SƯU TẦM

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Lịch sử lập hiến Việt Nam

I. Tư tưởng lập hiến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945

Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước ta là một nước thuộc địa nửa phong kiến với chính thể quân chủ chuyên chế nên không có hiến pháp. Vào những năm đầu thế kỉ XX, do ảnh hưởng của tư tưởng cách mạng dân chủ tư sản Pháp năm 1789, ảnh hưởng của cách mạng Trung Hoa năm 1911 và chính sách duy tân mà Minh Trị Thiên Hoàng đã áp dụng tại Nhật Bản, trong giới tri thức Việt Nam đã xuất hiện tư tưởng lập hiến. Có hai khuynh hướng chính trị chủ yếu trong thời gian này. Khuynh hướng thứ nhất, xây dựng nhà nước quân chủ lập hiến trong sự thừa nhận quyền bảo hộ của chính phủ Pháp. Khuynh hướng thứ hai, chủ trương giành độc lập, tự do cho dân tộc, sau đó xây dựng hiến pháp của nhà nước độc lập vì không có độc lập, tự do thì không thể có hiến pháp thực sự.

Đầu năm 1919, nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc đã gửi tám điểm yêu sách của nhân dân An Nam cho Hội nghị Versailles của các nước đồng minh trong đó đã thể hiện rõ tư tưởng lập hiến của Người. Năm 1922, Nguyễn Ái Quốc đã dịch và diễn thành lời ca bản "Yêu sách của nhân dân An Nam" để tuyên truyền trong đồng bào Việt kiều sống trên đất Pháp. Trong tám điều yêu sách, đáng lưu ý là điều thứ 7 - đó là yêu cầu lập hiến, lập pháp cho nhân dân Việt Nam:

                  "Bảy xin hiến pháp ban hành

       Trăm điều phải có Thần linh pháp quyền"

Năm 1926, Nguyễn Ái Quốc lại cho công bố một bản yêu sách nữa mang đầu đề: "Lời hô hoán cùng Vạn quốc hội". Bản yêu sách đòi trả quyền tự quyết cho nhân dân Việt Nam và đòi quyền độc lập hoàn toàn và tức khắc ngay cho dân tộc Việt Nam. Bản yêu sách tuyên bố: "Nếu được độc lập ngay thì Việt Nam sẽ tình nguyện trả (dần từng năm) một phần nợ mà nước Pháp đã vay Mỹ và Anh trong hồi Âu chiến, Việt Nam sẽ ký Hoà ước liên minh với nước Pháp và sẽ xếp đặt một nền hiến pháp theo lí tưởng dân quyền".([1])

II. Hiến pháp năm 1946

1. Hoàn cảnh ra đời

Sau khi đọc bản "Tuyên ngôn độc lập" lịch sử ngày 02/9/1945 khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ ngày 03/9/1945, Hồ Chủ tịch đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ; một trong những nhiệm vụ cấp bách đó là xây dựng hiến pháp. Về vấn đề hiến pháp, Người viết: "Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế nên nước ta không có hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do, dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ".([2])

Ngày 20/9/1945, Chính phủ lâm thời ra Sắc lệnh thành lập Ban dự thảo Hiến pháp gồm 7 người, do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Tháng 11/1945, Ban dự thảo đã hoàn thành công việc và Bản dự thảo được công bố cho toàn dân thảo luận. Hàng triệu người Việt Nam hăng hái tham gia đóng góp ý kiến cho Bản dự thảo Hiến pháp chứa đựng mơ ước bao đời của họ về độc lập và tự do.

Ngày 02/3/1946, trên cơ sở Ban dự thảo Hiến pháp của Chính phủ, Quốc hội Khoá I, kỳ họp thứ nhất đã thành lập Ban dự thảo Hiến pháp gồm 11 người đại biểu của nhiều tổ chức, đảng phái khác nhau do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Ngày 28/10/1946, tại Nhà hát lớn Hà Nội, kỳ họp thứ hai của Quốc hội Khoá I đã khai mạc. Ngày 09/11/1946, sau hơn 10 ngày làm việc khẩn trương, Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta với 240 phiếu thuận, 2 phiếu trống.

Ngày 19/12/1946, 10 ngày sau khi Quốc hội thông qua Hiến pháp, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Do hoàn cảnh chiến tranh mà Hiến pháp năm 1946 không được chính thức công bố, việc tổ chức tổng tuyển cử bầu Nghị viện nhân dân không có điều kiện thực hiện. Tuy nhiên, Chính phủ dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Ban Thường vụ Quốc hội luôn dựa vào tinh thần và nội dung của Hiến pháp năm 1946 để điều hành mọi hoạt động của Nhà nước.

2. Nội dung cơ bản

Hiến pháp năm 1946 bao gồm Lời nói đầu, 7 chương và 70 Điều.

Lời nói đầu xác định nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ. Lời nói đầu còn xác định ba nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp. Đó là những nguyên tắc sau đây:

- Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo;

- Đảm bảo các quyền tự do dân chủ;

- Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.

Toàn bộ 7 chương của Hiến pháp đều được xây dựng dựa trên ba nguyên tắc cơ bản trên. Chính ba nguyên tắc này đã thể hiện ba đặc điểm cơ bản của Hiến pháp năm 1946.

Xây dựng trên nguyên tắc đoàn kết toàn dân, Điều 1 Hiến pháp năm 1946 viết: "Nước Việt Nam là một nước Dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo". Đây là một bước tiến lớn trong lịch sử phát triển của Nhà nước Việt Nam. Lần đầu tiên ở nước ta cũng như ở Đông Nam Á, một Nhà nước dân chủ nhân dân được thành lập. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, hình thức chính thể là hình thức cộng hoà. Đó là bước ngoặt lớn trong sự phát triển của tư tưởng dân chủ. Quy định trên đây cũng đề cao tính dân tộc của Nhà nước.

Tuân thủ nguyên tắc "đảm bảo các quyền tự do dân chủ", Hiến pháp 1946 rất chú trọng đến chế định công dân. Điều đó thể hiện ở chỗ Hiến pháp có 7 chương thì Chương II dành cho chế định công dân. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, nhân dân Việt Nam được đảm bảo các quyền tự do, dân chủ. Điều 10 Hiến pháp quy định: "Công dân Việt Nam có quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài". Phải nói rằng Hiến pháp năm 1946 là một bản Hiến pháp dân chủ rộng rãi. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam quyền bình đẳng trước pháp luật của mọi công dân được pháp luật ghi nhận (Điều 6 và Điều 7 Hiến pháp năm 1946). Và cũng lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, phụ nữ được ngang quyền với nam giới trong mọi phương diện. Với bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta, công dân Việt Nam được hưởng quyền bầu cử, nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu mình bầu ra khi họ không tỏ ra xứng đáng với danh hiệu đó.

Dựa trên nguyên tắc thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân, hình thức nhà nước, Hiến pháp năm 1946 có nhiều nét độc đáo. Chủ tịch nước vừa là người đứng đầu Nhà nước, vừa là người đứng đầu Chính phủ, đồng thời có quyền phủ quyết. Điều 31 Hiến pháp năm 1946 quy định: "Những luật đã được Nghị viện biểu quyết, Chủ tịch nước Việt Nam phải ban bố chậm nhất là 10 hôm sau khi nhận được thông tri. Nhưng trong hạn ấy, Chủ tịch có quyền yêu cầu Nghị viện thảo luận lại. Những luật đem ra thảo luận lại nếu vẫn được Nghị viện ưng chuẩn thì bắt buộc Chủ tịch phải ban bố". Còn ở Điều 54 Hiến pháp năm 1946 quy định: "Trong hạn 24 giờ sau khi Nghị viện biểu quyết không tín nhiệm Nội các thì Chủ tịch nước Việt Nam có quyền đưa vấn đề tín nhiệm ra Nghị viện thảo luận lại". Như vậy, hình thức chính thể của Nhà nước ta theo Hiến pháp năm 1946 phần nào giống hình thức Cộng hoà tổng thống. Nhưng Chủ tịch nước không phải do cử tri trực tiếp bầu ra mà do Nghị viện nhân dân bầu ra. Mặt khác, Chủ tịch nước chọn Thủ tướng trong Nghị viện và đưa ra Nghị viện biểu quyết. Thủ tướng chọn Bộ trưởng trong Nghị viện và đưa ra Nghị viện biểu quyết. Chính phủ chịu sự kiểm soát của Nghị viện. Bộ trưởng nào không được Nghị viện tín nhiệm thì phải từ chức. Những quy định trên cho ta thấy hình thức chính thể của Nhà nước ta theo Hiến pháp năm 1946 là hình thức kết hợp giữa Cộng hoà tổng thống và Cộng hoà nghị viện. Những nét độc đáo của nó còn thể hiện ở chỗ nó không hề giống hoàn toàn hình thức chính thể của những nước cùng có hình thức pha trộn như Pháp, Phần Lan, Bồ Đào Nha...

Qua những nét phân tích trên chúng ta thấy rằng Hiến pháp đầu tiên của nước ta - Hiến pháp năm 1946 là một bản Hiến pháp dân chủ, tiến bộ không kém bất kì một bản Hiến pháp nào trên thế giới.

Về kỹ thuật lập pháp, Hiến pháp năm 1946 là một bản Hiến pháp cô đọng, khúc chiết, mạch lạc và dễ hiểu với tất cả mọingười. Nó là một bản Hiến pháp mẫu mực trên nhiều phương diện.

III. Hiến pháp năm 1959

1. Hoàn cảnh ra đời

Tính đến năm 1959, Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã ra đời và phát triển được 14 năm. Đó là một khoảng thời gian có nhiều sự kiện chính trị quan trọng, làm thay đổi tình hình chính trị, xã hội và kinh tế của đất nước.

Ngay sau khi Quốc hội thông qua Hiến pháp năm 1946, thực dân Pháp lại gây ra chiến tranh để xâm lược nước ta một lần nữa. Nhân dân ta lại bước vào cuộc kháng chiến trường kì và gian khổ. Với chiến thắng Điện Biên Phủ và Hội nghị Giơnevơ thắng lợi, miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng nhưng đất nước còn tạm thời bị chia làm hai miền. Nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới này là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà. Trong 3 năm (1955 - 1957), ở miền Bắc chúng ta đã hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế. Năm 1958, chúng ta bắt đầu thực hiện kế hoạch kinh tế 3 năm nhằm phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội. Về kinh tế và văn hoá, chúng ta đã có những tiến bộ lớn. Đi đôi với những thắng lợi đó, quan hệ giai cấp trong xã hội miền Bắc đã thay đổi. Giai cấp địa chủ phong kiến đã bị đánh đổ. Liên minh giai cấp công nhân và nông dân ngày càng được củng cố và vững mạnh.

Hiến pháp năm 1946 đã hoàn thành sứ mệnh của nó nhưng so với tình hình và nhiệm vụ cách mạng mới nó cần được bổ sung và thay đổi. Vì vậy, trong Kỳ họp lần thứ 6, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa Khoá I đã quyết định sửa đổi Hiến pháp năm 1946 và thành lập Ban dự thảo Hiến pháp sửa đổi. Sau khi làm xong Bản dự thảo đầu tiên, tháng 7 năm 1958, Bản dự thảo được đưa ra thảo luận trong các cán bộ trung cấp và cao cấp thuộc các cơ quan Quân, Dân, Chính, Đảng. Sau đợt thảo luận này Bản dự thảo đã được chỉnh lý lại và ngày 01/4/1959, dự thảo được công bố để toàn dân thảo luận và đóng góp ý kiến xây dựng. Cuộc thảo luận này kéo dài trong 4 tháng với sự tham gia sôi nổi tích cực của các tầng lớp nhân dân lao động.([3]) Ngày 31/12/1959, Quốc hội đã nhất trí thông qua Hiến pháp sửa đổi và ngày 01/01/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh công bố Hiến pháp.

2. Nội dung cơ bản

Hiến pháp năm 1959 gồm có Lời nói đầu và 112 Điều, chia làm 10 chương.

Lời nói đầu khẳng định nước Việt Nam là một nước thống nhất từ Lạng Sơn đến Cà Mau, khẳng định những truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Lời nói đầu ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) đồng thời xác định bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo.

Chương I - Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, gồm 8 Điều, quy định các vấn đề cơ bản sau đây:

- Hình thức chính thể của Nhà nước là cộng hoà dân chủ (Điều 2). Hiến pháp xác định tất cả quyền lực trong nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân (Điều 4).

- Quy định Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp và các cơ quan nhà nước khác thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ (Điều 4).

- Cũng như Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 khẳng định đất nước Việt Nam là một khối thống nhất không thể chia cắt (Điều 1).

- Quy định nguyên tắc bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc trên đất nước Việt Nam. Nghiêm cấm mọi hành vi khinh miệt, áp bức, chia rẽ các dân tộc (Điều 3).

- Quy định các nguyên tắc bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là: Phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín (Điều 5).

- Xác định nguyên tắc tất cả các cơ quan nhà nước đều phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân (Điều 6).

Chương II - Chế độ kinh tế và xã hội, gồm 13 Điều quy định những vấn đề liên quan đến nền tảng kinh tế-xã hội của Nhà nước:

- Xác định đường lối kinh tế của Nhà nước ta trong giai đoạn này là biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến. Quy định mục đích cơ bản của chính sách kinh tế của Nhà nước là không ngừng phát triển sức sản xuất nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân (Điều 9).

- Quy định các hình thức sở hữu chủ yếu về tư liệu sản xuất trong thời kì quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội là: Sở hữu nhà nước (tức là của toàn dân); sở hữu của hợp tác xã (tức là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động); sở hữu của người lao động riêng lẻ và sở hữu của nhà tư sản dân tộc (Điều 11).

- Xác định kinh tế quốc doanh thuộc hình thức sở hữu của toàn dân giữ vai trò lãnh đạo trong nền kinh tế quốc dân và được Nhà nước đảm bảo phát triển ưu tiên. Các hầm mỏ, sông ngòi, những rừng cây, đất hoang, tài nguyên khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước đều thuộc sở hữu của toàn dân (Điều 12).

- Quy định việc Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về ruộng đất và tư liệu sản xuất khác của nông dân (Điều 14); bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của người làm nghề thủ công và những người lao động riêng lẻ khác (Điều 15); bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của nhà tư sản dân tộc (Điều 16); bảo hộ quyền sở hữu của công dân về của cải thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở và các thứ vật dụng riêng khác (Điều 18); bảo hộ quyền thừa kế tài sản tư hữu của công dân (Điều 19). So với Hiến pháp năm 1946 thì chương II là một chương hoàn toàn mới. Chương này được xây dựng theo mô hình của Hiến pháp các nước xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, ngoài việc quy định kinh tế quốc doanh giữ vai trò lãnh đạo trong nền kinh tế quốc dân, Hiến pháp còn quy định Nhà nước lãnh đạo hoạt động kinh tế theo một kế hoạch thống nhất.

Chương III - Quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân, bao gồm 21 Điều (từ Điều 22 đến Điều 42). Theo Hiến pháp, công dân Việt Nam có các quyền và nghĩa vụ cơ bản sau đây:

- Các quyền về chính trị và tự do dân chủ như: Quyền bầu cử và ứng cử (Điều 23); quyền bình đẳng trước pháp luật (Điều 22); quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội, biểu tình (Điều 25); quyền khiếu nại, tố cáo về những hành vi vi phạm pháp luật của nhân viên, cơ quan nhà nước (Điều 29).

- Các quyền về dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội như: Quyền làm việc (Điều 30); quyền nghỉ ngơi (Điều 31); quyền được giúp đỡ về vật chất khi già yếu, bệnh tật hoặc mất sức lao động (Điều 32); quyền học tập (Điều 33); quyền tự do nghiên cứu khoa học, sáng tác văn học, nghệ thuật và tiến hành các hoạt động văn hoá khác (Điều 34); quyền tự do tín ngưỡng (Điều 26).

- Các quyền về tự do cá nhân như: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể (Điều 27); không ai có thể bị bắt nếu không có sự quyết định của Tòa án nhân dân hoặc sự phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân; quyền bất khả xâm phạm về nhà ở; quyền bí mật thư tín; quyền tự do cư trú và tự do đi lại.

- Các nghĩa vụ cơ bản của công dân theo quy định của Hiến pháp bao gồm: Nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, kỉ luật lao động, trật tự công cộng là những quy tắc sinh hoạt xã hội (Điều 39); nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản công cộng (Điều 40); nghĩa vụ đóng thuế theo quy định của pháp luật (Điều 41); nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc (Điều 42). So với Hiến pháp năm 1946, chế định quyền và nghĩa vụ của công dân trong Hiến pháp năm 1959 là một bước phát triển mới.

Bên cạnh việc quy định các quyền của công dân, Hiến pháp còn xác định nghĩa vụ của Nhà nước trong việc đảm bảo cho các quyền đó được thực hiện. Ngoài những quyền và nghĩa vụ mà Hiến pháp năm 1946 đã ghi nhận, Hiến pháp năm 1959 còn quy định thêm những quyền và nghĩa vụ mới như: Quyền của người lao động được giúp đỡ về vật chất khi già yếu, bệnh tật hoặc mất sức lao động; quyền tự do nghiên cứu khoa học, sáng tác văn học nghệ thuật và tiến hành các hoạt động văn hoá khác; quyền khiếu nại, tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật của nhân viên, cơ quan nhà nước; nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản công cộng.

Chương IV - Quốc hội, bao gồm 18 Điều quy định các vấn đề liên quan đến chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.

So với nhiệm kỳ của Nghị viện theo Hiến pháp năm 1946 thì nhiệm kỳ của Quốc hội dài hơn (nhiệm kì của Nghị viện là 3 năm, còn nhiệm kỳ Quốc hội là 4 năm). Hiến pháp năm 1959 quy định quyền hạn của Quốc hội một cách cụ thể hơn. Theo Điều 50 Hiến pháp 1959 thì Quốc hội có những quyền hạn sau đây: Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm pháp luật; giám sát việc thi hành Hiến pháp; bầu Chủ tịch và Phó chủ tịch nước; theo đề nghị của Chủ tịch nước Việt Nam quyết định cử Thủ tướng Chính phủ; theo đề nghị của Thủ tướng quyết định cử Phó Thủ tướng và các thành viên khác của Hội đồng Chính phủ; theo đề nghị của Chủ tịch nước quyết định cử Phó Chủ tịch nước và các thành viên khác của Hội đồng quốc phòng; bầu Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; bầu Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; bãi miễn Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước.

Thủ tướng, Phó Thủ tướng và những thành viên khác của Hội đồng Chính phủ, Phó Chủ tịch và những thành viên khác của Hội đồng quốc phòng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; quyết định kế hoạch kinh tế nhà nước; xét duyệt và phê chuẩn dự toán và quyết toán ngân sách của nhà nước; ấn định các thứ thuế. Ngoài ra, Quốc hội còn có những quyền hạn quan trọng khác như: Phê chuẩn việc thành lập và bãi bỏ các Bộ và các cơ quan ngang Bộ, phê chuẩn việc phân vạch địa giới các tỉnh, khu tự trị và thành phố trực thuộc Trung ương; quyết định đặc xá; quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình; những quyền hạn cần thiết khác do Quốc hội định.

Quốc hội có cơ quan thường trực của mình là Uỷ ban Thường vụ Quốc hội do Quốc hội bầu ra. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội gồm có Chủ tịch, các Phó chủ tịch, Tổng thư ký, các uỷ viên. Quyền hạn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội được quy định tại Điều 53. Theo quy định của Hiến pháp chúng ta thấy Ủy ban Thường vụ Quốc hội có các quyền hạn sau đây: Tuyên bố và chủ trì việc tuyển cử đại biểu Quốc hội; triệu tập Quốc hội; giải thích pháp luật; ra pháp lệnh; quyết định việc trưng cầu ý dân; giám sát công tác của Hội đồng Chính phủ, của Tòa án nhân dân tối cao và của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị định, nghị quyết, chỉ thị của hội đồng Chính phủ trái với Hiến pháp, pháp luật, pháp lệnh; sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết không thích đáng của Hội đồng nhân dân trong trường hợp các Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại đến quyền lợi của nhân dân một cách nghiêm trọng. Ủy ban Thường vụ Quốc hội có thẩm quyền bổ nhiệm hoặc bãi miễn Phó chánh án, thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; bổ nhiệm hoặc bãi miễn Phó viện trưởng và kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao; bổ nhiệm hoặc bãi miễn các đại diện toàn quyền ngoại giao của nước ta ở nước ngoài; quyết định việc phê chuẩn hoặc bãi bỏ những hiệp ước ký với nước ngoài (trừ trường hợp mà Ủy ban Thường vụ Quốc hội xét cần phải trình Quốc hội quyết định). Ngoài ra, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội còn có thẩm quyền quy định hàm và cấp quân sự, ngoại giao, những hàm và cấp khác; quyết định đặc xá; quy định và quyết định việc tặng thưởng huân chương và danh hiệu vinh dự của Nhà nước; quyết định việc tổng động viên hoặc động viên cục bộ; quyết định việc giới nghiêm trong toàn quốc hoặc từng địa phương. Trong thời gian Quốc hội không họp, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có quyền quyết định việc bổ nhiệm hoặc bãi miễn Phó Thủ tướng và những thành viên khác của Hội đồng Chính phủ; có quyền quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh trong trường hợp nước nhà bị xâm lược. Ngoài những quyền hạn được quy định trong Hiến pháp, Quốc hội có thể trao cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội những quyền hạn khác khi xét thấy cần thiết.

Theo Hiến pháp năm 1959, ngoài Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội còn thành lập các uỷ ban chuyên trách như Ủy ban Dự án pháp luật, Ủy ban Kế hoạch và ngân sách, Ủy ban Thẩm tra tư cách đại biểu và các uỷ ban khác mà Quốc hội thấy cần thiết để giúp Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội (Điều 56 và 57).

Chương V - Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, bao gồm 10 Điều (từ Điều 61 đến Điều 70).

So với Hiến pháp năm 1946 thì đây là một chương mới, theo đó, Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước không nằm trong thành phần của Chính phủ (đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng Chính phủ), Chủ tịch nước chỉ là người đứng đầu nhà nước về mặt đối nội cũng như đối ngoại. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra. Công dân nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa từ 35 tuổi trở lên có quyền ứng cử chức vụ Chủ tịch nước. Như vậy, Hiến pháp năm 1959 quy định điểm mới về tuổi tối thiểu để có thể ứng cử chức vụ Chủ tịch nước là từ 35 tuổi trở lên (không đòi hỏi ứng cử viên phải là đại biểu Quốc hội như Hiến pháp năm 1946).

So với Hiến pháp năm 1946, quyền hạn của Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1959 hẹp hơn do chức năng của người đứng đầu Chính phủ đã chuyển sang cho Thủ tướng Chính phủ. Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước thống lĩnh các lực lượng vũ trang toàn quốc, giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng (Điều 65). Khi xét thấy cần thiết thì Chủ tịch nước triệu tập và chủ tọa hội nghị chính trị đặc biệt (Điều 67) hoặc có quyền tham dự và chủ tọa các phiên họp của Hội đồng Chính phủ (Điều 66).

Chương VI - Hội đồng Chính phủ, bao gồm 7 Điều (từ Điều 71 đến Điều 77).

Theo Điều 71 Hiến pháp năm 1959, Hội đồng Chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất. Quy định này thể hiện rõ nguyên tắc quyền lực nhà nước tập trung thống nhất vào Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân. Như vậy, mô hình Hội đồng Chính phủ theo Hiến pháp năm 1959 được tổ chức theo mô hình chính phủ của các nước xã hội chủ nghĩa. Về thành phần của Hội đồng Chính phủ không có Chủ tịch, Phó Chủ tịch nước và không có các Thứ trưởng như trước đây.

Chương VII - Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính địa phương các cấp, bao gồm 14 Điều (từ Điều 78 đến Điều 91).

Trong chương này Hiến pháp xác định các đơn vị hành chính ở nước ta là: Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị xã; xã, thị trấn. Ngoài ra còn có khu tự trị (Tây Bắc và Việt Bắc). Các khu tự trị này tồn tại đến tháng 12/1975.

Như vậy, theo Hiến pháp năm 1959, cấp bộ (Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ) được bãi bỏ. Khác với Hiến pháp 1946 chỉ có cấp tỉnh và cấp xã mới có Hội đồng nhân dân, Hiến pháp năm 1959 quy định tất cả các cấp tỉnh, huyện, xã đều có Hội đồng nhân dân. Ngoài ra, Hiến pháp còn ghi rõ Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Uỷ ban hành chính được thành lập ở tất cả các cấp tỉnh, huyện, xã, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân địa phương, là cơ quan hành chính của Nhà nước ở địa phương.

Chương VIII - Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, gồm 15 Điều (từ Điều 97 đến Điều 111).

So với Hiến pháp năm 1946, Chương này cũng có nhiều thay đổi. Hệ thống Tòa án ở nước ta bao gồm: Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh, Tòa án nhân dân huyện và Tòa án quân sự. Ngoài ra, trong trường hợp xét xử những vụ án đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập Tòa án đặc biệt. Hệ thống Tòa án địa phương được tổ chức theo các đơn vị hành chính lãnh thổ cấp tỉnh, cấp huyện. Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương vừa xét xử phúc thẩm các bản án do Tòa án huyện xét xử sơ thẩm, vừa xét xử sơ thẩm các bản án thuộc thẩm quyền. Chế độ bổ nhiệm thẩm phán bị bãi bỏ và thực hiện chế độ thẩm phán bầu. Việc xét xử ở các Tòa án nhân dân có hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của pháp luật. Khi xét xử hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm phán.

Theo mô hình tổ chức bộ máy nhà nước của các nước xã hội chủ nghĩa, Hiến pháp năm 1959 đã quy định việc thành lập hệ thống Viện kiểm sát nhân dân để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân thủ pháp luật và thực hiện quyền công tố. Hệ thống Viện kiểm sát bao gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Viện kiểm sát nhân dân huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị xã và Viện kiểm sát quân sự.

Viện kiểm sát nhân dân tổ chức theo chế độ thủ trưởng trực thuộc một chiều. Viện kiểm sát cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện kiểm sát cấp trên và tất cả đều đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu ra, Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không họp thì báo cáo công tác và chịu trách nhiệm trước Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Chương IX  - Quy định về Quốc kì, Quốc huy và Thủ đô.

Chương X - Quy định về sửa đổi Hiến pháp.

Theo quy định của Hiến pháp chỉ có Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp với điều kiện phải được ít nhất là hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.

Tóm lại, Hiến pháp năm 1959 là bản Hiến pháp được xây dựng theo mô hình Hiến pháp xã hội chủ nghĩa. Đó là bản Hiến pháp xã hội chủ nghĩa đầu tiên của nước ta.

IV. HIẾN PHÁP NĂM 1980

1. Hoàn cảnh ra đời

Thắng lợi vĩ đại của chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân năm 1975 đã mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử dân tộc ta. Miền Nam được hoàn toàn giải phóng, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã hoàn thành trong phạm vi cả nước. Nước ta đã hoàn toàn độc lập, tự do là điều kiện thuận lợi để thống nhất hai miền Nam - Bắc, đưa cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.

Trước tình hình đó, tháng 9/1975, Hội nghị lần thứ 24 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã xác định nhiệm vụ quan trọng hàng đầu lúc này là phải hoàn thành việc thống nhất nước nhà. Nghị quyết của Hội nghị đã nhấn mạnh: “Thống nhất đất nước vừa là nguyện vọng tha thiết bậc nhất của đồng bào cả nước, vừa là quy luật khách quan của sự phát triển cách mạng Việt Nam, của lịch sử dân tộc Việt Nam...”. Hội nghị đã quyết định triệu tập Hội nghị hiệp thương chính trị thống nhất Tổ quốc; nhất trí quyết định tổ chức tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội chung cho cả nước. Cuộc tổng tuyển cử theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu trực tiếp và bỏ phiếu kín đã diễn ra ngày 25/4/1976 với sự tham gia của hơn 23 triệu cử tri, chiếm gần 99% tổng số cử tri. Tổng số đại biểu Quốc hội đã bầu là 492 trong đó 249 đại biểu miền Bắc và 243 đại biểu miền Nam.([4]) Tổng số đại biểu Quốc hội được tính theo tỷ lệ: 1 đại biểu/1000 cử tri.([5])

Quốc hội chung của cả nước đã bắt đầu kỳ họp đầu tiên của mình vào ngày 25/6/1976 và kéo dài đến ngày 03/7/1976. Ngày 02/7/1976 Quốc hội đã thông qua các nghị quyết quan trọng, trong đó có quyết định trong khi chưa có Hiến pháp mới, tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta hoạt động dựa trên cơ sở Hiến pháp năm 1959 của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đồng thời Quốc hội khoá VI cũng đã ra Nghị quyết về việc sửa đổi Hiến pháp năm 1959 và thành lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp gồm 36 người do đồng chí Trường Chinh - Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội làm Chủ tịch. Sau một năm rưỡi làm việc khẩn trương, Uỷ ban đã hoàn thành dự thảo. Bản dự thảo được đưa ra cho toàn dân thảo luận. Tháng 9/1980, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp kỳ đặc biệt để xem xét và cho ý kiến bổ sung, sửa chữa dự thảo trước khi trình Quốc hội thảo luận, thông qua. Sau một thời gian thảo luận, Quốc hội khoá VI tại kỳ họp thứ 7 ngày 18/12/1980 đã nhất trí thông qua Hiến pháp.

2. Nội dung cơ bản

Hiến pháp năm 1980 bao gồm Lời nói đầu, 147 Điều chia làm 12 chương.

Lời nói đầu của Hiến pháp khẳng định truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, ghi nhận những thắng lợi vĩ đại mà nhân dân Việt Nam đã giành được trong Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến chống thực dân Pháp và cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai. Lời nói đầu còn xác định những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong điều kiện mới mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đề ra và nêu lên những vấn đề cơ bản mà Hiến pháp năm 1980 đề cập.

Chương I quy định chế độ chính trị của Nhà nước ta gồm 14 Điều (từ Điều 1 đến Điều 14) bao gồm các vấn đề cơ bản sau đây:

- Xác định bản chất giai cấp của Nhà nước ta là Nhà nước chuyên chính vô sản. Sứ mệnh lịch sử của Nhà nước là thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, động viên và tổ chức nhân dân xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, tiến lên chủ nghĩa cộng sản (Điều 2).

- Khác với các bản Hiến pháp trước đây, Hiến pháp năm 1980 quy định các quyền dân tộc cơ bản bao gồm 4 yếu tố: Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Đây là một phạm trù pháp luật quốc tế do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng dựa trên những khái niệm chung về quyền tự nhiên của con người.([6]) Phạm trù quyền dân tộc cơ bản được thế giới thừa nhận một cách rộng rãi và trở thành một trong những phạm trù quan trọng của luật quốc tế hiện đại, một đóng góp lớn của Việt Nam vào sự nghiệp bảo vệ các quyền cơ bản của các dân tộc.

- Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp năm 1980 thể chế hoá vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Nhà nước và xã hội vào một Điều của Hiến pháp (Điều 4). Sự thể chế hoá này thể hiện sự thừa nhận chính thức của Nhà nước về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hiến pháp cũng quy định: Các tổ chức của Đảng phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật.

- Hiến pháp còn xác định vị trí, vai trò của các tổ chức chính trị-xã hội quan trọng khác như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Điều 9), Tổng Công đoàn Việt Nam (Điều 10). Đây cũng là lần đầu tiên vị trí, vai trò của các tổ chức chính trị-xã hội này được quy định trong Hiến pháp.

- Với Hiến pháp năm 1980, quan điểm về quyền làm chủ tập thể của Đảng ta đã được thể chế hoá (Điều 3 Hiến pháp).

- Hiến pháp năm 1980 tiếp tục khẳng định chính sách đoàn kết dân tộc của Nhà nước ta: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Nhà nước bảo vệ, tăng cường và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi miệt thị, chia rẽ dân tộc” (Điều 5).

- Hiến pháp năm 1980 kế tục tư tưởng của Hiến pháp năm 1959 khi nhấn mạnh quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân, Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan nhà nước khác đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Điểm mới là lần đầu tiên Hiến pháp năm 1980 quy định nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa:Nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa” (Điều 12).

Chương II - Chế độ kinh tế, gồm 22 Điều (từ Điều 15 đến Điều 36).

Chương này quy định những vấn đề cơ bản trong lĩnh vực kinh tế như mục đích của chính sách kinh tế, các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các nguyên tắc lãnh đạo nền kinh tế quốc dân. Nếu như Hiến pháp năm 1959 quy định đất đai có thể thuộc sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân[7] thì Hiến pháp năm 1980 đã quốc hữu hoá toàn bộ đất đai (Điều 19). Nhà nước tiến hành cách mạng về quan hệ sản xuất, hướng dẫn, sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, thiết lập và củng cố chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất nhằm thực hiện một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: Thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động (Điều 18).

Chương III - Văn hoá, giáo dục, khoa học, kỹ thuật, bao gồm 13 Điều (từ Điều 37 đến Điều 49).

Đây là một chương hoàn toàn mới so với các bản Hiến pháp trước đây. Chương này quy định mục tiêu của cách mạng tư tưởng và văn hoá là xây dựng nền văn hoá mới có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân, xây dựng con người mới có ý thức làm chủ tập thể, yêu lao động, quý trọng của công, có văn hoá, có kiến thức khoa học kỹ thuật, có sức khỏe, yêu nước xã hội chủ nghĩa và có tinh thần quốc tế vô sản (Điều 37). Chủ nghĩa Mác-Lênin là hệ tư tưởng chỉ đạo sự phát triển của xã hội Việt Nam (Điều 38). Nhà nước ta chủ trương bảo vệ và phát triển những giá trị văn hoá và tinh thần của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới, chống các tư tưởng phong kiến lạc hậu, tư sản phản động và bài trừ mê tín dị đoan. Chương III còn xác định chính sách về khoa học, kỹ thuật, văn học, nghệ thuật và các công tác thông tin báo chí, xuất bản, thư viện, phát thanh, truyền hình...

Chương IV - Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bao gồm 3 Điều (từ Điều 50 đến Điều 52).

Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, vấn đề bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa được xây dựng thành một chương riêng trong Hiến pháp. Điều này xuất phát từ tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề phòng thủ đất nước. Bảo vệ và xây dựng tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược của Đảng và Nhà nước tồn tại song song trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, có sự gắn bó và tương hỗ lẫn nhau. Hiến pháp năm 1980 xác định đường lối quốc phòng của Nhà nước là xây dựng một nền quốc phòng toàn dân, toàn diện và hiện đại trên cơ sở kết hợp xây dựng Tổ quốc với bảo vệ Tổ quốc, kết hợp sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân với sức mạnh toàn dân, kết hợp sức mạnh truyền thống đoàn kết dân tộc chống ngoại xâm với sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa (Điều 50); xác định nhiệm vụ của các lực lượng vũ trang nhân dân (Điều 51); quy định thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, chăm lo công nghiệp quốc phòng, huy động nhân lực, vật lực nhằm xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ đất nước; tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân phải làm đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh do pháp luật quy định (Điều 52).

Chương V - Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, bao gồm 29 Điều (từ Điều 53 đến Điều 81).

Kế tục và phát triển Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 một mặt ghi nhận quyền và nghĩa vụ của công dân đã được quy định trong các bản Hiến pháp trước đây, mặt khác bổ sung thêm một số quyền và nghĩa vụ mới phù hợp với giai đoạn mới của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa như quyền tham gia quản lý công việc của Nhà nước và xã hội (Điều 56); quyền được khám và chữa bệnh không phải trả tiền (Điều 61), quyền có nhà ở (Điều 62), quyền được học tập không phải trả tiền (Điều 60), quyền của các xã viên hợp tác xã được phụ cấp sinh đẻ (Điều 63). Hiến pháp quy định thêm một số nghĩa vụ mới của công dân: Công dân phải trung thành với Tổ quốc (Điều 76); ngoài bổn phận làm nghĩa vụ quân sự, công dân còn phải tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân; ngoài nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, kỉ luật lao động, tôn trọng những quy tắc sinh hoạt xã hội, công dân còn phải bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, giữ gìn bí mật nhà nước; ngoài nghĩa vụ đóng thuế, công dân còn phải tham gia lao động công ích. Tuy nhiên, một số quyền mới được bổ sung trong Hiến pháp năm 1980 không phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước nên không có điều kiện vật chất đảm bảo thực hiện.

Chương VI - Quốc hội, bao gồm 16 Điều (từ Điều 82 đến Điều 97).

Kế thừa Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 xác định Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, những mục tiêu phát triển kinh tế và văn hoá-xã hội, những quy tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Quốc hội thành lập các cơ quan nhà nước tối cao như bầu ra Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các thành viên khác của Hội đồng Bộ trưởng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước... (Điều 82 và 83). Như vậy về cơ bản, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội không thay đổi nhưng cơ cấu tổ chức của Quốc hội có sự thay đổi lớn. Nếu theo Hiến pháp năm 1959 cơ quan thường trực của Quốc hội là Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thì theo Hiến pháp năm 1980 cơ quan thường trực của Quốc hội là Hội đồng Nhà nước - Chủ tịch tập thể của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo Hiến pháp năm 1959, khi Quốc hội họp thì bầu Chủ tịch đoàn để điều khiển cuộc họp (Điều 47), còn theo Hiến pháp năm 1980, Quốc hội bầu ra Chủ tịch và các Phó Chủ tịch Quốc hội. Chủ tịch Quốc hội chủ tọa các phiên họp của Quốc hội, bảo đảm việc thi hành nội quy của Quốc hội, giữ quan hệ với các đại biểu Quốc hội, điều hoà phối hợp hoạt động với các uỷ ban của Quốc hội, chứng thực luật và nghị quyết đã được Quốc hội thông qua; thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội.

Như vậy, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội là một thiết chế mới, một cách tổ chức mới của Quốc hội mà trước đó lịch sử lập hiến nước ta chưa biết đến.

Chương VII - Hội đồng Nhà nước, bao gồm 6 Điều (từ Điều 98 đến Điều 103).

Đây là một chương mới so với Hiến pháp năm 1959. Hội đồng Nhà nước là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội, là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 98). Hội đồng Nhà nước vừa thực hiện chức năng của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội vừa thực hiện chức năng của Chủ tịch nước. Vì vậy, thẩm quyền của Hội đồng Nhà nước tương đương với thẩm quyền của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và thẩm quyền của Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1959 với những nhiệm vụ và quyền hạn rất lớn (Điều 100).

Trong số các quyền của Hội đồng Nhà nước thì việc quyết định thành lập hoặc bãi bỏ các bộ, các uỷ ban nhà nước; cử và bãi miễn các Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, các Bộ trưởng, các chủ nhiệm Uỷ ban nhà nước; việc tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược, Hội đồng Nhà nước phải trình Quốc hội phê chuẩn trong kỳ họp gần nhất của Quốc hội. Ngoài những nhiệm vụ, quyền hạn đã được xác định, tại khoản 21 Điều 100 Hiến pháp năm 1980 còn ghi nhận: “Quốc hội có thể giao cho Hội đồng Nhà nước những nhiệm vụ và quyền hạn khác, khi xét thấy cần thiết”. Thể chế Chủ tịch nước tập thể trong thực tiễn đã thể hiện những ưu điểm và nhược điểm của nó. Ưu điểm của thể chế này là các vấn đề quan trọng của đất nước đều được thảo luận tập thể và quyết định theo đa số, như vậy sẽ vững vàng hơn so với một người quyết định. Nhược điểm của nó là do mọi vấn đề phải bàn bạc tập thể nên công việc nhiều khi chậm chạp, trách nhiệm của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước chưa thật rõ ràng. Giữa hai kỳ họp của Quốc hội thì quyền hạn của Hội đồng Nhà nước rất lớn nhưng trong kỳ họp Quốc hội thì thẩm quyền của Hội đồng Nhà nước lại hầu như không được thể hiện. Mặt khác, việc Hội đồng Nhà nước được quyền quyết định một số quyền hạn thuộc thẩm quyền Quốc hội đã làm nảy sinh vấn đề liên quan đến yêu cầu tập trung quyền lực, nhất là quyền lập pháp vào Quốc hội. Theo quy định của Hiến pháp  thì chức năng, nhiệm vụ giao cho Hội đồng Nhà nước rất lớn nhưng cơ cấu của thành viên Hội đồng Nhà nước hầu hết gồm những người kiêm nhiệm.([8])

Chương VIII - Hội đồng Bộ trưởng, bao gồm 9 Điều (từ Điều 104 đến Điều 112).

Theo Điều 104 Hiến pháp năm 1980, Hội đồng Bộ trưởng là Chính phủ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có vị trí như Hội đồng Chính phủ trong Hiến pháp năm 1959. Tuy nhiên, Hội đồng Bộ trưởng về tính chất không hoàn toàn giống như Hội đồng Chính phủ. Hội đồng Chính phủ theo quy định của Hiến pháp năm 1959 là "cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa".

Tuy nhiên, Hiến pháp năm 1980 quy định Hội đồng Bộ trưởng "là cơ quan chấp hành và hành chính nhà nước cao nhất của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất". Với quy định này chúng ta thấy tính độc lập của Chính phủ trong quan hệ với Quốc hội bị hạn chế.

Về nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng Bộ trưởng, Điều 107 Hiến pháp năm 1980 quy định các vấn đề cơ bản sau đây:

- Bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật; trình dự án luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác trước Quốc hội và Hội đồng Nhà nước; lập dự án kế hoạch nhà nước và dự án ngân sách nhà nước trình Quốc hội; tổ chức thực hiện kế hoạch nhà nước và ngân sách nhà nước; thống nhất quản lý việc cải tạo, xây dựng và phát triển nền kinh tế quốc dân, việc xây dựng và phát triển văn hoá, giáo dục khoa học, kỹ thuật; xây dựng và kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước từ Trung ương đến cơ sở; đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp và sử dụng đội ngũ cán bộ nhà nước; lãnh đạo công tác của các bộ và các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng; bảo đảm cho Hội đồng nhân dân các cấp thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương; lãnh đạo Ủy ban nhân dân các cấp; đình chỉ việc thi hành và sửa đổi hoặc bãi bỏ những quyết định, chỉ thị, thông tư không thích đáng của các bộ và các cơ quan khác thuộc hội đồng Bộ trưởng; đình chỉ việc thi hành những nghị quyết không thích đáng của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương đương, đồng thời đề nghị Hội đồng Nhà nước sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết đó; đình chỉ việc thi hành và sửa đổi hoặc bãi bỏ những quyết định, chỉ thị không thích đáng của Ủy ban nhân dân các cấp; quyết định việc phân vạch địa giới của các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh... Về cơ bản, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Bộ trưởng theo Hiến pháp năm 1980 giống với nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Chính phủ theo Hiến pháp năm 1959. Tuy nhiên, Hiến pháp năm 1980 bổ sung một số quyền hạn, nhiệm vụ mới phù hợp với nhu cầu của xã hội như tổ chức và lãnh đạo công tác trọng tài nhà nước về kinh tế; tổ chức và lãnh đạo công tác bảo hiểm nhà nước v.v.. So với các Hiến pháp trước thì chế định về Hội đồng Bộ trưởng còn có một điểm mới nữa là quy định về trách nhiệm tập thể của các thành viên Hội đồng Bộ trưởng trước Quốc hội và Hội đồng Nhà nước.

Chương IX  - Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, bao gồm 14 Điều (từ Điều 113 đến Điều 126).

Tại chương này, Hiến pháp quy định về phân cấp hành chính ở nước ta, xác định vị trí, tính chất, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Về phân cấp đơn vị hành chính, nước ta có ba cấp hành chính. Đó là tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương đương; huyện, quận, thành phố trực thuộc tỉnh và thị xã; xã, phường, thị trấn. Khác với Hiến pháp năm 1959 khu tự trị được bãi bỏ (theo Nghị quyết kỳ họp Quốc hội khoá V ngày 27/12/1975) nhưng lập thêm ra đơn vị hành chính đặc khu (tương đương với tỉnh), đơn vị phường ở những thành phố, thị xã (tương đương với xã). Ở tất cả các đơn vị hành chính nói trên đều thành lập Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.

Những quy định của Hiến pháp năm 1980 về Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được cụ thể hoá bởi Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 1983. Theo đó, bổ sung vào cơ cấu của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, huyện, quận, thị xã một cơ quan mới là thường trực Hội đồng nhân dân. Nhiệm kì Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp cũng được nâng lên từ 3 năm lên 5 năm.

Về tính chất, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân về cơ bản giống Hiến pháp năm 1959.

Chương X - Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, bao gồm 15 Điều (từ Điều 127 đến Điều 141).

Chương này về cơ bản kế thừa nội dung trong Hiến pháp năm 1959 với các quy định về nhiệm vụ chung của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, về hệ thống các cơ quan Tòa án, chức năng của các cơ quan Tòa án, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án.

Chương XI - Quốc kì, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô.

Chương XII quy định về hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp. Điều 146 của Hiến pháp quy định Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp. Về thủ tục sửa đổi Hiến pháp hoàn toàn kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1959.

Tóm lại, Hiến pháp năm 1980 là Hiến pháp của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước. Tuy có nhiều nhược điểm nhưng Hiến pháp năm 1980 là một cái mốc quan trọng trong lịch sử lập hiến của nước ta.

V. Hiến pháp năm 1992

1. Hoàn cảnh ra đời

Sau một thời gian phát huy hiệu lực, nhiều quy định của Hiến pháp năm 1980 tỏ ra không phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước. Tình hình thực tiễn của đất nước đòi hỏi phải có một bản Hiến pháp mới, phù hợp hơn để thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội, xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đã mở ra thời kì đổi mới ở nước ta. Đảng đã chủ trương nhìn thẳng vào sự thật, phát hiện những sai lầm của Đảng, của Nhà nước, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy tư duy độc lập, sáng tạo của các tầng lớp nhân dân lao động, trên cơ sở đó để có những nhận thức mới đúng đắn về chủ nghĩa xã hội và vạch ra những chủ trương, chính sách mới nhằm xây dựng một xã hội dân giàu nước mạnh, công bằng và văn minh. Với tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI, Quốc hội khoá 8, tại kỳ họp thứ 3 ngày 22/12/1988 đã ra Nghị quyết sửa đổi Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1980. Ngày 30/6/1989, kỳ họp thứ V Quốc hội khoá 8 ra Nghị quyết sửa đổi 7 Điều: 57, 116, 118, 122, 123, 125 để xác định thêm quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân của công dân và thành lập thêm thường trực Hội đồng nhân dân trong cơ cấu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh, thị xã đồng thời củng cố thêm các mặt hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Trong kỳ họp này Quốc hội đã ra Nghị quyết thành lập Ủy ban sửa đổi Hiến pháp để sửa đổi Hiến pháp một cách cơ bản, toàn diện đáp ứng yêu cầu của tình hình kinh tế, xã hội mới, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Ủy ban sửa đổi Hiến pháp được thành lập bao gồm 28 người, do Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công làm Chủ tịch. Ủy ban dự thảo Hiến pháp đã họp nhiều phiên để chỉnh lí, bổ sung và thông qua toàn văn dự thảo Hiến pháp sửa đổi.

Cuối năm 1991 đầu năm 1992, Bản dự thảo Hiến pháp lần ba đã được đưa ra trưng cầu ý kiến nhân dân. Trên cơ sở tổng hợp ý kiến đóng góp của nhân dân và ý kiến của Bộ chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng, Dự thảo Hiến pháp lần 4 đã hoàn thành và được trình lên Quốc hội khoá VIII, tại kỳ họp thứ XI xem xét. Sau nhiều ngày thảo luận sôi nổi với những chỉnh lí và bổ sung nhất định, ngày 15 tháng 4 năm 1992 Quốc hội đã nhất trí thông qua Hiến pháp. Việc soạn thảo và ban hành Hiến pháp năm 1992 là một quá trình thảo luận dân chủ và chắt lọc một cách nghiêm túc những ý kiến đóng góp của mọi tầng lớp nhân dân về tất cả các vấn đề từ quan điểm chung đến các vấn đề cụ thể. Bản Hiến pháp này là bản Hiến pháp của Việt Nam trong tiến trình đổi mới. Đúng như nhận xét của đồng chí Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười, nó là "sản phẩm trí tuệ của toàn dân, thể hiện ý chí và nguyện vọng của đồng bào cả nước".([9])

2. Nội dung cơ bản

Hiến pháp năm 1992 gồm Lời nói đầu và 147 Điều chia làm 12 chương.

Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1992 về cơ bản kế thừa nội dung Lời nói đầu của các Hiến pháp trước; ghi nhận những thành quả của cách mạng Việt Nam và xác định những nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới;

Chương I - Chế độ chính trị bao gồm 14 Điều (từ Điều 1 đến Điều 14)

Như Hiến pháp năm 1980, chương này đã xác định những nguyên tắc cơ bản của tổ chức quyền lực chính trị của nhà nước xã hội chủ nghĩa, bao gồm: quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức (Điều 2); nguyên tắc bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội Việt Nam (Điều 4); nguyên tắc bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc (Điều 5); nguyên tắc tập trung dân chủ (Điều 6); nguyên tắc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp là phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín (Điều 7). Tuy nhiên, khác với Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 không dùng thuật ngữ "Nhà nước chuyên chính vô sản" mà dùng thuật ngữ "Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân". Việc thay đổi thuật ngữ này không làm thay đổi bản chất của Nhà nước mà chỉ để làm rõ bản chất "của dân, do dân và vì dân" của Nhà nước ta, phù hợp với chính sách đoàn kết các dân tộc, các tầng lớp trong xã hội và phù hợp với xu thế của quốc tế và thời đại. Đề cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên của nó là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Theo Hiến pháp năm 1992, Mặt trận có nhiệm vụ phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ viên chức nhà nước (Điều 9).

Theo quy định của Hiến pháp 1992, nước ta thực hiện chính sách hoà bình hữu nghị, mở rộng giao lưu hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị-xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi; tăng cường tình đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng, tích cực ủng hộ và góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới, vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Chính sách đối ngoại rộng mở đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để nước ta có thể hoà nhập vào trào lưu chung của văn minh thế giới và phù hợp với xu hướng quốc tế hoá rất cao của lực lượng sản xuất thế giới. Chính sách đối ngoại đúng đắn và phù hợp với thời đại của Hiến pháp năm 1992 đã làm tiền đề cho những thắng lợi to lớn của nước ta trong lĩnh vực hợp tác kinh tế với nước ngoài.

Chương II - Chế độ kinh tế, bao gồm 15 Điều (từ Điều 15 đến Điều 29).

Đây là chương được thay đổi một cách cơ bản nhất, thể hiện rõ nhất quan điểm đổi mới của Đảng và Nhà nước ta. Theo Điều 15 Hiến pháp năm 1992, đường lối phát triển kinh tế của Nhà nước ta là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước là làm cho dân giàu, nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế: Kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức, thúc đẩy xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật và giao lưu với thị trường thế giới (Điều 16).

Như vậy, với Hiến pháp năm 1992, chúng ta đã chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung với hai thành phần kinh tế chủ yếu là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể sang nền kinh tế hàng hoá thị trường với nhiều thành phần kinh tế: Nhà nước, tập thể, cá thể, tư bản tư nhân, tư bản nhà nước.

Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam Hiến pháp quy định: Kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp không bị hạn chế về quy mô hoạt động trong những ngành, nghề có lợi cho quốc kế dân sinh (Điều 21). Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được liên doanh, liên kết với cá nhân, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật (Điều 22). Như vậy, Hiến pháp đã xác định sự bình đẳng của các thành phần kinh tế trước pháp luật. Hơn nữa Nhà nước còn khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ vào Việt Nam. Nhà nước đảm bảo quyền sở hữu hợp pháp đối với vốn, tài sản và các quyền lợi khác của các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng như tài sản hợp pháp của các cá nhân, tổ chức khác không bị quốc hữu hoá (Điều 23 và 25). Về vấn đề đất đai, cũng như trước đây, Hiến pháp năm 1992 quy định đất đai thuộc quyền sở hữu nhà nước. Tuy nhiên, Hiến pháp quy định thêm về quyền được sử dụng đất lâu dài đối với người được giao và được chuyển quyền sử dụng đó theo quy định của pháp luật (Điều 18).

Chương III - Văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ, bao gồm 14 Điều (từ Điều 30 đến Điều 43).

Bên cạnh việc xác định đường lối bảo tồn và phát triển nền văn hoá Việt Nam: Dân tộc, hiện đại, nhân văn, kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam, tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân. Hiến pháp còn xác định "giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu" (Điều 35). Có thể nói rằng Hiến pháp năm 1992 đánh dấu một mốc quan trọng trong chính sách giáo dục và đào tạo của Nhà nước ta thể hiện đúng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người".

Chương IV - Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bao gồm 5 Điều (từ Điều 44 đến Điều 48).

Về cơ bản Chương này giống như Hiến pháp năm 1980 là xác định đường lối quốc phòng toàn dân. Tuy nhiên, Hiến pháp năm 1992 còn quy định bổ sung thêm về nhiệm vụ xây dựng công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, dựa vào nhân dân và làm nòng cốt cho phong trào nhân dân để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội (Điều 47).

Chương V - Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, bao gồm 34 Điều (từ Điều 49 đến Điều 82).

So với Hiến pháp năm 1980, Chương này có nhiều điều hơn, nhiều quyền và nghĩa vụ được bổ sung và sửa đổi. Khắc phục thiếu sót của các Hiến pháp trước đây, Hiến pháp năm 1992 lần đầu tiên quy định "các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng" (Điều 50). Ở nước ta, ngoài công dân Việt Nam và công dân nước ngoài đến làm việc và sinh sống ở Việt Nam còn có người không có quốc tịch. Như vậy, người không có quốc tịch cũng được Nhà nước ta tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Đặc biệt, lần đầu tiên quyền tự do kinh doanh của công dân được xác lập (Điều 57), trở thành một trong những chìa khoá quan trọng để mở cánh cửa tự do trong lĩnh vực hoạt động kinh tế của công dân, xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh. Công dân còn có quyền sở hữu "về tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác" (Điều 58). Những quy định này hơn bao giờ hết tạo điều kiện thuận lợi cho công dân Việt Nam xây dựng một cuộc sống cho bản thân mình giàu có, thịnh vượng. Trên cơ sở đó mà đồng thời làm giàu cho gia đình và xã hội; Hiến pháp bổ sung "quyền được thông tin" mà nội dung là quyền được nhận tin và truyền tin theo quy định của pháp luật.

Ngoài việc thiết lập các quyền mới, Hiến pháp còn sửa đổi một số quy định về quyền của công dân không phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước và không thể thực hiện được trong thực tiễn.

Chương VI - Quốc hội, bao gồm 18 Điều (từ Điều 83 đến Điều 100).

Chương này xác định vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Quốc hội. Về cơ bản nội dung kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1980 nhưng có bổ sung quyền hạn quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, quyết định chính sách dân tộc của Nhà nước, quyết định trưng cầu ý dân (Điều 84). Nhìn chung nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội thể hiện trên bốn lĩnh vực:

- Lập hiến và lập pháp;

- Quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước;

- Xây dựng củng cố và hoàn thiện bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa;

- Thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước.

Về cơ cấu tổ chức của Quốc hội, Hiến pháp 1992 có một số thay đổi nhất định như bỏ thể chế Hội đồng Nhà nước vừa là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội, vừa là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khôi phục lại chế định Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và chế định Chủ tịch nước như Hiến pháp năm 1959. Chủ tịch và các Phó Chủ tịch Quốc hội đồng thời là Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Một số thành viên của các hội đồng, Uỷ ban của Quốc hội làm việc theo chế độ chuyên trách (Điều 94 và 95).

Đề cao hơn nữa vai trò của đại biểu Quốc hội, Hiến pháp năm 1992 quy định rõ: "Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, không chỉ đại diện cho nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình mà còn đại diện cho nhân dân cả nước" (Điều 97). So với Hiến pháp năm 1980 nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội cũng như trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho đại biểu Quốc hội thực hiện nhiệm vụ của mình được quy định cụ thể hơn (xem Điều 97 và Điều 100).

Chương VII - Chủ tịch nước, bao gồm 8 Điều (từ Điều 101 đến Điều 108).

Với Hiến pháp năm 1992 chế định Chủ tịch nước cá nhân được quy định lại thành một chế định riêng biệt như Hiến pháp năm 1959.

So với chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1992 có nhiều điểm khác biệt. Trước hết Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1946 vừa là người đứng đầu Nhà nước vừa là người đứng đầu Chính phủ nên quyền hạn rất lớn. Hiến pháp năm 1959 quy định Chủ tịch nước chỉ đứng đầu Nhà nước chứ không đứng đầu Chính phủ nhưng quyền hạn của Chủ tịch nước vẫn rất lớn vì Chủ tịch nước "khi xét thấy cần thiết, có quyền tham dự và chủ tọa các phiên họp của Hội đồng Chính phủ" (Điều 66) và Chủ tịch nước khi xét thấy cần thiết thì triệu tập và chủ tọa hội nghị chính trị để xem xét những vấn đề rất lớn của nước nhà (Điều 67). Chủ tịch theo Hiến pháp năm 1980 không phải là cá nhân mà là Chủ tịch tập thể. Thể chế Chủ tịch tập thể như đã nói ở phần trước có nhiều nhược điểm như không nhanh nhạy, không linh hoạt và khó khăn trong việc đối ngoại. Chủ tịch nước theo Hiến pháp năm 1992 quyền hạn không rộng như Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959. Theo quy định của Hiến pháp năm 1992, Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra trong số các đại biểu Quốc hội. Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Thẩm quyền của Chủ tịch nước được quy định tại Điều 103 Hiến pháp năm 1992.

Chương VIII - Chính phủ, bao gồm 9 Điều (từ Điều 109 đến Điều 117).

Cũng như Hội đồng Chính phủ theo Hiến pháp năm 1959, Chính phủ theo Hiến pháp năm 1992 được quy định là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nếu so sánh cả bốn bản Hiến pháp của nước ta chúng ta thấy quan niệm về tính chất của Chính phủ có những thay đổi nhất định. Hiến pháp năm 1946 quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Nghị viện. Hiến pháp năm 1980 xây dựng Chính phủ (Hội đồng Bộ trưởng) theo mô hình của Hiến pháp xã hội chủ nghĩa nhưng với quan điểm tập quyền "rắn" nghĩa là quyền lực nhà nước thống nhất tập trung vào Quốc hội. Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thống nhất các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và giám sát. Các cơ quan nhà nước khác do Quốc hội lập ra là để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội. Hiến pháp năm 1992 kế thừa Hiến pháp năm 1959 xây dựng theo quan điểm tập quyền "mềm" nghĩa là quyền lực nhà nước vẫn tập trung thống nhất nhưng cần phải có sự phân chia chức năng giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Vì vậy, Hiến pháp năm 1992 quy định: "Chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Với quy định này Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của Nhà nước chứ không phải của Quốc hội, có thể hoạt động một cách độc lập tương đối trong lĩnh vực hành chính nhà nước.

Cách thức thành lập Chính phủ theo Hiến pháp năm 1992 hoàn toàn khác với Hiến pháp năm 1980. Hiến pháp năm 1992 chỉ có Thủ tướng Chính phủ là do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước, còn các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Quốc hội chỉ phê chuẩn theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ.[10] Như vậy, Hiến pháp năm 1992 đề cao vai trò của Thủ tướng Chính phủ trong việc thành lập Chính phủ, làm nổi trộivai trò của Thủ tướng Chính phủ. Có thể nói rằng đây là phương pháp hữu hiệu để xây dựng một chính quyền hành pháp mạnh mẽ.

Việc tăng cường vai trò của người đứng đầu Chính phủ còn thể hiện ở việc tăng thêm nhiều quyền hạn cho Thủ tướng Chính phủ mà trước đây Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 không quy định. Đó là các thẩm quyền được quy định tại các khoản 2, 4 và 5 của Điều 114 Hiến pháp năm 1992.

Chương IX  - Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, bao gồm 8 Điều (từ Điều 118 đến Điều 125).

Theo quy định của Hiến pháp năm 1992, nước ta vẫn chia làm 3 cấp hành chính: Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; xã, phường và thị trấn (Điều 118).([11]) Ở tất cả các đơn vị hành chính nói trên đều thành lập Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Tính chất của Hội đồng nhân dân vẫn như cũ là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra nhưng Hiến pháp mới nhấn mạnh tính đại diện của Hội đồng nhân dân rõ hơn: "Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên” (Điều 119). Như vậy, có thể thấy rằng hai đặc tính của Hội đồng nhân dân kết hợp nhuần nhuyễn với nhau làm cho Hội đồng nhân dân thực sự trở thành một cơ quan nhà nước quan trọng đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân lao động.

Về cơ cấu tổ chức, Hiến pháp năm 1992 duy trì các quy định của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 1989 về thành lập thường trực Hội đồng nhân dân ở các Hội đồng nhân dân các cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh. Trong tổ chức Hội đồng nhân dân còn thành lập các ban. Theo quy định của Hiến pháp năm 1992, quyền hạn của chủ tịch Ủy ban nhân dân được tăng cường. Một số quyền hạn trước đây thuộc tập thể Ủy ban nhân dân, nay chuyển cho Chủ tịch Ủỷ ban nhân dân (Điều 124). Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân do Quốc hội khoá IX (kỳ họp thứ 5) thông qua ngày 21 tháng 6 năm 1994 trên tinh thần Hiến pháp năm 1992 đã tăng cường quyền lực cho chủ tịch Ủy ban nhân dân (Điều 52).

Đề cao hơn nữa vai trò của các tổ chức xã hội và đoàn thể quần chúng trong quản lý nhà nước và xã hội, Hiến pháp năm 1992 quy định Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu các đoàn thể nhân dân địa phương được mời tham dự hội nghị Ủy ban nhân dân cùng cấp khi bàn các vấn đề có liên quan. Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thực hiện chế độ thông báo tình hình mọi mặt của địa phương cho Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của các tổ chức này về xây dựng chính quyền và phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương, phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân động viên nhân dân cùng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương (Điều 125).

Chương X - Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, bao gồm 15 Điều (từ Điều 126 đến Điều 140).

Kế thừa Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 giữ nguyên quy định về nhiệm vụ của Tòa án và Viện kiểm sát nhân dân.

Về tổ chức, hệ thống cơ quan Tòa án được quy định tại Điều 127 Hiến pháp năm 1992 và được cụ thể hoá bằng Luật tổ chức Tòa án nhân dân 1992, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân được Quốc hội thông qua ngày 28 tháng 12 năm 1993, Pháp lệnh về tổ chức Tòa án quân sự năm 1993, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân ngày 28 tháng 10 năm 1995. Theo quy định của các văn bản pháp luật trên đây, ở nước ta có các Tòa án sau đây: Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; các Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; các Tòa án quân sự; các Tòa án khác do luật định.

Trước năm 1992, trong hệ thống Tòa án nhân dân ở nước ta chỉ có Tòa án hình sự và toà dân sự. Đến nay trong hệ thống tổ chức Tòa án cấp Trung ương và cấp tỉnh còn có thêm toà kinh tế, toà lao động và toà hành chính để chuyên xét xử các tranh chấp kinh tế, lao động và hành chính. Ở cấp huyện có thẩm phán chuyên trách xét xử tranh chấp lao động và khiếu kiện hành chính.

Điểm mới căn bản của Hiến pháp năm 1992 là quy định chế độ thẩm phán bổ nhiệm. Dựa trên tinh thần của Hiến pháp, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992 đã quy định chỉ có Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước còn tất cả các thẩm phán của Tòa án nhân dân các cấp kể cả phó chánh án Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh đều do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức (Điều 38). Nhiệm kì bổ nhiệm của các thẩm phán là 5 năm. Còn đối với các hội thẩm nhân dân thì kết hợp giữa chế độ cử và chế độ bầu.

Về Viện kiểm sát nhân dân, Hiến pháp năm 1992 cũng xác định tính chất, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn như trước đây nhưng về tổ chức và trách nhiệm cũng có những thay đổi và bổ sung nhất định. Theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 1992 cụ thể hoá quy định của Hiến pháp thì Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập Uỷ ban kiểm sát. Ủy ban Kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao do viện trưởng cử và trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn. Ủy ban Kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương gồm có: Viện trưởng, các phó Viện trưởng, một số kiểm sát viên. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do viện trưởng cử và trình Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao phê chuẩn. Một vấn đề quan trọng trước đây do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định nay chuyển cho Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.([12])

Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992 có quy định mới về việc viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa phương chịu trách nhiệm báo cáo trước Hội đồng nhân dân về tình hình thi hành luật ở địa phương và trả lời chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân (Điều 140 Hiến pháp năm 1992).

Như vậy, các quy định về Viện kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp năm 1992 vẫn đề cao chế độ làm việc theo nguyên tắc thủ trưởng và trực thuộc một chiều; đề cao tính độc lập của Viện kiểm sát, mặt khác phải kết hợp nguyên tắc này với chế độ bàn bạc tập thể khi Viện kiểm sát quyết định những vấn đề quan trọng. Hiến pháp 1992 cũng xác định tính chất giám sát của Quốc hội cũng như Hội đồng nhân dân các cấp với hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân.

Chương XI - Quốc kì, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô, ngày Quốc khánh, bao gồm 5 Điều (từ Điều 141 đến Điều 145).

Chương này về cơ bản giữ nguyên các quy định của Hiến pháp năm 1980, chỉ bổ sung việc quy định về ngày Quốc khánh của nước ta là 2/9 - ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.

Chương XII - Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp bao gồm Điều 146 và Điều 147. Nội dung của Chương này hoàn toàn giống quy định của Hiến pháp năm 1980.

Tóm lại, Hiến pháp năm 1992 đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của lịch sử lập hiến Việt Nam. Đây là bản Hiến pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kì đổi mới toàn diện và sâu sắc về kinh tế, từng bước và vững chắc về chính trị. Đây là bản Hiến pháp kế thừa có chắt lọc những tinh hoa của các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, là bản Hiến pháp vận dụng sáng tạo những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Hiến pháp năm 1992 đánh dấu sự phục hưng và phát triển của nền tảng kinh tế của xã hội Việt Nam vào những năm cuối của thế kỉ. Nó là tấm gương phản chiếu những đổi mới trong tư tưởng lập hiến và lập pháp của con người Việt Nam. Đó là bản Hiến pháp thể hiện sự độc lập và tự chủ trên tiến trình phát triển của nền triết học pháp quyền Việt Nam, một nền triết học pháp quyền thể hiện bản sắc dân tộc đồng thời thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn với tính quốc tế và hiện đại trên cơ sở phát triển những tinh hoa của nền văn hoá pháp lý Việt Nam và sự tiếp thu những tinh hoa văn hoá pháp lý thế giới.

3. Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2001

a. Bối cảnh sửa đổi

Sau gần 10 năm có hiệu lực, Hiến pháp năm 1992 đã phát huy được hiệu quả của một đạo luật cơ bản của nhà nước, tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc để xây dựng nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xây dựng bộ máy nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thực hiện chính sách hoà bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới phù hợp với xu thế hội nhập và toàn cầu hoá của thế giới hiện đại. Tuy nhiên, sau một thập kỉ, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội có những thay đổi nhất định đòi hỏi Hiến pháp phải được bổ sung, sửa đổi nhằm phát huy hơn nữa hiệu lực và hiệu quả của nó trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ IX đã ra Nghị quyết số 43/2001/QH10 ngày 29/6/2001 về việc thành lập Uỷ ban dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992. Bản dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 đã được đưa ra thảo luận rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân. Sau khi tổng hợp các ý kiến đóng góp của nhân dân, bản dự thảo đã được chỉnh lí, bổ sung nhiều lần. Sau một thời gian làm việc khẩn trương với sự bàn bạc, thảo luận dân chủ, công khai, ngày 25/12/2001 Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ X với đa số tuyệt đối đã nhất trí thông qua Nghị quyết số 51/2001/QH10 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992.

b. Nội dung cơ bản được sửa đổi, bổ sung

Theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 có 24 vấn đề được sửa đổi, bổ sung trong Hiến pháp năm 1992:

- Sửa đổi, bổ sung Lời nói đầu theo hướng bổ sung cụm từ “phát huy truyền thống yêu nước” và viết lại đoạn cuối của Lời nói đầu nhằm nhấn mạnh và phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc trong thời đại ngày nay.

- Chương I - Chế độ chính trị (được sửa đổi, bổ sung 4 Điều: Điều 2, 3, 8, 9).

Hiến pháp năm 1992 sửa đổi khẳng định tư tưởng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta (Điều 2);hiến định mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh (Điều 3); đưa vấn đề đấu tranh chống tham nhũng lên nhiệm vụ hàng đầu (Điều 8); khẳng định và nâng cao hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Điều 9).

- Chương II - Chế độ kinh tế (được sửa đổi, bổ sung 5 Điều: Điều 15, Điều 16, Điều 19, Điều 21, Điều 25).

Hiến pháp năm 1992 sửa đổi xác định rõ nguyên tắc và định hướng nền kinh tế phù hợp với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng tăng (Điều 15); phát huy mọi tiềm năng kinh tế của đất nước (Điều 16); xác định rõ định hướng xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực kinh tế (Điều 19); bổ sung thêm thành phần kinh tế tiểu chủ (Điều 21); sửa đổi ghi rõ về hoạt động đầu tư về Việt Nam của người Việt Nam định cư ở nước ngoài(Điều 25).

- Chương III – Văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ (được sửa đổi, bổ sung trong 4 Điều: Điều 30, Điều 35, Điều 36, Điều 37).

Hiến pháp năm 1992 sửa đổi đã thể hiện rõ tưởng xây dựng một nền văn hoá Việt Nam hiện đại, vừa tiếp thu được những tinh hoa văn hoá nhân loại vừa giữ được bản sắc của văn hoá dân tộc (Điều 30); sửa đổi quy định: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu” thành “phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu.” (Điều 35); tiếp tục thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở (Điều 36); bổ sung phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu (Điều 37).

- Chương V - Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân (được sửa đổi, bổ sung 2 Điều: Điều 59 và Điều 75).

Hiến pháp năm 1992 sửa đổi đã mở rộng đối tượng trẻ em được nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập (Điều 59); tiếp tục thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, trong đó có người Việt Nam định cư ở nước ngoài (Điều 75).

- Chương VI - Quốc hội (sửa đổi, bổ sung tại Điều 84 (các điểm 4,5,7, 13) và Điều 91 (bãi bỏ điểm 8, sửa đổi điểm 9).

Theo đó, Quốc hội chỉ phân bổ ngân sách Trung ương còn phân bổ ngân sách địa phương thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhân dân địa phương (điểm 4 Điều 84); Quốc hội không những có nhiệm vụ và quyền hạn quyết định chính sách dân tộc như quy định trước đây mà còn quyết định chính sách tôn giáo của Nhà nước (điểm 5 Điều 84); Quốc hội có quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn (điểm 7 Điều 84); Quốc hội “quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp ký; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế khác đã được ký kết hoặc gia nhập theo đề nghị của Chủ tịch nước;  bãi bỏ quy định về thẩm quyền của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không họp, phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ và báo cáo với Quốc hội trong kỳ họp gần nhất của Quốc hội; quy định chỉ trong trường hợp Quốc hội không thể họp được thì Uỷ ban Thường vụ Quốc hội mới có quyền quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh và báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp gần nhất của Quốc hội.

- Chương VII - Chủ tịch nước (sửa đổi, bổ sung tại các điểm 4, 6, 7, 9 và 10 Điều 103).

Theo đó, Chủ tịch nước căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; bổ sung thêm: trong trường hợp Uỷ ban Thường vụ Quốc hội không thể họp được,ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương; a sửa đổi lại: Chủ tịch nước chỉ có quyền đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh vì thẩm quyền của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về các vấn đề quy định tại điểm 8 và 9 Điều 91 đã bị bãi bỏ. Ngoài ra, Điểm 9 Điều 103 về nội dung không có gì khác trước, tuy nhiên được quy định cụ thể hơn trước; điểm 10 Điều 103 được bổ sung thêm quy định Chủ tịch nước trình Quốc hội phê chuẩn các Điều ước quốc tế đã trực tiếp ký.

- Chương VIII - Chính phủ (sự sửa đổi, bổ sung ở điểm 8 Điều 112, điểm 2 Điều 114, Điều 116).

Theo đó, bổ sung thẩm quyền của Chính phủ trong đàm phán, ký kết Điều ước quốc tế nhân danh nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trừ trường hợp quy định tại điểm 10 Điều 103 (thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước); Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền đề nghị Quốc hội thành lập, bãi bỏ các bộ và các cơ quan ngang bộ, trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; bãi bỏ thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của thủ trưởng các cơ quan trực thuộc Chính phủ.

- Chương X - Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân (được sửa đổi, bổ sung tại Điều 137 và Điều 140).

Hiến pháp sửa đổi đã thu hẹp thẩm quyền của cơ quan kiểm sát, từ nay các cơ quan này chỉ thực hiện quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp; viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa phương chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân và trả lời chất vấn trước Hội đồng nhân dân về việc thực hành quyền công tố và các hoạt động tư pháp ở địa phương.

Tóm lại, trong 12 chương Hiến pháp năm 1992 chỉ có 4 chương là: Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa (Chương IV); Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (Chương IX); Quốc kì, Quốc huy, Quốc ca, ngày Quốc khánh (Chương XI); hiệu lực của Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp (Chương XII) là được hoàn toàn giữ nguyên, còn lại từ Lời nói đầu cho đến các chương khác đều có sửa đổi, bổ sung. Việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 đánh dấu một giai đoạn mới trong lịch sử lập hiến Việt Nam, đánh dấu một bước hoàn thiện chế độ chính trị, chế độ kinh tế, chính sách văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ, chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, củng cố việc tổ chức, phân công và phối hợp các nhánh quyền lực trong tổ chức bộ máy nhà nước theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân vì mục tiêu xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá của thế kỉ XXI.

                                                   GS.TS Thái Vĩnh Thắng

                                                Trường Đại học Luật Hà Nội

 

nguon VI OLET