị cơ sở hoặc chu kỳ “gọt dũa” nhưng mở đầu có 1 – 2 chu kỳ nhỏ hồi phục.

Chu kỳ trung bình hồi phục – duy trì : có đặc điểm là chế độ tập luyện “mềm mại” hơn thay đổi 1 phần hình thức, nội dung và điều kiện hoạt động, nhằm loại trừ tính đơn điệu trong tập luyện và thúc đẩy nhanh quá trình hồi phục

9.5.4. Các chu kỳ huấn luyện lớn (loại nửa năm và một năm)

9.5.4.1. Những nguyên lý phân chia các thời kỳ huấn luyện thể thao

 Trong 1 chu kỳ lớn người ta chia thành 03 thời kỳ : chuẩn bị (chuẩn bị cơ bản). Thời kỳ thi đấu (thời kỳ có các cuộc thi đấu chủ yếu) và thời kỳ chuyển tiếp. Thoạt nhìn thì sự phân chia các thời kỳ của quá trình huấn luyện chủ yếu là căn cứ vào lịch thi đấu hoặc thời gian. Nhưng điều đó không phải là yếu tố cơ bản mà nguyên nhân của những biến đổi theo thời kỳ của quá trình huấn luyện gắn liền với quy luật của sự phát triển TT SS TT. Tính chất chia thành các pha của sự phát triển TT SS TT là cơ sở tự nhiên của sự phân chia các thời kỳ của quá trình huấn luyện. Sự hình thành, duy trì và mất đi tạm thời một cách có quy luật tùy thuộc vào các pha phát triển TT SS TT. Trong quá trình huấn luyện có 3 thời kỳ nối tiếp nhau tương ứng.

 Thời kỳ I là thời kỳ mà các tiền đề của các TT SS TT được tạo ra và đảm bảo cho việc hình thành tiếp trạng thái đó (thời kỳ chuẩn bị)

 Thời kỳ II là thời kỳ đảm bảo duy trì TT SS TT và hiện thực hóa trạng thái đó bằng các thành tích thể thao (thời kỳ thi đấu)

 Thời kỳ III là thời kỳ cần thiết để ngăn ngừa sự phát triển hiệu quả tích lũy của huấn luyện thành trạng thái tập luyện quá sức, và đảm bảo sự hồi phục cơ thể đồng thời đảm bảo sự kế thừa giữa hai bậc thang của việc hoàn thiện thể thao (thời kỳ chuyển tiếp)

9.5.4.2. Thời kỳ chuẩn bị

 Thời kỳ này được chia thành hai giai đoạn lớn (xuất phát từ các quy luật phát triển của thành tích thể thao) đó là giai đoạn chuẩn bị chung và giai đoạn chuẩn bị chuyên môn. Giai đoạn thứ nhất thường dài hơn :

 * Giai đoạn thứ nhất (giai đoạn chuẩn bị chung) : Hình thành TT SS TT. Nên giai đoạn này chủ yếu nâng cao khả năng chịu đựng LVĐ của VĐV thông qua việc nâng cao khố LVĐ nhằm phát triển thể lực cho VĐV. Song, bên cạnh sự phát triển thể lực việc tiếp tục hoàn thiện kỹ – chiến thuật và tâm lý cho VĐV cũng được quan tâm. Do đó tỷ lệ của các BT phát triển chung sử dụng cao hơn, khối LVĐ thi đấu chuyên môn nhỏ hơn so với các giai đoạn khác của thời kỳ chuẩn bị và thời kỳ thi đấu. Thực tế cho thấy sự trì trệ LVĐ trong tập luyện trước hết do tăng không đủ mức khối LVĐ trong giai đoạn nhứ nhất của thời kỳ chuẩn bị và đã phải trả giá bằng hạn chế sự phát triển thành tích thể thao, thiếu ổn định và không đủ khả năng duy trì cho tới cuộc thi đấu cuối cùng.

 * Giai đoạn thứ hai (giai đoạn chuẩn bị chuyên môn) : Đây là giai đoạn trực tiếp dẫn đến thời kỳ thi đấu. Tập luyện ở giai đoạn này được thực hiện nhằm đảm bảo hình thành trực tiếp TT SS TT. Nên việc huấn luyện chủ yếu là hướng vào xây dựng thành tích thi đấu. Nên cần phải giảm bớt một khối lượng của BT chuẩn bị chung, tăng cường sử dụng các BT chuyên môn và sử dụng BT thi đấu để phát triển thể lực cho VĐV. Thông qua đó tạo nên mối quan hệ tối ưu giữa sự phát triển các tố chất thể lực và các kỹ xảo mang lại sự ổn định cao về kỹ thuật trong thi đấu.

9.5.4.3. Thời kỳ thi đấu

 Duy trì TT SS TT và hiện thực nó bằng những thành tích cao trong suốt thời kỳ có các cuộc thi đấu quan trọng. Nhiệm vụ của thời kỳ này là phát triển tối ưu và giữ vững thành tích tạo cho VĐV năng lực giành được thành tích tốt nhất trong các cuộc thi đấu chính thức. Song phải đảm bảo thời gian cần thiết để hồi phục giữa các cuộc thi đấu. Vì vậy, trong quá trình huấn luyện thể lực trong giai đoạn này cần được điều chỉnh bằng một giai đoạn tập luyện gồm nhiều tuần tùy thuộc vào qui mô cuộc thi và môn thi. PP tập luyện là giảm bớt thành phần của LVĐ chuyên môn và nâng cao khối lượng chung của LVĐ bằng một tỷ lệ lớn các BT phát triển chung như nghỉ ngơi tích cực.

9.5.4.4. Thời kỳ chuyển tiếp

 Đây là giai đoạn không kém phần quan trọng trong quá trình huấn luyện. Giai đoạn này đảm bảo cho các quá độ thuận lợi sang vòng quay của chu kỳ tiếp theo. Thời kỳ này có nhiệm vụ “dỡ tải” là chủ yếu cho thời kỳ thi đấu. Do vậy, BT phát triển chung được sử dụng rộng rãi.

9.6. CẤU TRÚC HUẤN LUYỆN NHIỀU NĂM

 HLTT được xây dựng như một quá trình nhiều năm bao gồm các thời kỳ lứa tuổi của VĐV. Đương nhiên, nội dung và hình thức cấu trúc huấn luyện sẽ thay đổi để phù hợp với đặc điểm lứa tuổi và Logic quá trình hoàn thiện TT.

 Có thể phân chia tương dối quá trình huấn luyện nhiều năm thành bốn giai đoạn lớn :

 1. Giai đoạn huấn luyện sơ bộ

 2. Giai đoạn chuyên môn hóa ban đầu (HL cơ bản)

 3. giai đoạn hoàn thiện sâu

 4. Giai đoạn tuổi thọ TT

 Giới hạn lứa tuổi ở các giai đoạn này không cố định mà có sự khác biệt tùy theo môn thể thao và đặc điểm cá nhân VĐV. Nên những vấn đề trình bà dưới đây chủ yếu mang tính định hướng.

9.6.1. Giai đoạn 1 : Huấn luyện sơ bộ

 Thường được bắt đầu từ tuổi học sinh cấp 1 (trong một số môn TT có thể sớm hơn, ví dụ : thể dục thi đấu, trượt băng nghệ thuật …)

 Tuổi hợp lý để tiến hành chuyên môn hóa thể thao trước nhất phụ thuộc vào đặc điểm của từng môn thể thao.

 HLTT trong giai đoạn này chỉ mang tính ước lệ, buổi tập được xây dựng chủ yếu theo hình thức huấn luyện thể lực chung, với việc sử dụng rộng rãi các phương tiện giáo dục và giáo dưỡng thể chất toàn diện, vừa sức.

 Trẻ em được thử sức mình trong nhiều môn thể thao khác nhau và nhờ sự hướng dẫn của các nhà sư phạm mà chọn cho các em môn tập phù hợp.

 Giai đoạn này thường được kéo dài từ 1 – 2 năm.

 Kết thúc giai đoạn này và chuyển sang giai đoạn tiếp theo khi lựa chọn được một môn thể thao chuyên sâu.

9.6.2. Giai đoạn II : Chuyên môn hóa ban đầu

 Điều cơ bản của giai đoạn này là đặt nền móng cho thành công trong tương lai, nhưng phải đảm bảo phát triển toàn diện cân đối cơ thể, nâng cao khả năng chức phận chung, trang bị cho trẻ em kỹ năng kỹ xảo vận động đa dạng phong phú.

 Giai đoạn chuyên môn hóa ban đầu thực hiện theo xu hướng huấn luyện chung là chủ yếu.

 Kinh nghiệm cho thấy : Con đường hợp lý hơn cả là chuyên môn hóa ban đầu mang tính chất đa môn. Ví dụ : VĐV bơi trẻ tập luyện nhiều kiểu bơi, VĐV điền kinh tập nhiều môn phối hợp. Bằng cách này một mặt phù hợp với xu hướng huấn luyện chung, mặt khác tạo ra điều kiện lựa chọn chính xác lần cuối môn thể thao chuyên sâu. Trong nhiều trường hợp VĐV trẻ tiến tới môn chuyên sâu thông một số môn trung gian (ví dụ : VĐV chạy Maratông tương lai thì qua chuyên môn hóa ban đầu về môn chạy ở cự ly ngắn hơn). Bằng cách này VĐV tích lũy được kinh nghiệm thi đấu, kinh nghiệm tập luyện trước khi chuyên môn hóa chính thức ở môn thể thao nào đó.

 Giải quyết hợp lý vấn đề chuyên môn hóa ban đầu đặc biệt quan trọng, bước đầu được giải quyết một cách riêng biệt khi gặp nguy cơ hình thành “hàng rào tốc độ”. Trong những trường hợp như vậy không nên tập luyện quá nhiều các BT thi đấu hoặc tập quá nhiều các BT làm đối tượng chuyên môn hóa, để giáo dục năng lực tốc độ nên sử dụng nhiều loại hình BT khác nhau, nhất là các BT tác động đến các nhân tố thành phần của tố chất này như SM động lực, sự phối hợp động tác …

 Trong giai đoạn chuyên môn hóa ban đầu tính thể thao cũng tăng lên dần dần. Tỷ trọng huấn luyện chuyên môn trong thời gian đầu tương đối nhỏ, khối lượng các BT có cường độ tăng lên với nhịp độ chậm, mặc dù tổng khối lượng khá lớn. Cần đặc biệt thận trọng khi định LVĐ trong thời kỳ phát triển chiều cao của trẻ em vì khi đó bản thân của trao đổi chất tăng đột ngột đã là một lVĐ sinh lý tương đối lớn.

 Cuối giai đoạn chuyên môn hóa ban đầu việc huấn luyện dần dần được tổ chức phù hợp với những quy luật thành tích cao trong TT (quy luật HLTT nâng cao)

 Giai đoạn nà kéo dài 3 – 4 năm, tùy thuộc vào đặc điểm môn thể thao chuyên sâu và đặc điểm cá nhân mà thời hạn này có thể dao động.

9.6.3. Giai đoạn III : hoàn thiện sâu (phát huy khả năng tối đa)

 Khung tuổi của giai đoạn này trong đa số các trường hợp ở khoảng từ 17 – 20 đến 30 – 40 (không kể có trường hợp có thể chuyên môn hóa thể tao sớm) đây là giai đoạn hưng thịnh nhất cho tập luyện thể thao, cho tiếp cận đỉnh cao của tài nghệ đối với mỗi VĐV.

 Trong giai đoạn này tất cả các quy luật chuyên môn của HLTT đều bộc lộ rõ rệt, quá trình huấn luyện có dầy đủ đường nét của chuyên môn hóa sâu, tỷ lệ huấn luyện thể lực, kỹ thuật, chiến thuật, tâm lý chuyên môn tăng đáng kể và chiếm ưu thế.

 Tổng khối lượng và cường độ đều tăng với nhịp độ cao và đạt tới mức tối đa với mỗi cá nhân (thường vào nửa đầu giai đoạn này)

 Thực tiễn thi đấu được mở rộng và tăng cường ảnh hưởng của chúng tới cấu trúc và nội dung huấn luyện.

 Ở giai đoạn này các VĐV tiếp tục phân hóa : những người có tài năng sẽ được tuyển vào lĩnh vực thể thao thành tích cao, tiếp tục con đường hoàn thiện tài năng. Còn những người không được tuyển vào đội đại biểu thì họ có thể duy trì xu hướng thành tích tối đa trong chừng mực cụ thể cho phép.

 Giai đoạn hoàn thiện sâu được chia làm hai thời kỳ :

 + Thời kỳ “tuổi thành tích cao” trong đa số các môn thể thao có tuổi từ 18 – 22, 22 – 26 … ở một số môn khác có thể cao hơn.

 + Thời kỳ duy trì thành tích.

9.6.4. Giai đoạn 4 : Tuổi thọ thể thao

  Dù huấn luyện được tiến hành hợp lý, thì sớm muộn cũng xảy ra sự giảm bớt thành tích, khả năng chức phận, khả năng thích nghi của cơ thể, giới hạn giảm sút do mang tính cá nhân và phụ thuộc rất nhiều  yếu tố. Thông thường ở tuổi 35 – 40 cần thay đổi quá trình huấn luyện theo hướng củng cố và duy trì khả năng hoạt động chng. Trong chừng mực nhất định có thể hoàn thiện những gì đã tiếp thu được cho kỹ – chiến thuật.

 

 

 

 

 

 

 

1

 

nguon VI OLET