Lấy CD ra và khởi động máy tính, nhấn F8 trước khi màn hình đăng nhập của Windows xuất hiện. Tại menu khởi động, hãy chọn Last Known Good Configuration để khôi phục Registry của mình về trạng thái tốt hơn trước đó.
Nếu hệ thống vẫn không làm việc, hãy khởi động lại và nhấn F8 lần nữa, tuy nhiên lúc này bạn hãy khởi động ở chế độ Safe Mode. Khi vào được chế độ này, hãy chọn Start, All Programs, Accessories, System Tools, System Restore. Thực hiện theo những hướng dẫn của wizard và chọn ra một backup thích hợp.
Điều gì sẽ xảy ra nếu bạn không thể vào được Boot Menu? Hoặc có thể nhưng không sửa được vấn đề của hệ thống? Khi đó bạn sẽ phải sử dụng các công cụ chuẩn đoán và sửa chữa mà Microsoft cung cấp trên Windows XP CD và Vista DVD.
Trong trường hợp không có các đĩa trên thì bạn có thể download các phiên bản XP Recovery Console CD và Vista Recovery Disc. Cả hai đều là file .iso (giống như Puppy Linux) và bạn có thể burn vào CD. Khi khởi động, bạn sẽ thấy chúng hoàn toàn giống như các đĩa cài đặt của XP và Vista, ngoại trừ khi muốn cài đặt Windows, khi đó bạn sẽ nhận một thông báo lỗi. Chỉ có các công cụ sửa chữa của chúng làm việc.
Nếu máy tính của bạn không khởi động đối với hệ điều hành Windows XP, hãy khởi động từ một XP CD thực hoặc Recovery Console CD. Tại màn hình chính, nhấn phím “r” (Repair) để khởi chạy Recovery Console. Hoàn toàn giống như DOS, môi trường nhắc lệnh sẽ cung cấp một số công cụ sửa chữa hữu dụng:
bootcfg: Xem và sửa file boot.ini
diskpart: Quản lý partition (Lưu ý cũng có thể phá hủy chúng)
Fixboot: Ghi lại boot sector của partition
Fixmbr: Sửa master boot record
Nếu máy tính của bạn thất bại trong quá trình chạy Vista, hãy khởi động từ một Vista DVD thực hoặc Vista Recovery Disc. Kích nút Repair your computer và sau đó Startup Repair. Mọi thứ từ đây sẽ được thực hiện khá đơn giản.
Nếu những cách thức trên đều không giúp gì được bạn, khi đó bạn phải thực hiện biện pháp cuối cùng là cài đặt lại Windows.
|