ỦY BAN

Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam

THỂ DỤC THỂ THAO

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

        ******

                               ***********

Số: 757/2004/QĐ/UBTDTT-TTI

                   Hà Nội, ngày 21 tháng 5 năm 2004

QUYẾT ĐỊNH

CỦA BỘ TRƯỞNG-CHỦ NHIỆM ỦY BAN TDTT

Về việc ban hành Luật Cờ vua

BỘ TRƯỞNG - CHỦ NHIỆM ỦY BAN THỂ DỤC THỂ THAO

     BỘ TRƯỞNG – CHỦ NHIỆM ỦY BAN THỂ DỤC THỂ THAO

 

- Căn cứ Nghị định số 86/2002/NĐ-CP ngày 05/11/2002 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ;

- Căn cứ Nghị định số 22/2003/NĐ-CP ngày 11/3/2003 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cơ cấu tổ chức Uỷ ban Thể dục Thể thao;

- Xét yêu cầu  phát triển và nâng cao thành tích môn Cờ vua ở nước ta;

- Theo đề nghị của ông Vụ trưởng Vụ Thể thao thành tích cao I;

QUYẾT ĐỊNH

Điều 1: Ban hành Luật Cờ vua gồm 2 phần và phụ lục. Phần 1 gồm 14 Điều; Phần 2 gồm 16 Điều.

Điều 2: Luật Cờ vua này được áp dụng thống nhất trong các cuộc thi đấu từ cơ sở đến toàn quốc và thi đấu Quốc tế tại nước ta;

Điều 3: Luật này thay thế cho các Luật Cờ vua đã ban hành trước đây và có hiệu lực từ ngày ký.

Điều 4: Các ông Chánh Văn Phòng, Vụ trưởng Vụ Thể thao Thành tích cao I. Vụ trưởng Vụ tổ chức Cán bộ. Vụ Kế hoạch-Tài chính, Giám đốc các Sở Thể dục Thể thao địa phương, ngành, các đơn vị có liên quan thuộc Ủy ban Thể dục Thể thao  chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.

                                 BỘ TRƯỞNG - CHỦ NHIỆM

                                                                  ỦY BAN THỂ DỤC THỂ THAO

                                                                                                                                                                                                                                       Nguyễn Danh Thái (đã ký)


 

PHẦN MỘT

LUẬT CỜ VUA FIDE

Luật Cờ vua FIDE áp dụng cho mọi cuộc đấu trên bàn cờ.

Văn bản bằng tiếng Anh là văn bản gốc của Luật Cờ Vua, được thông qua tại Hội nghị FIDE lần thứ 71 tại Itanbul (Thổ Nhĩ Kỳ) vào tháng 11 năm 2000 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2001.

MỞ ĐẦU

          Luật cờ Vua không bao quát tất cả các tình huống có thể xảy ra trong quá trình ván cờ. Nếu có một tình huống xảy ra, nhưng không được điều nào trong Luật quy định rõ ràng, thì có thể nghiên cứu những tình huống tương tự được đề cập trong Luật để tìm ra một giải pháp thoả đáng. Luật Cờ Vua được xây dựng trên quan điểm cho rằng các trọng tài đều có đủ trình độ cần thiết, khả năng xét đoán lành mạnh và tinh thần khách quan tuyệt đối. Một luật lệ quá chi tiết sẽ tước mất quyền xét đoán của trọng tài, làm hạn chế sự sáng tạo của trọng tài trong khi tìm cách giải quyết vấn đề một cách hợp lý, công bằng và sát với thực tế. FIDE mong rằng tất cả các kỳ thủ và các Liên đoàn thừa nhận quan điểm này.

          Mỗi Liên đoàn thành viên được áp dụng những điều luật chi tiết hơn với những điều kiện sau đây:

(a) Luật riêng của từng Liên đoàn không được có điều nào trái với Luật chính thức của FIDE.

b) Luật riêng của Liên đoàn chỉ áp dụng trong phạm vi địa bàn thuộc quyền quản lý Liên đoàn.

c) Luật riêng của Liên đoàn không có giá trị cho bất kỳ trận đấu nào của FIDE; giải vô địch thế giới, đấu để phong cấp hoặc đấu để giành một danh hiệu hoặc đấu để tính hệ số (Râytinh).

LUẬT CHƠI

Điều 1. BẢN CHẤT VÀ MỤC ĐÍCH CỦA MỘT VÁN CỜ

          1.1. Ván cờ được tiến hành giữa hai đấu thủ bằng cách luân phiên nhau di chuyển các quân cờ trên một chiếc bàn hình vuông gọi là “bàn cờ”. Đấu thủ cầm quân trắng mở đầu ván cờ. Một đấu thủ được quyền “có lượt đi”, khi đấu thủ kia đã thực hiện xong nước đi của mình.

          1.2. Mục tiêu của mỗi đấu thủ là tấn công Vua của đối phương sao cho đối phương không có nước đi đúng luật nào có thể tránh Vua khỏi bị bắt ở nước đi tiếp theo. Đấu thủ đạt được điều đó được gọi là đã “chiếu hết” Vua đối phương và thắng ván cờ. Đấu thủ có Vua bị chiếu hết thua ván cờ.


          1.3. Nếu xuất hiện thế cờ mà không một đấu thủ nào có thể chiếu hết được thì ván cờ kết thúc hoà.

Điều 2. VỊ TRÍ BAN ĐẦU CỦA CÁC QUÂN TRÊN BÀN CỜ

          2.1. Bàn cờ gồm 64 ô vuông bằng nhau, xen kẽ các ô sáng màu (các ô trắng) và các ô sẫm màu (các ô đen).

          Bàn cờ được đặt giữa đấu thủ sao cho ô góc bên phải của đấu thủ có màu trắng.

          2.2. Khi bắt đầu ván cờ, một đấu thủ có 16 quân màu sáng (các quân trắng), đấu thủ kia có 16 quân màu sẫm (các quân đen):

          Các quân cờ đó thường được ký hiệu bằng những biểu tượng như sau:

Bên trắng:                                                                                                                                                                                            

Một Vua trắng  

Một Hoàng Hậu trắng (gọi tắt là Hậu) 

Hai Xe trắng,  

Hai Tượng trắng,      

Hai Mã trắng,   

Tám Tốt trắng,     

Bên đen:

Một Vua đen,

 

Một Hoàng Hậu đen,  

Hai Xe đen, 

Hai Tượng đen,    

Hai Mã đen,   

Tám Tốt đen, 

                                                

Vị trí ban đầu của các quân trên bàn cờ như sau (Hình 1):


  (Hình 1)

Tám dãy ô theo chiều dọc bàn cờ được gọi là “các cột dọc”. Tám dãy ô theo chiều ngang bàn cờ được gọi là “các hàng ngang”. Đường nối các ô cùng màu đính vào nhau ở góc được gọi là “đường chéo”.

Điều 3: NƯỚC ĐI CỦA CÁC QUÂN

3.1. Không được di chuyển một quân tới ô có quân cùng màu đang đứng. Nếu một quân đi tới một ô cờ đang có quân của đối phương đứng thì quân của đối phương bị bắt, được bỏ ra khỏi bàn cờ và tính là một phần của nước đi đó. Một quân được cho là đang tấn công một quân của đối phương nếu quân đó có thể thực hiện bước bắt quân tại ô cờ nêu trên theo các điều 3.2 đến 3.8.

3.2. Quân Tượng có thể đi tới bất cứ ô cờ nào trên cùng đường chéo mà nó đang đứng (hình 2).

(Hình 2)

3.3. Quân Xe có thể đi tới bất cứ ô cờ nào trên cùng cột dọc hoặc hàng ngang mà nó đang đứng (Hình 3).


(Hình 3)

3.4. Quân Hoàng Hậu (gọi tắt là Hậu) có thể đi tới bất cứ ô cờ nào trên cùng cột dọc, hàng ngang hoặc đường chéo mà nó đang đứng (hình 4).

(Hình 4)

3.5. Khi thực hiện những nước đi này, Quân Tượng, quân Xe hoặc quân Hậu không được nhảy qua đầu các quân đang đứng giữa đường.

3.6. Quân Mã có thể đi từ ô nó đang đứng đến một trong các ô gần nhất nhưng không nằm trên cùng hàng ngang, cột dọc hay đường chéo với ô nó đang đứng. Mã có thể nhảy qua ô có quân đứng. (Hình 5)

(Hình 5)

3.7. (a). Tốt có thể tiến tới một ô cờ trống ngay phía trước nó, trên cùng cột dọc hoặc:


(b). Ở nước đi đầu tiên của mình Tốt có thể đi như điểm (a), hoặc chọn cách tiến hai ô cờ trên cùng cột dọc với điều kiện cả hai ô cờ đó đều trống, hoặc:

(c). Tốt đi theo đường chéo tới một ô cờ ngay phía trước nó trên cột dọc bên cạnh đang bị một quân của đối phương chiếm giữ và bắt quân này (Hình 6)

(Hình 6)

(d). Khi Tốt đối phương từ vị trí ban đầu tiến hai ô vượt qua ô cờ đang bị Tốt bên có lượt đi kiểm soát, thì Tốt bên có lượt đi có thể bắt Tốt đối phương vừa đi hai ô như khi Tốt đó thực hiện nước đi một ô. Nước bắt này chỉ có thể thực hiện ngay sau nước tiến Tốt hai ô và được gọi là “bắt Tốt qua đường”. (Hình 7)

(Hình 7)

(e). Khi một Tốt tiến tới hàng ngang cuối cùng nó phải được đổi thành Hậu, hoặc Xe, hoặc Tượng, hoặc Mã cùng màu, ngay trong nước đi này. Sự lựa chọn để đổi quân của đấu thủ không phụ thuộc vào các quân đã bị bắt trước đó. Sự đổi Tốt thành một quân khác được gọi là “phong cấp” cho Tốt và quân mới có hiệu lực ngay.

3.8. (a). Quân Vua có thể đi bằng hai cách khác nhau:

(i). Quân Vua đi từ ô cờ nó đang đứng tới một ô bất kỳ liền bên nếu ô cờ đó không bị quân nào của đối phương tấn công. (Hình 8)


(Hình 8)


Các quân của đối phương được coi là đang tấn công một ô thậm chí cả khi chúng không thể di chuyển.

(ii). “Nhập thành” đây là một nước đi của Vua và một trong hai Xe cùng màu, trên cùng hàng ngang, đều tính chung là một nước đi của Vua và được thực hiện như sau:

Vua di chuyển ngang hai ô từ vị trí ban đầu sang phía Xe tham gia nhập thành, tiếp theo Xe nói trên di chuyển nhảy qua Vua tới ô cờ quân Vua vừa đi qua (Hình 9 -12)

(1). Không được phép nhập thành:

[a]. Nếu Vua đã di chuyển rồi, hoặc

[b]. Nếu Xe phía nhập thành đã di chuyển rồi.

(2). Tạm thời chưa được nhập thành:

{a}. Nếu ô Vua đang đứng, ô Vua phải đi qua hoặc ô Vua định tới đang bị một hay nhiều quân của đối phương tấn công.

[b]. Nếu giữa Vua và quân Xe định nhập thành có quân khác đang đứng.

[c]. Quân Vua được coi là “bị chiếu” nếu như nó bị một hay nhiều quân của đối phương tấn công, thậm chí cả khi những quân này không thể tự di chuyển.

Việc thông báo nước chiếu Vua là không bắt buộc.

3.9. Các quân không được phép di chuyển nếu nước đi đó đặt Vua hoặc để Vua của mình ở thế bị chiếu.

Điều 4: THỰC HIỆN NƯỚC ĐI

4.1. Các nước đi phải được thực hiện chỉ bằng một tay.

4.2. Đấu thủ có lượt đi có thể sửa một hay nhiều quân cho đúng ô của chúng, với điều kiện phải thông báo trước ý định của mình (chẳng hạn bằng cách nói “tôi sửa quân”)

4.3. Ngoài trường hợp được quy định ở điều 4.2, nếu đấu thủ có lượt đi cố ý chạm vào:

(a). Một hay nhiều quân của mình đấu thủ phải di chuyển quân bị chạm đầu tiên nếu quân đó có thể di chuyển được.

(b). Một hay nhiều quân của đối phương, đối thủ phải bắt quân bị chạm đầu tiên nếu quân đó có thể bắt được.

(c). Các quân khác màu, đấu thủ chạm quân phải bắt quân của đối phương bằng quân của mình, hoặc nếu điều đó không đúng luật thì phải đi hoặc bắt quân bị chạm đầu tiên nếu quân đó có thể đi được hoặc bắt được. Nếu không thể xác định được quân nào bị chạm đầu tiên, thì quân của đấu thủ đó bị coi là chạm trước quân của đối phương.


4.4. (a). Nếu một đấu thủ cố ý chạm vào Vua và Xe của mình, thì phải nhập thành về phía Xe đó nếu nước nhập thành hợp lệ.

(b). Nếu một đấu thủ cố ý chạm vào Xe trước và sau đó là Vua của mình, đấu thủ đó không được phép nhập thành tại nước đi này và tình huống sẽ được giải quyết theo điều 4.3a.

(c). Nếu một đấu thủ có ý định nhập thành mà chạm vào Vua, hoặc chạm Vua và Xe cùng một lúc nhưng nhập thành về phía này không hợp lệ đấu thủ phải thực hiện một nước đi khác đúng luật bằng quân Vua của mình bao gồm cả nước nhập thành về phía khác. Nếu Vua cũng không có nước đi hợp lệ, thì đấu thủ được phép thực hiện một nước đi khác hợp lệ.

4.5. Nếu không một quân nào trong số các quân đã chạm có thể di chuyển được, hoặc bắt quân được, thì đấu thủ có thể thực hiện một nước đi bất kỳ khác hợp lệ.

4.6. Đấu thủ mất quyền khiếu nại các vi phạm luật này của đối phương nếu đã cố tình chạm tay vào quân cờ.

4.7. Khi một quân đã được buông tay đặt trên ô cờ như một nước đi hợp lệ hoặc một phần của nước đi hợp lệ thì sau đó quân cờ này không thể được di chuyển tới một ô cờ khác. Nước đi được coi là hoàn thành khi tất cả các yêu cầu liên quan tới Điều 3 được thoả mãn.

Điều 5: HOÀN THÀNH VÁN CỜ

5.1. (a). Đấu thủ chiếu hết Vua đối phương bằng một nước đi hợp lệ – thắng ván cờ. Ván cờ ngay lập tức kết thúc.

(b). Đấu thủ thắng ván cờ khi đối phương tuyên bố xin thua. Ván cờ kết thúc ngay lúc đó.

5.2. (a). Ván cờ hoà khi đấu thủ có lượt đi không có nước đi hợp lệ nào và Vua của đấu thủ đó không bị chiếu. Ván cờ được gọi là kết thúc ở thế “hết nước đi”. Ván cờ ngay lập tức kết thúc với điều kiện nước dẫn tới thế “hết nước đi” (Pát) là nước đi hợp lệ.

(b). Ván cờ hoà khi xuất hiện thế cờ, trong đó không đấu thủ nào có thể chiếu hết Vua của đối phương bằng các nước đi hợp lệ. Ván cờ được gọi là kết thúc ở thế “không có khả năng đánh thắng”. Ván cờ ngay lập tức kết thúc, với điều kiện nước dẫn tới thế cờ này là nước đi hợp lệ.

(c). Ván cờ hoà theo sự thoả thuận của hai đấu thủ trong quá trình ván đấu. Ván cờ kết thúc ngay lúc đó. (Xem điều 9.1).

(d). Ván cờ có thể hoà nếu một thế cờ giống hệt sẽ xuất hiện hoặc đã xuất hiện ba lần trên bàn cờ. (Xem điều 9.2).

(e). Ván cờ có thể hoà nếu trong 50 nước đi cuối cùng liên tiếp nhau các đấu thủ đã không thực hiện bất kỳ sự di chuyển Tốt nào và không có nước bắt quân nào. (Xem điều 9.3).


LUẬT THI ĐẤU

Điều 6: ĐỒNG HỒ CỜ

6.1. “Đồng hồ” là đồng hồ có hai chỉ số thời gian được nối với nhau để tại một thời điểm chỉ có giờ của một bên chạy. Thuật ngữ “đồng hồ” dùng trong Luật Cờ Vua là một trong hai chỉ số thời gian.

“Rụng cờ” là sự hết thời gian cho phép đối với một đấu thủ.

6.2. (a). Khi sử dụng đồng hồ cờ, mỗi đấu thủ phải thực hiện một số lượng tối thiểu hoặc tất cả các nước đi trong một khoảng thời gian cho phép; khi sử dụng đồng hồ điện tử, ngoài thời gian kiểm tra chung có thể bổ sung một số lượng thời gian nhất định cho mỗi nước đi. Tất cả các điều trên cần phải được xác định trước.

(b). Thời gian còn lại chưa dùng hết của một đấu thủ ở một giai đoạn được cộng thêm vào thời gian của đấu thủ đó ở giai đoạn tiếp theo, trừ trường hợp qui định thời gian này cho từng nước đi. Khi cả hai đấu thủ đều được nhận một lượng thời gian chính quy định cho suy nghĩ và một lượng thời gian ấn định thêm cho mỗi nước đi thì thời gian chính bắt đầu tính sau khi thời gian ấn định đã hết. Nếu đấu thủ bấm dừng đồng hồ của mình trước khi hết thời gian ấn định thì thời gian suy nghĩ chính sẽ vẫn được tính, không phụ thuộc vào tỷ lệ thời gian ấn định đã sử dụng.

6.3. Mỗi chỉ số thời gian có một “lá cờ”. Ngay lập tức sau khi rụng cờ, các yêu cầu ở điều 6.2(a) phải được kiểm tra.

6.4. Trước khi bắt đầu ván đấu, trọng tài sẽ quyết định đồng hồ cờ được đặt ở vị trí nào.

6.5. Khi bắt đầu ván cờ, đồng hồ của đấu thủ cầm quân trắng được cho chạy trước.

6.6. Nếu cả hai đấu thủ cùng vắng mặt từ đầu ván đấu, đấu thủ cầm quân trắng sẽ bị mất toàn bộ thời gian cho đến khi đấu thủ này có mặt (trừ khi điều lệ giải hoặc trọng tài có quy định khác).

6.7. Đấu thủ sẽ bị thua ván cờ nếu đến thi đấu muộn hơn m?t gi? đồng hồ sau khi bắt đầu cuộc đấu theo lịch (trừ khi điều lệ giải hoặc trọng tài có quy định khác).

6.8. (a). Trong quá trình ván đấu, mỗi đấu thủ khi đã thực hiện xong nước đi của mình trên bàn cờ cần phải bấm dừng đồng hồ của mình và cho đồng hồ của đối phương chạy. Đấu thủ phải luôn nhớ bấm đồng hồ. Nước đi của đấu thủ chưa được coi là hoàn thành khi chưa thực hiện việc bấm đồng hồ, trừ khi nước đi được thực hiện kết thúc ván cờ. (Xem các điều 5.1 và 5.2).

Thời gian giữa khi thực hiện nước đi trên bàn cờ đến lúc bấm đồng hồ được xem như là một phần của thời gian cho phép đối với đấu thủ.


(b). Đấu thủ phải bấm đồng hồ bằng chính tay di chuyển quân. Nghiêm cấm để sẵn ngón tay ở nút bấm hoặc “trực sẵn” phía trên nút bấm.

(c). Các đấu thủ phải sử dụng đồng hồ một cách nghiêm túc. Nghiêm cấm đập mạnh đồng hồ hoặc gõ nó từ phía trên. Việc điều khiển đồng hồ sai quy định sẽ bị phạt theo điều 13.4.

(d). Nếu một đấu thủ không thể sử dụng đồng hồ, một trọng tài có thể được cử giúp đấu thủ làm việc này. Trọng tài sẽ điều khiển đồng hồ một cách vô tư.

6.9. Lá cờ được công nhận là đã rụng khi trọng tài ghi nhận thực trạng đó hoặc một trong hai đấu thủ tuyên bố điều đó và gọi trọng tài xác nhận.

6.10. Đấu thủ sẽ bị thua ván cờ nếu không thực hiện đủ số lượng cước đi được quy định trước trong thời gian cho phép, trừ khi áp dụng các điều 5.1 hoặc một trong các điều 5.2(a), (b), (c). Mặc dù vậy, ván cờ sẽ hoà nếu xẩy ra thế cờ mà đối phương không thể chiếu hết bằng hàng loạt bất kỳ các nước đi nào hợp lệ.

6.11. Các chỉ số trên đồng hồ được coi là quyết định trong trường hợp đồng hồ không có hư hỏng rõ ràng nào. Đồng hồ hư hỏng cần phải được thay thế. Khi xác định thời gian đặt trên đồng hồ mới thay thế, trọng tài cần phải có quyết định hợp lý nhất.

6.12. Nếu cả hai lá cờ cùng đã tụng và không thể xác định được lá cờ nào rụng trước, ván đấu sẽ tiếp tục.

6.13. (a). Nếu như ván đấu cần phải tạm dừng, trọng tài phải dừng cả hai đồng hồ.

(b). Đấu thủ có thể dừng đồng hồ trong trường hợp đề nghị trọng tài can thiệp, chẳng hạn trong trường thiếu quân yêu cầu trong nước đi phong cấp.

(c). Trọng tài là người quyết định, khi nào thì ván đấu được tiếp tục lại.

(d). Nếu một đấu thủ dừng đồng hồ để đề nghị trọng tài can thiệp, trọng tài sẽ xác định xem đấu thủ có lý do chính đáng để làm việc đó hay không. Nếu rõ ràng rằng đấu thủ không có lý do chính đáng khi dừng đồng hồ, đấu thủ sẽ bị phạt theo điều 13.4.

6.14. Nếu như xảy ra một sự vi phạm luật nào đó và cần phải khôi phục lại đúng thế cờ trước khi vi phạm, trọng tài cần phải quyết định hợp lý khi xác định thời gian cần phải thiết lập trên đồng hồ. Nếu cần thiết trọng tài sẽ chỉnh lại thời gian đã sử dụng trên đồng hồ.

6.15. Các màn ảnh, màn hình vi tính hoặc các bàn cờ minh hoạ thế cờ hiện hành trên bàn cờ, các nước đi và số lượng các nước đi đã được thực hiện cũng như các đồng hồ đặt cho khán giả xem. Đấu thủ không được dựa vào những thiết bị này để khiếu nại.

Điều 7: CÁC THẾ CỜ KHÔNG HỢP LỆ

7.1. (a). Nếu trong quá trình ván đấu phát hiện rằng vị trí ban đầu của các quân cờ đặt sai từ đầu ván thì ván cờ phải được huỷ bỏ và chơi ván mới.

nguon VI OLET