PHẦN IV

NHỮNG ĐIỀU LUẬT CHO CÁC CUỘC THI ĐẤU ĐIỀN KINH QUỐC TẾ

Điều 101

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

Tất cả các cuộc thi đấu quốc tế như đã được xác định ở Điều 1 phải được tổ chức theo đúng các điều luật của IAAF và điều này phải được nêu rõ trong tất cả các thông báo, các hình thức quảng cáo, các chương trình thi đấu và các tài liệu được ấn hành.

Ghi chú: Tất cả các thành viên cần chấp nhận và áp dụng các điều luật này của IAAF đối với việc tổ chức các cuộc thi đấu điền kinh riêng của mình.

CHƯƠNG I

Điều 110

CÁC QUAN CHỨC QUỐC TẾ

Tại các cuộc thi đấu được tổ chức theo điều luật 12.1 (a) và (b), các quan chức sau đây sẽ được quốc tế bổ nhiệm

(i) Đại diện hoặc các đại diện tổ chức

(ii) Các đại diện kỹ thuật

(iii) Đại diện y tế

(iv) Đại diện kiểm tra doping

(v) Các quan chức kỹ thuật quốc tế và các quan chức kỹ thuật khu vực.

(vi) Các trọng tài giám định quốc tế về đi bộ thể thao. Các trọng tài giám định về đi bộ thể thao của khu vực

(vii) Các trọng tài đo đường quốc tế

(viii) Trọng tài giám định quốc tế về ảnh đích

(ix) Ban trọng tài phúc thẩm

Số lượng quan chức được chỉ định cho từng chức danh sẽ được xác định theo các điều lệ thi đấu hiện hành của IAAF (hoặc của hiệp hội khu vực).

Tại các cuộc thi đấu được tổ chức theo Điều luật 12.1 (a):

Việc lựa chọn các nhân sự theo khoản (i), (ii), (iii), (iv), và (ix) sẽ do Hội đồng IAAF tiến hành.

Các nhân sự ở mục (v) phải do Hội đồng IAAF lựa chọn trong số những thành viên của Hội đồng các quan chức kỹ thuật quốc tế. Các nhân sự ở mục (vi) do Hội đồng IAAF lựa chọn trong số những thành viên của Hội đồng trọng tài giám định quốc tế về đi bộ thể thao. Các nhân sự ở mục (vii) do các đại diện kỹ thuật của IAAF lựa chọn.

Hội đồng IAAF sẽ phê chuẩn các tiêu chí lựa chọn, trình độ chuyên môn và chức trách của quan chức đã được đề cập ở trên. Các thành viên của IAAF có quyền đề xuất những nhân sự có trình độ chuyên môn thích hợp cho việc lựa chọn.

Tại các cuộc thi đấu được tổ chức theo Điều luật 12.1(b). Các nhân sự này sẽ do liên đoàn khu vực có liên quan lựa chọn. Trong trường hợp là các quan chức kỹ thuật khu vực và các trọng tài giám định về đi bộ thể thao của khu vực thì phải do Liên đoàn khu vực lựa chọn từ danh sách các quan chức kỹ thuật khu vực và các trọng tài giám định về đi bộ thể thao của liên đoàn khu vực đó.

Đối với các cuộc thi đấu được tổ chức trong khuôn khổ Điều luật 12.1 (a) và (f), IAAF có thể cử ra một Uỷ viên phụ trách quảng cáo. Đối với các cuộc thi đấu theo điều luật 12.1 (b) và (g), việc chỉ định các nhân sự đều do Liên đoàn khu vực tiến hành, và đối với các cuộc thi đấu theo điều luật 12.1 (c) là do cơ quan đứng ra tổ chức lựa chọn; đối với các cuộc thi đấu theo điều luật 12.1(e) và (h) là do nước thành viên thuốc IAAF lựa chọn.

Ghi chú: Các quan chức quốc tế phải mặc trang phục riêng để dễ phân biệt.

Điều 111

CÁC ĐẠI DIỆN TỔ CHỨC

Các đại diện tổ chức phải giữ liên lạc chặt chẽ với ủy ban tổ chức vào bất cứ lúc nào và phải thường xuyên báo cáo cho Hội đồng IAAF, và khi cần thiết họ sẽ giải quyết những vấn đề có liên quan đến trách nhiệm và các nghĩa vụ về tài chính của nước thành viên đăng cai tổ chức và Ủy ban tổ chức. Những đại diện này phải phối hợp làm việc với các đại diện kỹ thuật.

ĐIỀU 112

CÁC ĐẠI DIỆN KỸ THUẬT

Các đại diện kỹ thuật luôn giữ liên lạc với ban tổ chức là nơi sẽ cung cấp cho họ mọi sự hỗ trợ cần thiết. Các đại diện này chịu trách nhiệm đảm bảo cho tất cả các khâu chuẩn bị về kỹ thuật hoàn tòan phù hợp với những điều luật về kỹ thuật của IAAF.

Các đại diện kỹ thuật sẽ chuyển tới cơ quan tổ chức những đề nghị về thời gian biểu cho các môn thi, các tiêu chuẩn vận động viên, các dụng cụ sẽ được sử dụng và sẽ quyết định các tiêu chuẩn về chuyên môn đối với các môn thi nhảy, ném và những cơ sở để xác định các đợt chạy loại và các vòng phải được rút thăm cho các môn chạy.

Các đại diện kỹ thuật phải đảm bảo việc ban hành các qui định về kỹ thuật (điều lệ về kỹ thuật) tới tất cả các nước thành viên tham gia thi đấu đúng thời gian thích hợp trước khi thi đấu.

Các đại diện kỹ thuật chịu trách nhiệm đối với tất cả các mặt chuẩn bị kỹ thuật cần thiết cho việc tổ chức các cuộc thi đấu điền kinh. Các Đại diện kỹ thuật sẽ kiểm tra các vận động viên vào thi đấu và có quyền loại bỏ vận động viên nào đó vì lý do kỹ thuật (Việc loại bỏ vận động viên và những lý do không phải thuộc về kỹ thuật phải áp dụng theo nguyên tắc riêng của IAAF hoặc của Hội đồng khu vực).

Đại diện kỹ thuật phải sắp xếp các đợt chạy, các vòng đấu và các nhóm thi đấu cho các môn thi phối hợp. Đại diện kỹ thuật phải có báo cáo bằng văn bản riêng về các mặt chuẩn bị cho thi đấu.

Họ phải phối hợp làm việc với các đại diện về tổ chức.

Tại các cuộc thi đấu theo Điều luật 12.1 (a), (b), (c), các Đại diện kỹ thuật phải chỉ dẫn tường tận cho các quan chức kỹ thuật.

Điều 113

ĐẠI DIỆN Y TẾ - Y HỌC

Đại diện y tế có thẩm quyền cao nhất đối với các vấn đề y tế. Người đại diện này phải đảm bảo rằng các phương tiện cần thiết cho việc kiểm tra y học, điều trị và sơ cấp cứu sẽ thường trực sẵn sàng tại nơi thi đấu và việc chăm sóc y tế sẽ được phục vụ tới tận nơi ở của các vận động viên. Đồng thời người đại diện này có quyền sắp đặt việc xác định giới tính các vận động viên nếu xét thếy cần thiết.

 

Điều 114

ĐẠI DIỆN KIỂM TRA DOPING

Đại diện kiểm tra doping phải liên hệ chặt chẽ với ban tổ chức để đảm bảo việc cung cấp các phương tiện cần thiết cho việc kiểm tra doping. Người đại diện này có trách nhiệm đối với tất cả các vụ việc liên quan đến kiểm tra doping.

 

Điều 115

CÁC QUAN CHỨC KỸ THUẬT QUỐC TẾ

Các đại diện kỹ thuật phải cử ra một Giám đốc kỹ thuật quốc tế trong số các quan chức kỹ thuật quốc tế đã được bổ nhiệm, nếu như trước đó chưa có ai bổ nhiệm chức vụ này

Bất cứ khi nào có thể, vị Giám đốc kỹ thuật quốc tế này phải cử ra ít nhất là một quan chức kỹ thuật quốc tế cho mỗi môn thi đấu trong chương trình. Vị quan chức kỹ thuật quốc tế này phải hỗ trợ về mọi mặt cần thiết cho trọng tài của cuộc thi đấu đó.

Họ phải có mặt liên tục trong thời gian thi đấu tại môn thi mà họ được phân công và phải đảm bảo việc tiến hành thi đấu diễn ra đúng với các điều kiện kỹ thuật của IAAF, luật thi đấu và các quyết định thích hợp có thể được đưa ra bởi các đại diện kỹ thuật.

Khi có vấn đề nảy sinh hoặc quan sát thấy có bất cứ vấn đề nào cần phải nhắc nhở thì trước tiên quan chức kỹ thuật quốc tế sẽ chuyển vấn đề cần nhắc nhở đến tổ trưởng trọng tài giám định của môn thi và nếu cần thiết thì đưa ra những ý kiến góp ý về những gì cần phải làm. Nếu việc góp ý này không được chấp nhận và nếu có sự vi phạm rõ ràng các điều luật kỹ thuật của IAAF, luật thi đấu hoặc các quyết định do các đại diện kỹ thuật đưa ra thì quan chức kỹ thuật quốc tế sẽ quyết định. Nếu sự việc vẫn chưa được giải quyết thì phải được chuyển tiếp lên địa diện kỹ thuật của IAAF.

Khi kết thúc các môn thi nhảy, ném, quan chức kỹ thuật quốc tế phải ký tên mình vào các phiếu ghi kết quả thi đấu.

Ghi chú 1: Tại các cuộc thi đấu được tổ chức theo Điều luật 12.1 (b) và (d), những qui định nêu trên cũng áp dụng đối với các quan chức kỹ thuật khu vực đã được bổ nhiệm.

Ghi chú 2: Khi vắng mặt trọng tài, quan chức kỹ thuật quốc tế sẽ làm việc với Trưởng trọng tài giám định có liên quan.

 

Điều 116

CÁC TRỌNG TÀI GIÁM ĐỊNH QUỐC TẾ VỀ ĐI BỘ THỂ THAO

Nhóm trọng tài giám định quốc tế về đi bộ thể thao phải do Ủy ban chuyên trách về đi bộ thể thao của IAAF thành lập theo các tiêu chuẩn đã được Hội đồng IAAF phê chuẩn.

Các trọng tài giám định đi bộ thể thao được chỉ định cho tất cả các cuộc thi đấu quốc tế qui định ở Điều 12.1 (a) phải là thành viên của hội đồng trọng tài giám định quốc tế về đi bộ thể thao.

Ghi chú: Các trọng tài giám định về đi bộ thể thao được bổ nhiệm cho các cuộc thi đấu theo Điều luật 12.1(b) đến (d) phải là thành viên của hội đồng trọng tài giám định quốc tế về đi bộ thể thao hoặc là thành viên của hội đồng trọng tài giám định về đi bộ thể thao của các khu vực.

 

TRỌNG TÀI ĐO ĐƯỜNG QUỐC TẾ

Tại các cuộc thi đấu được tổ chức theo Điều 12.1 (a) tới (h) một trọng tài đo đường quốc tế sẽ được chỉ định để kiểm tra tuyến đường mà tại đó các môn thi trên đường được tổ chức hoàn toàn hoặc không hoàn toàn bên ngoài sân vận động.

Trọng tài đo tuyến đường được chọn phải là thành viên của bộ phận đo đạc tuyến đường quốc tế IAAF/AIMS (hạng A hoặc B)

Tuyến đường phải được đo vào thời gian hợp lý trước cuộc thi. Trọng tài đo đường phải kiểm tra và xác nhận tuyến đường này nếu anh ta thấy nó phù hợp tiêu chuẩn của luật về đường đua của IAAF (luật 240.3 và chú thích tương ứng).

Trọng tài đo đường phải phối hợp với uỷ ban tổ chức trong việc chuẩn bị tuyến đường và chứng kiến việc chỉ đạo cuộc đua để đảm bảo rằng tuyến đường mà các vận động viên chạy sau đó chính là tuyến đường đã được đo và được khẳng định. Anh ta phải di chuyển cho đại diện kỹ thuật một chứng chỉ thích hợp.

Điều 117

TRỌNG TÀI GIÁM ĐỊNH QUỐC TẾ VỀ ẢNH ĐÍCH

Tại tất cả các cuộc thi đấu theo Điều luật 12.1(a) và (b), vị trọng tài giám định quốc tế về ảnh đích do IAAF hoặc liên đoàn khu vực có liên quan bổ nhiệm riêng sẽ giám sát toàn bộ các hoạt động về chụp ảnh đích.

 

Điều 118

TRỌNG TÀI PHÚC THẨM

Tất cả các cuộc thi đấu được tổ chức theo điều luật 12.1 (a), (b) và (c), phải cử ra một ban trọng tài phúc thẩm; thông thường ban này gồm 3, 5 hoặc 7 thành viên. Một trong những thành viên của ban sẽ là chủ tịch và những người khác là thư ký. nếu hoặc khi cần thiết thì thư ký có thể là một người không thuộc thành phần của Ban.

Ngoài ra, cần có thêm một trọng tài phúc thẩm tương tự tại các cuộc thi đấu khác mà những đơn vị đướng ra tổ chức cho rằng điều đó là cần thiết nhằm đảm bảo cho việc thực hiện các cuộc đấu một cách hợp lệ.

Các nhiệm vụ chủ yếu của trọng tài phúc thẩm là giải quyết tất cả các khiếu nại theo điều luật 146, và giải quyết tất cả những rắc rối nảy sinh trong quá trình thi đấu được gửi tới. Những quyết định của ban này sẽ là quyết định cuối cùng. Tuy nhiên có thể xem lại các quyết định nếu có bằng chứng thuyết phục mới được đưa ra và nếu quyết định mới này là vẫn thích hợp.

Các quyết định liên quan đến những điểm mà không nằm trong phạm vi của các luật thì phải được Chủ tịch ban trọng tài phúc thẩm báo cáo ngay sau đó với Tổng thư ký IAAF.

 

Điều 119

CÁC QUAN CHỨC CỦA MỘT CUỘC THI ĐẤU

 

Ban tổ chức cuộc thi đấu sẽ bổ nhiệm tất cả các quan chức, trọng tài theo đúng các điều luật của nước thành viên mà cuộc thi đấu được tổ chức ở nước đó, nếu là các cuộc đấu theo Điều luật 12.1 (a), (b) hoặc (c) thì phải theo đúng các Điều luật và các thủ tục tổ chức thi đấu quốc tế thích hợp.

Danh sách các loại quan chức, trọng tài sau đây được xem là thành phần cần thiết cho các cuộc thi đấu quốc tế quan trọng. Tuy vận Ban tổ chức có thể thay đổi một vài thành phần tùy theo hoàn cảnh cụ thể của địa phương.

CÁC QUAN CHỨC ĐIỀU HÀNH

Một Trưởng ban tổ chức

Một Tổng Trọng tài (phụ trách điều hành)

Một Trưởng ban kỹ thuật

Một Trưởng ban thông tin, gọi số

CÁC TRỌNG TÀI ĐIỀU HÀNH THI ĐẤU

Một (hoặc vài) trọng tài giám sát các môn chạy

Một (hoặc vài) trọng tài giám sát các môn nhảy, ném đẩy

Một (hoặc vài) trọng tài giám sát các môn phối hợp

Một (hoặc vài) trọng tài giám sát cho các môn thi đấu ngoài sân vận động.

Một tổ trưởng trọng tài giám định và một số lượng cần thiết các trọng tài giám định các môn thi chạy trong sân vận động.

Một tổ trưởng trọng tài giám định và một số lượng cần thiết các trọng tài giám định các môn thi nhảy, ném đẩy.

Một tổ trưởng trọng tài giám định và 5 trọng tài giám định cho mỗi môn đi bộ thể thao ở trong khu vực sân vận động.

Một tổ trưởng trọng tài giám định và 8 trọng tài giám định cho mỗi môn đi bộ thể thao ở ngoài khu vực sân vận động.

Các trọng tài đi bộ thể thao khác, khi cần thiết, bao gồm những người giữ hồ sơ, những người điều khiển bảng nhắc nhở, cảnh cáo.

Một tổ trưởng trọng tài giám thị và một số lượng cần thiết các trọng tài giám thị cho các môn chạy.

Một tổ trưởng trọng tài bấm giờ và một số lượng cần thiết các trọng tài bấm giờ.

Một trọng tài điều phối xuất phát và một số lượng thích hợp các trọng tài và trọng tài bắt phạm quy.

Một (hoặc vài) trợ lý trọng tài xuất phát.

Một tổ trưởng trọng tài và một số lượng thích hợp các trọng tài theo dõi số vòng chạy.

Một (hoặc vài) trọng tài thư ký.

Một (hoặc vài) trọng tài lễ tân.

Một (hoặc vài) trọng tài đo tốc độ gió

Một tổ trưởng và một số lượng cần thiết các trọng tài giám định ảnh đích.

Một (hoặc vài) trọng tài giám định đo lường (điện tử)

Một (hoặc vài) trọng tài giám định trang phục và số đeo.

CÁC TRỌNG TÀI KHÁC

Một (hoặc vài) trọng tài thông tin.

Một (hoặc vài) trọng tài tổng hợp số liệu.

Một người phụ trách quảng cáo

Một giám định viên sân bãi và dụng cụ

Một (hoặc vài) bác sỹ.

Các nhân viên phục vụ cho các vận động viên, các quan chức và giới báo chí (tạp vụ).

Các trọng tài giám sát các cuộc thi và các tổ trưởng trọng tài giám định phải đeo phù hiệu riêng để phân biệt.

Nếu cần, có thể cử thêm các cán bộ làm trợ lý. Khu vực thi đấu phải luôn luôn giữ được trật tự, ngăn nắp để không ảnh hưởng đến công việc của các quan chức.

Nơi tổ chức các cuộc đấu của các vận động viên nữ cần phải cử một nữ bác sỹ phụ trách về sức khỏe.

 

Điều 120

TRƯỞNG BAN TỔ CHỨC

 

Trưởng ban tổ chức phải lập kế hoạch tổ chức về mặt kỹ thuật đối với cuộc thi đấu và có sự hợp tác chặt chẽ với các Đại diện kỹ thuật. Khi kế hoạch được đưa vào thực thi thì Trưởng ban tổ chức phải đảm bảo rằng kế hoạch đó sẽ được hoàn tất và sẽ giải quyết được bất kỳ rắc rối nào về mặt kỹ thuật, cùng với sự tham gia của các Đại diện kỹ thuật.

Trưởng ban tổ chức phải trực tiếp trao đổi, tiếp xúc với các đoàn tham gia cuộc thi và phải liên lạc với tất cả các quan chức thông qua hệ thống thông tin liên lạc.

 

Điều 121

TỔNG TRỌNG TÀI (PHỤ TRÁCH ĐIỀU HÀNH)

 

Tổng trọng tài có trách nhiệm điều hành chính xác cuộc thi đấu; Có nhiệm vụ kiểm tra tất cả các quan chức, trọng tài đã được giao nhiệm vụ; chỉ định những người thay thế khi cần thiết, và có quyền bãi nhiệm bất cứ một quan chức nào không tuân thủ đúng các tiêu chuẩn qui định của các điều luật. Phối hợp với cán bộ lễ tân sắp xếp để chỉ những người có thẩm quyền được vào trong các khu vực thi đấu.

Ghi chú: Đối với các cuộc thi đấu kéo dài hơn 4 giờ hoặc hơn một ngày thì Tổng trọng tài cần phải có thêm một số lượng thích hợp các phó tổng trọng tài.

 

Điều 122

TRƯỞNG BAN KỸ THUẬT

 

Trưởng ban kỹ thuật có trách nhiệm đảm bảo cho tất cả các khu vực thi đấu (đường chạy, sân nhảy, vòng ném, sân ném …) và tất cả các phương tiện, thiết bị và việc sử dụng chúng theo đúng các điều luật của IAAF

Điều 123

TRƯỞNG BAN THÔNG TIN, GỌI SỐ

 

Cùng với sự giúp đỡ của các trọng tài giám định phụ trách truyền tin gọi số, Trưởng ban truyền tin, gọi số phải giám sát việc chuyển tiếp giữa khu vực khởi động và khu vực thi đấu nhằm đảm bảo cho các vận động viên sau khi được kiểm tra ở nơi gọi số có mặt và sẵn sàng tại điểm thi đấu theo đúng đợt xuất phát đã sắp xếp của họ.

 

Điều 124

CÁC TRỌNG TÀI GIÁM SÁT

1. Các trọng tài giám sát khác nhau sẽ được chỉ định riêng cho từng môn thi đấu như: trọng tài giám sát các môn chạy, trọng tài giám sát các môn nhảy, ném đẩy, các môn phối hợp và các trọng tài giám sát các môn thi chạt và đi bộ ngoài khu vực sân vận động.

Trọng tài giám sát cho các môn thi ngoài khu vực sân vận động không có quyền hạn đối với các vụ việc thuộc trách nhiệm của tổ trưởng trọng tài giám định các cuộc thi đi bộ thể thao.

2. Các trọng tài giám sát phải đảm bảo để các điều luật được chấp hành đầy đủ và phải quyết định đối với tất cả các vấn đề nảy sinh trong quá trình thi đấu và đối với những điều không được nêu ra trong những điều luật này.

Trọng tài giám sát riêng các cuộc thi chạy và các cuộc thi chạy ở ngoài sân vận động chỉ có thẩm quyền để quyết định các vị trí xếp hạng trong thi chạy khi các trọng tài giám định về một, hoặc những vị trí xếp hạng có tranh cãi không thể đi đến 1 quyết định. Các trọng tài giám sát các môn chạy có quyền quyết định trong bất kỳ việc nào có liên quan đến việc xuất phát khi anh ta không đồng ý với quyết định của tổ trọng tài xuất phát ngoại trừ trường hợp việc đó là một lỗi xuất phát do thiết bị phát hiện lỗi xuất phát đưa ra. Trọng tài giám sát không hành động như một trọng tài giám định hoặc giám thị.

3. Trọng tài giám sát ở mỗi môn phải kiểm tra tất cả các kết quả cuối cùng, phải giải quyết các điểm có tranh cãi và những trường hợp không có giám định về mặt đo lường bằng các thiết bị điện tử; phải giám sát các kết quả đo các thành tích kỷ lục.

4. Trọng tài giám sát ở mỗi môn phải giải quyết bất kỳ các biểu hiện chống đối hoặc sự kháng nghị có liên quan đến phong cách thi đấu; có quyền cảnh cáo và đuổi ra khỏi cuộc thi bất kỳ một vận động viên nào có vi phạm về hành vi đạo đức không thích hợp.

Các hành động cảnh cáo có thể được biểu thị bằng cách giơ thẻ vàng; còn giơ thẻ đỏ là biểu thị mức phạt đuổi ra khỏi cuộc thi.

5. Nếu theo quan điểm của trọng tài giám sát ở mỗi môn, những tình huống nảy sinh tại một cuộc đấu nào đó mà theo yêu cầu của sự công bằng thì cuộc đấu phải được xác định lại thì trọng tài giám sát có quyền tuyên bố hủy bỏ cuộc đấu và sẽ phải tổ chức lại hoặc là ngay trong ngày hôm đó hoặc vào một dịp khác sau đó theo quyết định của mình.

6. Khi kết thúc mỗi cuộc thi, trọng tài giám sát phải ghi đầy đủ các số liệu vào phiếu kết quả, ký tên mình vào phiếu kết quả đó và giao nộp cho thư ký của cuộc thi.

7. Trọng tài giám sát các môn thi đấu phối hợp có thẩm quyền đối với việc điều hành thi đấu các môn phối hợp. Vị trọng tài giám sát này cũng có quyền đối với việc điều hành các môn riêng từng cá nhân trong phạm vi thi đấu các môn phối hợp.

 

Điều 125

CÁC TRỌNG TÀI GIÁM ĐỊNH

KHÁI QUÁT CHUNG

1. Tổ trưởng trọng tài giám định các môn chạy và tổ trưởng trọng tài giám định mỗi môn nhảy, ném đẩy sẽ phải sắp xếp công việc cho các trọng tài giám định đối với từng môn riêng của họ. Khi tổ chức pháp nhân liên quan chưa phân bổ trách nhiệm cho các trọng tài giám định này thì họ phải bàn bạc, phân công trách nhiệm của từng người.

CÁC MÔN THI CHẠY TRÊN ĐƯỜNG CHẠY (ĐƯỜNG PISTE) VÀ TRÊN ĐƯỜNG BỘ VỀ ĐÍCH TRÊN ĐƯỜNG CHẠY TRONG SÂN VẬN ĐỘNG

2. Các trọng tài giám định, những người mà tất cả đều cùng hoạt động trên một phía đường chạy sẽ quyết định thứ tự các vận động viên về đích và trong trường hợp mà họ không thể đi đến một quyết định thì phải chuyển vấn đề này lên cho trọng tài giám sát quyết định.

Ghi chú: Các trọng tài giám định phải được sắp xếp ở vị trí bên ngoài đường chạy ít nhất là 5m, ngang hàng với vạch đích và các chỗ ngồi phải cao dần, người sau ngồi cao hơn người trước.

CÁC MÔN THI NHẢY - NÉM ĐẨY

3. Trọng tài giám định phải xác định và ghi chép mỗi lần nhảy, ném … và đo thành tích mỗi lần thực hiện hợp lệ của vận động viên trong tất cả các môn thi nhảy ném. Trong nhảy cao và nhày sào phải xác định số đo chính xác mỗi lần mức xà ngang được nâng lên, đặc biệt nếu đó là những lần thực hiện ở mức kỷ lục. Ít nhất phải có hai trọng tài giám định ghi chép và giữ biên bản số liệu về tất cả các lần thực hiện, kiểm tra kỹ việc ghi chép biên bản của mình khi kết thúc mỗi vòng thi đấu.

Trọng tài giám định phải chỉ rõ lần thực hiện được tính thành tích hoặc lần phạm quy bằng cách phất một lá cờ trắng hoặc cờ đỏ ( cờ trắng là được tính, cờ đỏ là phạm quy).

 

Điều 126

CÁC TRỌNG TÀI GIÁM THỊ (CÁC MÔN CHẠY, ĐI BỘ)

 

1. Các trọng tài giám thị là trợ lý trọng tài giám sát, và không có quyền đưa ra quyết định cuối cùng.

2. Trọng tài giám thị phải ngồi bên cạnh trọng tài giám sát ở cùng một vị trí có thể giám sát cuộc đấu một cách chặt chẽ và, trong trường hợp có một vận động viên hoặc một người khác nếu có sai trái hoặc vi phạm các điều luật (trừ điều 230.1) thì phải thảo ngay moật báo cáo bằng văn bản về sự việc xảy ra cho trọng tài giám sát.

3. Các trường hợp vi phạm luật như trên được xác định bằng tín hiệu phất một lá cờ màu vàng.

4. Phải có đủ số lượng trọng tài giám thị để giám sát các khu vực trao tín hiệu gậy trong các đợt thi tiếp sức.

Ghi chú: Khi một trọng tài giám thị quan sát thấy một vận động viên đã chạy vào ô chạy không phải là ô của vận động viên đó, hoặc thấy việc chuyển gậy tiếp sức đã thực hiện ngoài khu vực trao gậy thì vị trọng tài giám thị này phải đánh dấu ngay lên đường chạy vị trí mà vi phạm đó xảy ra bằng một lọai vật liệu thích hợp.

 

Điều 127

TRỌNG TÀI BẤM GIỜ VÀ TRỌNG TÀI GIÁM ĐỊNH ẢNH ĐÍCH

 

1. Trong trường hợp thực hiện bấm giờ bằng tay, phải cử cho đủ số lượng trọng tài bấm giờ cho phù hợp với số lượng các vận động viên vào vị trì thi đấu; một trong số những người này được cử làm tổ trưởng trọng tài bấm giờ. Các trọng tài bấm giờ này sẽ có nhiệm vụ hậu thuẩn khi sử dụng các thiết bị xác định ảnh đích tự động hoàn toàn.

2. Các trọng tài bấm giờ phải thực hiện các nhiệm vụ theo Điều luật 165.

3. Khi sử dụng các thiết bị xác định ảnh đích tự động hoàn toàn thì phải cử ra một trưởng trọng tài giám định ảnh đích và ít nhất là hai trợ lý trọng tài giám định ảnh đích.

 

 

 

ĐIỀU 128

TRỌNG TÀI ĐIỀU HÀNH XUẤT PHÁT, TRỌNG TÀI PHÁT LỆNH VÀ TRỌNG TÀI BẮT PHẠM QUY

1. Trọng tài điều hành xuất phát có những nhiệm vụ sau:

a/ Ấn định trách nhiệm của tổ trọng tài phát lệnh, giao nhiệm vụ phát lệnh cho một thành viên trong tổ, mà theo quan điểm của mình, đó là những người thích hợp nhất cho cuộc thi.

b/ Giám sát chặt chẽ việc thực thi trách nhiệm của mỗi thành viên trong tổ.

c/ Thông báo cho trọng tài phát lệnh sau khi nhận được lệnh của trưởng ban tổ chức, rằng tất cả đã sẵn sàng để bắt đầu quá trình xuất phát (nghĩa là các trọng tài bấm giờ, các trọng tài giám định, tổ trưởng trọng tài giám định ảnh đích, nếu có, và người điều khiển thiết bị đo sức gió đã ở tư thế sẵn sàng (phối hợp làm việc).

d/ Luôn giữ vai trò kết nối giữa các nhân viên kỹ thuật của đội vận hành thiết bị bấm giờ và các trọng tài giám định.

e/ Bảo quản toàn bộ các tài liệu được ghi chép trong tiến trình thực hiện việc xuất phát kể cả những tư liệu ghi rõ các giá trị về thời gian phản xạ và hoặc các hình ảnh dưới dạng sóng về xuất phát sai, nếu có.

f/ Đảm bảo những quy định của luật tại Điều 129.5 được thực thi đầy đủ.

2. Trọng tài phát lệnh phải tiến hành kiểm tra toàn bộ các vận động viên theo đúng các số hiệu của họ và sẽ là người toàn quyền giám định về bất kỳ sự việc nào có liên quan đến việc xuất phát của đợt chạy. Tuy vậy khi có sử dụng thiết bị kiểm soát lỗi xuất phát thì trọng tài xuất phát phải đeo tai nghe (headphones) để nghe cho rõ ràng các tín hiệu âm thanh được phát ra nếu có lỗi xuất phát (xem điều 161.2).

3. Trọng tài phát lệnh phải chọn vị trí sao cho mình kiểm soát được toàn bộ các vận động viên trong tiến trình xuất phát.

Một việc nên làm, đặc biệt là đối với các đợt xuất phát mà các vị trí xuất phát của các vận động viên được sắp xếp theo hình bậc thang, thì cần có loa phóng thanh đặt tại các ô chạy riêng của từng cá nhân để chuyền lệnh tới các vận động viên.

Ghi chú: Trọng tài phát lệnh phải đứng ở vị trí sao cho toàn bộ khu vực xuất phát của các vận động viên thu vào một góc nhìn hẹp. Đối với những đợt chạy sử dụng xuất phát thấp thị việc trọng tài xuất phát chọn vị trí để có thể biết chắc rằng tất cả các vận động viên đã ở tư thế sẵn sàng ổn định trước khi nổ súng phát lệnh là điều rất cần thiết. Trường hợp không dùng loa phóng thanh trong những đợt xuất phát theo tuyến hình bậc thang, thì trọng tài phát lệnh phải đứng ở vị trí sao cho khoảng cách giữa trọng tài đó tới mỗi vận động viên tương tự như nhau. Trong các cuộc thi đấu cự ly ngắn, kể cả 110m rào, trọng tài phát lệnh phải đứng phía trước, hoặc hàng ngang, trên phần kéo dài ra ở phía ngoài vạch xuất phát. Tuy nhiên, trường hợp trọng tài không thể đứng được ở vị trí như trên thì súng phát lệnh, hoặc thiết bị phát lệnh được phép sử dụng phải đặt ở vị trí đó và lệnh được phát ra bằng bấm công tắc điện.

4. Cần phải có một hoặc vài người làm trợ lý, hỗ trợ cho trọng tài phát lệnh khi phải hủy bỏ lệnh xuất phát.

Ghi chú: Đối với các cuộc thi 200m, 400m, 400m rào, 4x100m, 4x200m, 4x400m tiếp sức, cần phải có ít nhất là hai trọng tài bắt phạm qui xuất phát.

5. Mỗi trọng tài bắt phạm qui xuất phát phải có vị trí đứng sao cho có thể quan sát được vận động viên mà mình được phân công quan sát và nhắc nhở.

6. Việc cảnh cảo và truất quyền thi đấu đối với các vận động viên theo điều luật 162.7, phải do trọng tài phát lệnh thực hiện.

7. Trọng tài Điều phối ở tuyến xuất phát phải phân nhiệm vụ và vị trí riêng cho từng trọng tài nhắc hủy bỏ lệnh xuất phát, những người này có trách nhiệm gọi các vận động viên quay lại nếu thấy có sự phạm quy (xem Điều luật 161.2 và 162.8). Sau một lần hủy bỏ lệnh xuất phát hoặc có sự xuất phát quá sớm, trọng tài nhắc nhở này phải báo cáo về những tình huống đã quan sát thấy cho trọng tài phát lệnh để ông ta sẽ quyết định có cảnh cáo hay không và sẽ cảnh cáo vận động viên nào.

8. Có thể dùng các thiết bị phát hiện vận động viên phạm quy khi xuất phát như đã mô tả trong điều 161.2 tại các cuộc thi chạy có xuất phát thấp.

 

Điều 129

CÁC TRỢ LÝ TRỌNG TÀI PHÁT LỆNH

1. Các trợ lý trọng tài phát lệnh phải kiểm tra xem các vận động viên vào thi đấu theo đúng đợt chạy chưa và họ đã đeo đúng số của mình chưa. Các vị trí xuất phát trong tất cả các cự ly thi đấu đều phải được đánh số theo thứ tự từ trái sang phải, mặt quay về hướng chạy.

2. Các trợ lý này phải sắp xếp cho từng vận động viên vào chỗ đúng ô chạy hoặc điểm xuất phát của họ, tập hợp các vận động viên tại vị trí phía sau vạch xuất phát và cách vạch xuất phát khoảng 3 mét (trong trường hợp vạch xuất phát theo hình bậc thang, thì khoảng cách cũng tương tự như vậy ở phía sau mỗi vạch). Khi việc sắp xếp các vận động viên chuẩn bị vào chỗ đã hoàn tất thì các trợ lý phải ra tín hiệu cho trọng tài phát lệnh biết rằng tất cả đã sẵn sàng. Khi đến một đợt xuất phát mới, các trợ lý của trọng tài phát lệnh lại tiếp tục tiến hành tập hợp các vận động viên.

3. Các trợ lý của trọng tài phát lệnh phải có trách nhiệm chuẩn bị sẵn các gậy tiếp sức để dùng cho các vận động viên chạy ở chặng đầu tiên trong các cuộc đua tiếp sức.

4. Khi trọng tài phát lệnh ra lệnh cho các vận động viên vào chỗ của họ, các trợ lý phải đảm bảo rằng các vận động viên đã tuân thủ theo đúng Điều 162.4 khi vào chỗ.

5. Trong trường hợp phạm lỗi xuất phát lần thứ nhất, vận động viên phạm lỗi sẽ bị nhắc nhở bằng thẻ vàng đặt lên điểm mốc đánh dấu ở ô tô chạy riêng của người đó. Đồng thời các vận động viên khác tham gia đợt chạy đó cũng phải được nhắc nhở bằng thẻ vàng giơ lên trước mặt họ do một vài trợ lý trọng tài phát lệnh thực hiện để lưu ý cho họ rằng bất cứ ai phạm lỗi xuất phát tiếp theo sẽ bị truất quyền thi đấu. Cách giơ thẻ trước mặt vận động viên chịu trách nhiệm về vi phạm lỗi xuất phát cũng sẽ được áp dụng trong trường hợp không có mốc đánh dấu ô chạy.

Trong trường hợp phạm lỗi xuất phát tiếp theo, vận động viên phạm lỗi sẽ bị truất quyền thi đấu bằng thẻ đỏ đặt tại điểm mốc đánh dấu ô chạy riêng của mỗi người đó hoặc giơ lên trước mặt mỗi vận động viên đó.

Trong các môn thi đấu phối hợp, vận động viên phạm lỗi xuất phát sẽ bị nhắc nhở bằng thẻ vàng tại điểm mốc đánh dấu ô chạy riêng của VĐV đó hoặc giơ lên trước mặt VĐV đó. Bất cứ VĐV nào phạm hai lỗi xuất phát sẽ bị truất quyền thi đấu và một thẻ đỏ được đặt tại điểm mốc đánh dấu ô chạy riêng hoặc giơ lên trước mặt VĐV đó.

 

Điều 130

TRỌNG TÀI THEO DÕI SỐ VÒNG CHẠY

1. Trong các cuộc thi chạy ở những cự ly dài hơn 1.500m, trọng tài theo dõi số vòng chạy phải ghi lại số vòng mà tất cả các vận động viên đã hòan thành. Đối với các môn thi 5.000m và dài hơn, và đối với các môn thi đi bộ thể thao thì số lượng trọng tài theo dõi số vòng sẽ được chỉ định theo sự chỉ đạo của trọng tài giám sát và được cung cấp đầy đủ phiếu ghi số vòng để họ ghi lại thời gian qua mỗi vòng (khi đã được các trọng tài bấm giờ chuyển số liệu cho họ) của các vận động viên mà họ chịu trách nhiệm. Khi áp dụng cách này, mỗi trọng tài ghi số vòng chỉ được theo dõi nhiều nhất là 4 vận động viên (đối với các môn thi đi bộ - tối đa là 6 vận động viên). Thay vì ghi số vòng chạy

2. Trọng tài ghi số vòng phải có trách nhiệm đối với việc luôn luôn giơ biển thông báo số vòng mà vận động viên còn phải tiếp tục tại vị trí vạch đích. Việc giơ biển thông báo có thể được thay đổi khi người dẫn đầu đang chạy vào đoạn đường kết thúc ở vạch đích. Ngoài ra có thể sử dụng cử chỉ bằng tay, khi cần, cho các vận động viên đã, hoặc sắp sửa bị bắt vòng.

Thông thường việc ra hiệu cho mỗi vận động viên biết họ đang ở vòng cuối cùng được thực hiện bằng cách rung một rồi chuông.

 

Điều 131

THƯ KÝ CUỘC THI

Thư ký cuộc thi thu thập các kết quả đầy đủ về mỗi môn thi; các trọng tài giám sát, tổ trưởng trọng tài bấm giờ, tổ trưởng trọng tài ảnh đích và người đo tốc độ gió phải cung cấp đầy đủ các số liệu chi tiết cho thư ký. Sau đó thư ký phải chuyển ngay những số liệu chi tiết này tới người đọc thông báo, ghi lại các kết quả và nộp các phiếu ghi kết quả lên Trưởng ban tổ chức.

Trưởng ban có sử dụng hệ thống xử lý kết quả bằng máy vi tính thì người chịu trách nhiệm ghi kết quả bằng vi tính tại chỗ thi đấu phải đảm bảo việc tất cả các số liệu đầy đủ vầ kết quả thi đấu các môn nhảy, ném đẩy được truy nhập vào hệ thống máy tính. Kết quả các môn thi chạy sẽ được đưa vào dưới sự điều khiển của tổ trưởng trọng tài giám định ảnh đích. Người đọc thông báo và Trưởng ban tổ chức thi đấu sẽ được cung cấp các số liệu kết quả qua một máy tính.

 

Điều 132

TRƯỞNG BAN LỄ TÂN

Trưởng ban lễ tân phải kiểm tra khu vực thi đấu và không cho phép bất kỳ ai ngòai các trọng tài và các vận động viên được triệu tập đến thi đấu hoặc những người có trách nhiệm mang theo thẻ hợp lệ vào khu vực thi đấu và ở lại đó.

 

Điều 133

TRỌNG TÀI THÔNG TIN

Trọng tài thông tin phải thông báo công khai trước công chúng họ tên và số đeo của các vận động viên tham gia mỗi cuộc đấu và tất cả những thông tin có liên quan như: thành phần của các đợt thi đấu, các ô chạy hoặc các vị trí rút thăm, và các thời gian ở giữa. Các kết quả (thứ hạng, số lần, độ cao và độ xa) của mỗi môn thi phải được thông báo vào thời điểm sớm nhất có thể sau khi nhận được thông tin.

Tại các cuộc thi đấu được tổ chức theo Điều luật 12.1 (a) trọng tài thông tin bằng tiếng Anh và tiếng Pháp phải do IAAF chỉ định. Người được lựa chọn phải chịu trách nhiệm về toàn bộ các vấn đề về nghi thức thông báo dưới sự chỉ đạo chung của đại diện kỹ thuật.

 

Điều 134

GIÁM ĐỊNH VIÊN SÂN BÃI VÀ DỤNG CỤ

Giám định viên sân bãi và dụng cụ phải kiểm tra độ chính xác của các dấu và các thiết bị, dụng cụ lắp đặt và sẽ cấp giấy chứng nhận thích cho Trưởng ban kỹ thuật trước khi tiến hành thi đấu.

Để xác minh các tiêu chuẩn kỹ thuật, giám định viên sân bãi và dụng cụ phải được cung cấp đầy đủ các sơ đồ về các khu vực thi đấu, các bản vẽ, các báo cáo mới nhất về kích thước.

Điều 135

TRỌNG TÀI ĐO TỐC ĐỘ GIÓ

Trọng tài đo tốc độ gió phải đảm bảo vị trí đặt máy theo đúng qui định của Điều luật 163.9 (các môn chạy) và 184.5 (các môn nhảy và ném đẩy). Phải xác định chắc chắn tốc độ gió theo hướng chạy trong những cuộc đua tương ứng và sau đó phải ghi lại và ký tên xác nhận kết quả đã đo được để nộo cho thư ký cuộc thi.

 

Điều 136

TRỌNG TÀI GIÁM ĐỊNH ĐO LƯỜNG (ĐIỆN TỬ)

Khi sử dụng các thiết bị đo cự ly bằng điện tử phải có một trọng tài giám sát các phép đo.

Trước khi khai mạc giải, trọng tài giám định đo lường điện tử sẽ có cuộc hợp với các nhân viên kỹ thuật có liên quan và làm quen với thiết bị đo.

Trước cuộc đấu, trọng tài giám định đo lường phải kiểm tra việc định vị các thiết bị đo lường, xem xét các yêu cầu kỹ thuật do nhân viên kỹ thuật trình bày.

Để đảm bảo được rằng thiết bị hoạt động một cách chính xác, trước và sau cuộc đấu, trọng tài giám định này phải kiểm tra toàn bộ các số đo để khẳng định có sự thống nhất với các kết quả thu được khi sử dụng 1 thước dây đã được kiểm nghiệm về độ chính xác.

Trong quá trình thi đấu trọng tài giám định này sẽ chịu trách nhiệm chung về việc vận hành thiết bị. Trọng tài giám định sẽ báo cáo với trọng tài giám sát các môn thi nhảy, ném đẩy để xác nhận về độ chính xác của thiết bị đo.

 

Điều 137

CÁC TRỌNG TÀI GIÁM ĐỊNH TRANG PHỤC VÀ SỐ ĐEO

Các trọng tài giám định trang phục và số đeo có trách nhiệm kiểm tra, đảm bảo chắc chắn rằng các vận động viên mặc trang phục của quốc gia hoặc của câu lạc bộ theo đúng mẫu đã được cơ quan điều hành quốc gia của họ đăng ký chính thức; số đeo của các vận động viên là chính xác và đúng với tên trong danh sách; giày thi đấu, số lượng và kích thước của các đinh ở đế giày đúng qui định, các chi tiết quảng cáo trên trang phục và túi sách của các vận động viên phù hợp với các điều luật và các qui định của IAAF; và không cho các vận động viên mang theo bất cứ một loại hàng hóa nào không được phép vào khu vực thi đấu.

 

Điều 138

NGƯỜI PHỤ TRÁCH QUẢNG CÁO

Người phụ trách quảng cáo có trách nhiệm giám sát và vận dụng các Điều luật và các qui định về quảng cáo của IAAF

 

 

 

CHƯƠNG II: CÁC ĐIỀU LUẬT CHUNG VỀ THI ĐẤU

Điều 140

TRANG THIẾT BỊ THI ĐẤU ĐIỀN KINH

Tất cả các loại sân có bề mặt cứng và đồng nhất phù hợp với các đặc tính về tiêu chuẩn kỹ thuật trong tài liệu hướng dẫn về các trang thiết bị, phương tiện, sân thi đấu và đường chạy của IAAF đều có thể dùng để thi đấu điền kinh. Các cuộc thi chạy và các cuộc thi nhảy, ném đẩy theo Điều luật 12.1 (a), (b), (c) và (d) và các cuộc thi đấu dưới sự điều hành trực tiếp của IAAF chỉ được phép tổ chức trên các mặt sân được phủ chất dẻo tổng hợp theo đúng các đặc tính về tiêu chuẩn kỹ thuật đã được IAAF qui định cụ thể đối với các loại mặt sân phủ chất dẻo tổng hợp và có giấy chứng nhận hạng 1 đang có giá trị sử dụng do IAAF phê duyệt.

Đương nhiên, khi có sẵn các trang bị như vậy thì các cuộc thi theo Điều luật 12.1 (e), (f). (g), (h) cũng cần được tổ chức trên đó.

Trong mọi trường hợp, đối với tất cả các trang thiết bị dự định đưa vào sử dụng cho các cuộc thi đấu theo Điều luật 12.1 (a) đến (h) phải có chứng chỉ cấp 2 xác nhận cho độ chính xác về kích thước của các trang thiết bị thi đấu các môn chạy nhảy và ném đẩy trong khuôn khổ yêu cầu của hệ thống cấp chứng chỉ xác nhận của IAAF.

Ghi chú 1: Các đặc tính kỹ thuật đối với việc qui hoạch và cấu tạo của đường chạy và các thiết bị sân thi đấu được xác định và mô tả chi tiết trong tài liệu hướng dẫn về các trang bị, phương tiện, sân thi đấu và đường chạy do IAAF phát hành năm 1990 và trong các tài liệu của Văn phòng Tổng thư ký, trong đó có cả sơ đồ mặt cắt chi tiết về việc đó và đánh dấu đường chạy.

Ghi chú 2: Mẫu giấy chứng nhận đo lường trang thiết bị có thể lấy từ IAAF và từ trang website của IAAF trên mạng Internet.

Ghi chú 3: Điều luật này không áp dụng chi các cuộc thi chạy và đi bộ tổ chức trên đường nhựa hoặc các cuộc thi việt dã.

 

Điều 141

CÁC NHÓM TUỔI

Các cuộc thi đấu của IAAF áp dụng cho các nhóm tuổi sau đây:

Nam và nữ thiếu niên: Tất cả các vận động viên 16 hoặc 17 tuổi tính đến ngày 31 tháng 12 của năm có cuộc thi đấu.

Nam và nữ trẻ: Tất cả các vận động viên dưới 18 hoặc 19 tuổi tính đến ngày 31 tháng 12 của năm có cuộc thi đấu

Nam lão tướng: Một vận động viên điền kinh nam sẽ trở thành lão tướng vào ngày sinh nhật lần thứ 40 của mình.

Nữ lão tướng: Một vận động viên điền kinh nữ sẽ trở thành lão tướng vào ngày sinh nhật lần thứ 35 của mình.

Ghi chú 1: Tất cả các vấn đề khác liên quan đến các cuộc thi đấu của lão tướng phải tham khảo thêm trong cuốn sách hướng dẫn của IAAF/WMA (The IAAF/WMA Handbook) đã được Hội đồng IAAF và Hội đồng WMM thông qua.

Ghi chú 2: Lứa tuổi tối thiểu đủ tư cách tham gia các cuộc thi đấu của IAAF phải tuân thủ các điều lệ thi đấu riêng.

 

 

Điều 142

TƯ CÁCH THAM GIA THI ĐẤU

1 Các cuộc thi đấu theo các điều luật của IAAF được giới hạn cho các vận động viên thoả mãn được các điều luật về việc có đủ tư cách tham gia thi đấu cửa IAAF.

2. Vận động viên không được phép thi đấu ở ngoài đất nước mình nếu như không được liên đoàn thành viên cho phép vận động viên đó thi đấu-bảo lãnh về tư cách tham gia thi đấu của vận động viên đó. Trong tất cả các cuộc thi đấu quốc tế việc bảo lãnh về tư cách nói trên sẽ được chấp nhận nếu không có kháng nghị nào về tư cách vận động viên đó được gửi tới Đại diện kỹ thuật (xem Điều 146.1)

 THI ĐẤU CÙNG LÚC Ở NHIỀU NỘI DUNG KHÁC NHAU

3. Nếu một vận động viên phải tham gia thi đấu cùng một lúc tại cả cuộc thi chạy, nhảy và cả cuộc thi ném đẩy thì trọng tài có thể cho phép vận động viên thi đấu xen kẽ giữa các vòng thi hoặc giữa mỗi lần thực hiện trong nhảy cao và nhảy xào theo thứ tự khác với thứ tự được quyết định bằng rút thăm trước lúc bắt đầu thi đấu. Tuy nhiên nếu sau đó vận động viên không có mặt để thực hiện lần thi đấu đó thì sẽ bị coi là bỏ qua khi thời gian đã cho phép trôi qua.

KHÔNG THAM DỰ CUỘC THI

4. Tại các cuộc thi đấu theo điều luật 12.1 (a), (b), (c), trừ những khoản mục đã quy định dưới đây, một vận động viên có thể bị loại, không được tham gia vào tất cả các cuộc đấu tiếp theo (ở vòng trong) của giải, kể cả các cuộc đấu tiếp sức, trong những trường hợp mà:

i) Có sự khẳng định đứt khoát rằng vận động viên đó tham gia trong một cuộc thi, nhưng sau đó lại không tham gia cuộc thi đó, vì thế mà tên vận động viên đã không bị xoá một cách chính thức khỏi danh sách những người xuất phát trong cuộc thi đó.

ii) Vận động viên đó đủ tư cách trong các cuộc thi tuyển chọn hoặc các đợt thi để vào sâu hơn trong một cuộc đấu nhưng sau đó lại không tham gia thi đấu ở vòng trong.

Quy định về giấy chứng nhận sức khoẻ, có xác nhận của một cán bộ y tế do IAAF hoặc Uỷ ban tổ chức bổ nhiệm hoặc phê chuẩn, có thể được chấp nhận là lý do đầy đủ để công nhận vận độn viên không còn khả năng thi đấu sau khi những ý kiến xác nhận đều thống nhất hoặc sau khi thi đấu tại một vòng thi trước nhưng sẽ không thể thi đấu trong các vòng thi sâu hơn vào ngày thi đấu tiếp theo.

Ghi chú 1: Thời gian ấn định việc khẳng định dứt khoát về việc tham gia thi đấu phải được tuyên bố công khai từ trước.

Ghi chú 2: Không tham dự thi đấu bao gồm cả việc không tham gia thi đấu một cách thành thật và thiện ý. Trọng tài giám sát có liên quan sẽ đưa ra quyết định về trường hợp này và sẽ làm báo cáo kết quả chính thức. Tình huống nêu trên trong ghi chú này sẽ không áp dụng cho các cuộc thi cá nhân của môn thi đấu phối hợp.

 

Điều 143

QUẦN ÁO THI ĐẤU, GlÀY THI ĐẤU VÀ SỐ ĐEO

QUẦN ÁO THI ĐẤU

1 Trong tất cả các cuộc thi, các vận động viên phải mặc quần áo thi đấu sạch sẽ, theo các mẫu mã và cách mặc gọn gàng, không gây trở ngại cho hoạt động thi đấu. Quần áo không được may bằng các loại vải có thể nhìn thấu vào da thịt bên trong kể cả khi bị ướt. Các vận động viên không được mặc các loại quần áo làm cản trở tầm nhìn của các trọng tài giám định.

Tại tất cả các cuộc đấu theo Điều luật 12.1 (a) đến (e), các vận động viên khi tham gia thi đấu phải mặc quần áo đồng phục đã được cơ quan điều hành quốc gia của mình phê chuẩn.

Tại tất cả các cuộc đấu theo Điều luật 12.1 (e) đến (h), các vận động viên tham gia phải mặc quần áo đồng phục hoặc quần áo của câu lạc bộ mà đã được cơ quan điều hành quốc gia của mình phê chuẩn chính thức. Các nghi thức mừng thắng lợi, băng, cờ, khẩu hiệu trưng trong các cuộc thi đấu cũng phải theo đúng qui định này.

GlÀY THI ĐẤU

2. Các vận động viên được phép thi đấu bằng chân đất hoặc mang giày, dép ở một hoặc cả hai chân. Giày thi đấu theo qui định phải có tác dụng bảo vệ, và bám chắc chắn vào đất. Nhưng, giày thi đấu không được thiết kế để nhằm tạo cho vận động viên có thêm bất kỳ một sự trợ giúp nào, và không được lắp thêm lò xo hoặc các công cụ dưới bất kỳ dạng thức nào vào giày thi đấu. Giày thi đấu được phép sử dụng là giày có dây buộc hoặc quai trên mu bàn chân.

Số LƯỢNG ĐINH GIÀY

3. Đế ở phần trước giày và đế ở phần gót giày phải được thiết kế để tiện sử dụng với số đinh không quá 11 chiếc. Đinh giày có thể đóng ở phần đế trước hoặc ở phần đế sau giày với số lượng 11 chiếc; nhưng số đinh ở cả 2 vị trí này không được vượt quá 11 chiếc.

KÍCH THƯỚC CỦA ĐINH GIÀY

4. Khi cuộc thi được tổ chức trên một bề mặt phủ chất dẻo tổng hợp thì phần đinh trồi lên trên mặt đế giày phía trước và đế ở phần gót chân không được đài quá 9mm (độ dài của đinh không được quá 9mm), trừ trường hợp trong môn thi nhảy cao và môn thi phóng lao, độ dài của đinh không được vượt quá 12mm. Đinh phải có đường kính tối đa là 4mm. Đối với các bề mặt sân thi đấu không phủ chất dẻo tổng hợp thì chiều cao tối đa của đinh sẽ là 25mm và đường kính tối đa là 4mm.

ĐẾ GIÀY Ở PHẦN TRƯỚC VÀ Ở PHẦN GÓT CHÂN

5. Đế giày ở phần trước/hoặc ở phần gót chân có thể khía thành rãnh, đúc thành các đường gờ nổi, lồi lõm hoặc lồi hẳn lên miễn là các đường nét này được chế tạo bằng cùng một chất liệu với đế giày.

Trong môn nhảy cao và nhảy xa, đế giày ở phần trước sẽ có độ đày tối đa là 13mm, và đế giày ở môn nhảy cao phải có độ đày tối đa ở phần gót là 19mm. Trong tất cả các môn khác thì đế giày ở phần trước và/hoặc ở phần gót chân có thể có độ dầy bất kỳ.

NHỮNG PHẦN LẮP THÊM VÀ ĐẮP THÊM VÀO ĐẾ GIÀY

6. Vận động viên không được phép lắp hoặc đắp thêm bất cứ một thứ gì. cả trong lẫn ngoài giầy mà những thứ đó có tác đụng làm tăng độ dày cho phép của đế giầy như đã nói ở trên, hoặc tạo cho người đi bất kỳ một lợi thế nào mà anh ta se không thể có được do mang loại giày đã mô tả ở các mục trước.

SỐ ĐEO CỦA VẬN ĐỘNG VIÊN

7. Mỗi vận động viên phải được cấp 2 số đeo để đeo ở trước ngực và sau lưng khi thi đấu; trừ trường hợp ở môn thi nhảy sào và thi nhảy cao, các vận động viên được phép chỉ đeo 1 số ở trước ngực hoặc sau lưng. Số đeo phải phù hợp với số trong biên bản thi đấu. Nếu mặc quần áo tập trong khi thi thì cách thức đeo số trên quần áo phải giống nhau.

8. Các số đeo phải được đeo nguyên dạng như khi nó được phát ra; không được phép để bị cắt, gấp hoặc bị che khuất dưới bất kỳ hình thức nào. Trong các cuộc thi đấu cự li dài, các dải số đeo có thể được đục nhiều lỗ để không khí dễ lưu thông, song các lỗ đục không được phạm vào bất kỳ con chữ hoặc con số nào nổi trên dải số đó.

9. Trường hợp có sử dụng thiết bị chụp ảnh đích thì Ban tổ chức được phép yêu cầu vận động viên phải đeo thêm số phụ ở dạng băng dán, định chặt vào bên cạnh quần của vận động viên. Không vận động viên nào được phép tham gia thi đấu nếu không để lộ rõ số đeo hoặc số nhận dạng dành riêng cho họ.

 

Điều 144

SỰ HỖ TRỢ CHO CÁC VẬN ĐỘNG VIÊN

SỰ CHỈ DẪN VỀ THỜI GIAN Ở GIỮA

1. Các mức thời gian ở giữa và thời gian đạt yêu cầu trong vòng loại có thể được thông báo chính thức, hoặc được trình bày rõ. Song những người trong khu vực thi đấu không được thông báo cho vận động viên về những mức thời gian khác với thời gian này đều không có sự đồng ý trước của trọng tài giám sát phụ trách khu vực thi đấu.

HỖ TRỢ CHO CÁC VẬN ĐỘNG VIÊN

Những trường hợp sau đây không được xem là sự hỗ trợ:

(i) Thực hiện việc trao đổi thông tin giữa các vận động viên và các huấn luyện viên của họ tại nơi không nằm trong khu vực thi đấu. Để tạo điều kiện cho việc trao đổi thông tin này mà không gây xáo trộn đến tiến trình thi đấu cần phải dành riêng cho huấn luyện viên của các vận động viên một chỗ trên khán đài gần sát với điểm thi đấu các môn ném, đẩy.

(ii) Thực hiện những biện pháp cần thiết về vật lý trị liệu, kiểm tra y học, và điều trị y tế nhằm tạo điều kiện cho vận động viên tham dự hoặc tiếp tục tham dự kể cả trong khu vực do các cán bộ được bổ nhiệm hoặc được Đại diện y tế - y học hoặc Đại diện kỹ thuật phê chuẩn là được phép, miễn là việc đó không làm chậm trễ việc tiến hành thi đấu hoặc một lần thực hiện nội dung thi đấu của vận động viên theo trình tự đã được sắpn đặt. Việc chăm sóc và giúp đỡ như vậy của bất kỳ một người nào khác cả trong lúc thi đấu  hoặc ngay trước lúc thi đấu một khi vận động viên đã rời khỏi nơi vừa được gọi tên để vào thi đấu được coi là sự hỗ trợ.

Theo quy định của Điều luật này, những biểu hiện sau đây sẽ bị coi là có sự hỗ trợ, dù không được phép.

(i). Dẫn tốc độ trong khi thi đấu bởi những người không tham gia thi, bởi những người chạy hoặc đi bộ đã bị vượt vòng hoặc sắp bị vượt hơn một vòng hoặc bằng bất cứ loại phương tiện kỹ thuật nào.

(ii) Dùng máy video, máy ghi âm cassette, máy phát radio, CD, điện thoại di động hoặc các loại máy tương tự khác trong khu vực thi đấu.

Vận động viên nào có hành động hỗ trợ hoặc tiếp nhận sự hỗ trợ từ bên trong khu vực thi đấu trong lúc đang thi đấu sẽ bị trọng tài giám sát nhắc nhở và cảnh cáo, nếu còn tiếp tục lặp lại, anh ta sẽ bị truất quyền thi đấu ở cuộc đấu này.

THÔNG TIN VỀ SỨC GIÓ, HƯỚNG GIÓ

3. Trong tất cả các cuộc thi nhảy phải đặt ở gần vực giậm nhảy một dụng cụ đo sức gió và hướng gió để các vận động viên biết được phương hướng (xấp xỉ) và độ mạnh của gió.

NƯỚC UỐNG VÀ KHĂN LAU

4. Trong các cuộc thi chạy cự ly 5000m và dài hơn. Ban tổ chức có thể cung cấp nước uống và khăn lau cho các vận động viên nếu điều kiện thời tiết cho thấy là phải làm như vậy.

 

Điều 145

VIỆC TRUẤT QUYỀN THI ĐẤU

Nếu có vận động viên bị truất quyền thi đấu ở một trận đấu do vi phạm các điều luật kỹ thuật của IAAF thì phải lập biên bản chỉ ra các căn cứ xử phạt và đối chiếu theo luật của IAAF mà anh ta đã vi phạm. Tuy nhiên vụ việc này không cản trở VĐV tiếp tục được tham gia thi đấu ở tất cả các môn thi sau. Vận động viên có hành vi, thái độ phi thể thao hoặc sai trái sẽ bị truất quyền thi đấu ở tất cả các môn thi sau của cuộc đấu. Khi đưa ra lý do cho trường hợp truất quyền thi đấu này phải dẫn ra những căn cứ xử phạt. Nếu lỗi vi phạm được coi là nghiêm trọng thì trưởng ban tổ chức phải báo cáo sự việc với cơ quan điều hành có trách nhiệm xem xét những biện pháp kỷ luật cao hơn theo Điều luật 53.1 (VIII)

 

Điều 146

KHÁNG NGHỊ VÀ KHIẾU NẠI

1. Những kháng nghị  liên quan đến tư cách pháp nhân của một vận động viên tham gia vào một cuộc thi đấu phải được đề xuất trước khi bắt đầu cuộc thi đấu với các Đại diện kỹ thuật. Khi Đại diện kỹ thuật đưa ra quyết định thì có quyền khiếu nại với Ban trọng tài phúc thẩm. Nếu sự việc không thể giải quyết được một cách thoả đáng trước khi bắt đầu cuộc đấu, thì vận động viên sẽ vẫn được phép thi đấu trong điều kiện có kháng nghị và sự việc này phải chuyển lên Hội đồng IAAF xin ý kiến quyết định.

2. Các kháng nghị về kết quả thi đấu hay việc tiến hành thi đấu phải được đề xuất trong vòng 30 phút, kể từ thời gian thông báo chính thức kết quả cuộc đấu đó

Ban tổ chức thi đấu chịu trách nhiệm đảm bảo ghi lại đầy đủ thời gian thông báo tất cả các kết quả thi đấu

3. Bất cứ sự kháng nghị nào, ở lần đầu tiên đều phải do chính vận động viên hoặc một người nào đó thay mặt cho vận động viên đề xuất bằng lời với trọng tài giám sát. Để đi đến một quyết định công bằng, trọng tài giám sát phải xem xét tất cả các bằng chứng sẵn có mà cho là cần thiết, kể cả việc xem xét qua phim hoặc các hình ảnh do người có trách nhiệm chính thức về việc ghi băng video đã thực hiện ghi lại hoặc bất cứ băng video nào khác đã ghi lại làm bằng chứng.Trọng tài giám sát có thể ra quyết định về sự kháng nghị đó hoặc có thể chuyển vụ việc lên Ban trọng tài phúc thẩm. Nếu trọng tài giám sát ra quyết định thì người có khiếu nại sẽ có quyền đưa vụ việc khiếu nại lên Ban trọng tài phúc thẩm.

4. Trong thi đấu các môn nhảy, ném đẩy, nếu một vận động viên đưa ra kháng nghị bằng lời về việc  đã bị xử lý sai ở một lần thực hiện thì  trọng tài giám sát của môn thi đó xem xét, nếu đúng thì được quyền ra lệnh cho lần thực hiện đó được đo kết quả và kết quả đó sẽ được tính, nhằm bảo quyền lợi của tất cả các bên có liên quan.

Trong các môn thi chạy và đi bộ, trọng tài giám sát môn này theo sự xét đoán của mình có thể cho phép một vận động viên được thi đấu kho đang bị kháng nghị nếu vận động viên đó có ngay kháng nghị bằng lời đối với việc đã phải nhận một lỗi xuất phát và theo thủ tục bảo vệ quyền lợi cho tất cả các bên có liên quan.

Tuy nhiên sự kháng nghị sẽ không được chấp nhận nếu lỗi xuất phát do máy phát hiện lỗi xuất phát đưa ra.3

5. Một khiếu nại chuyển tới Ban trọng tài phúc thẩm phải được tiến hành trong vòng 30 phút kể từ thời gian thông báo chính thức về quyết định do trọng giám sát đưa ra; phải là khiếu nại bằng văn bản, do một quan chức, cán bộ có trách nhiệm thay mặt cho vận động viên đó ký tên và phải nộp kèm theo 100USD, hoặc tương đương với số tiền đó. Số tiền này sẽ là tiền phạt nếu việc phản kháng không được biện hộ.

6. Ban trọng tài phúc thẩm phải hỏi ý kiến tất những người có liên quan, kể cả các trọng tài giám sát và các trọng tài giám định. Nếu ban trọng tài phúc thẩm còn có vấn đề gì nghi ngờ thì có thể xem xét đến những bằng chứng khác. Nếu những bằng chứng này kể cả những bằng chứng trong băng video vẫn không thể đi đến kết luận thì quyết định của trọng tài giám sát được công nhận.

Điều 147

THI ĐẤU LẪN LỘN

Đối với tất cả các cuộc thi đấu được tổ chức hoàn toàn trong sân vận động, việc thi đấu lẫn lộn giữa nam và nữ cùng tham gia một nội dung sẽ không dược phép.

 

Điều 148

XÁC ĐỊNH CÁC SỐ ĐO

Đối với môn thi chạy, và các môn thi nhảy, ném đẩy trong các cuộc thi đấu theo Điều luật 12.1 (a) đến (c), tất cả các số đo phải được xác định qua thước cuộn bằng thép hoặc bằng thanh thép có chia rõ đơn vị đo lường hoặc bằng các máy móc đo lường chuyên dụng khác. Trong các cuộc thi đấu khác có thể được sử dụng thước cuộn bằng chất liệu sợi vải. Độ chính xác của các loại dụng cụ thiết bị đo lường dùng trong thi đấu phải có sự chứng nhận của cơ quan quản lý, kiểm định về đo lường.

Ghi chú: Số đo liên quan đến việc công nhận các kỷ lục xem Điều 260.26a.

 

Điều 149

CÔNG NHẬN THÀNH TÍCH

Thành tích do vận động viên lập được sẽ không được công nhận nếu như thành tích đó không được lập trong một cuộc thi đấu chính thức được tổ chức theo đúng các Điều luật của IAFF.

 

Điều 150

VIỆC GHI HÌNH

Trong các cuộc thi đấu được tổ chức theo Điều luật 12.1 (a) và (b) và nếu có thể ở những cuộc thi đấu khác, nên tổ chức ghi hình chính thức về tất cả các môn thi, trong đó ghi lại chính xác các thành tích và sự sai phạm về luật để làm tài liệu hỗ trợ.

 

Điều 151

TÍNH ĐIỂM

Trong thi đấu mà kết quả sẽ phải xác định bằng tính điểm thì phương thức tính điểm phải được tất cả các nước tham gia thi đấu nhất trí trước khi bắt đầu thi đấu.

 

CHƯƠNG III

CÁC MÔN CHẠY

( Các Điều luật 162.2, 162.3 (đoạn2), 163.2, 164.3 và 165 cũng áp dụng cho phần VII, VIII và IX)

 

ĐIỀU 160

CÁC KÍCH THƯỚC ĐƯỜNG CHẠY

1. Độ dài của một vòng chạy tiêu chuẩn phải là 400m. Nó phải bao gồm 2 đường thẳng song song và 2 đường vòng có bán kính bằng nhau.

Trừ trường hợp là một vòng phủ cỏ, phía trong của vòng phải được viền bởi một gờ làm từ vật liệu phù hợp, có độ cao khoảng 5cm và rộng tối thiểu 5 cm.

Nếu một phần của gờ phải tạm thời di chuyển để thi đấu các môn nhảy và ném đẩy, vị trí của chúng phải được đánh dấu bằng những vạch trắng rộng 5 cm và bằng các trụ mốc chất dẻo hoặc cờ có độ cao tối thiểu 20 cm đặt trên vạch trắng sao cho mép của đế trụ mốc hoặc cột cờ chồnh khít với mép của vạch trắng sát với vòng chạy được bố trí tại các khoảng cách nhau không quá 4m. Điều này cũng áp dụng với khu vực của đường vòng chạy vượt hướng ngại ở chỗ vận động viên đổi hướng khỏi vòng chính để vượt qua rào cùng hố nước. Đối với vòng phủ cỏ không có gờ, cạnh bên trong phải được đánh dấu bằng vạch rộng 5cm và cũng phải cắm cờ cách nhau 5m. Các cờ phải được bố trí trên vạch sao cho có thể cản bất cứ vận động viên nào chạy lên vạch và chúng phải được đặt nghiêng 60 độ so với mặt đất, đầu cờ hướng vào phía trong. Cờ có kích thước 25cmx20cm được treo trên cột cao 45cm là phù hợp nhất.

2.Việc đo dộ dài vòng chạy phải thực hiện cách mép gờ 30 cm hoặc trong trường hợp không có gờ, thì cách vạch đánh dấu bên trong vòng đua 20 cm.

3.Cự ly thi đấu phải được đo từ mép vạch xuất phát phía xa hơn tính từ đích cho tới mép vạch đích ở phía gần với điểm xuất phát hơn.

4.Trong tất cảcác cuộc đua tới và  dưới 400m, mỗi vận động viên sẽ phải có một ô chạy riêng độ rộng tối thiểu 1.22m±0,01m được đánh dấu bằng các vạch rộng 5cm. Tất cả các ô chạy phải có độ rộng bằng nhau. Ô chạy phía trong cùng phải được đo như đã nói ở mục 2 phía trên. Song các ô còn lại phải được đo cách mép ngoài của vach 20cm.

Ghi chú: Chỉ có vạch bên tay phải của mỗi ô chạy lá nằm trong độ rộng của mỗi ô chạy (xem Điều 163.3 và 163.4).

5.Trong các cuộc thi đấu quốc tế áp dụng điều luật 12.1(a), (b), (c) vòng chạy phải có 8 ô chạy.

6.Độ nghiêng sang ngang tối đa được phép của vòng chạy không được vượt quá 1/100 và độ nghiêng toàn bộ dốc xuống theo hướng chạy không được vượt quá 1/1000.

Ghi chú: Đối với vòng chạy mới, độ nghiêng sang ngang phải nghiêng về phía ô chạy phía trong.

7.Toàn bộ thông tin kỹ thuật về cấu trúc đường đua, cách bố trí và đánh dấu đều có trong cuốn sách”Hướng dẫn về ác thiết bị thi đấu điền kinh”của IAFF. Điều luật này chỉ đưa ra những nguyên tắc cơ bản, cần thiết phải tuân thủ.

 

ĐIỀU 161

BÀN ĐẠP XUẤT PHÁT

1.Các bàn đạp xuất phát phải được sử dụng cho tất cả các cuộc thi dưới và tới 400m (bao gồm vòng đầu tiên của 4x200m và 4x400m) và không được sử dụng cho bất kỳ cuộc thi nào khác. Khi đặt ở vị trí trên đường đua, không một bộ phận nào của bàn đạp xuất phát được đè lên vạch xuất phát hoặc chờm sang ô chạy khác.

Các bàn đạp xuất phát phải phù hợp với các đặc điểm kỹ thuật chung sau đây:

a)              Bàn đạp xuất phát phải có cấu trúc hoàn toàn cứng và không được tạo cho vận động viên lợi thế không chính đáng.

b)              Bàn đạp xuất phát phải được cố định vào đường chạy bằng một số ghim hoặc đinh được bố trí để ít gây tổn hại nhất tới đường chạy. Việc lắp đặt phải cho phép các bàn đạp xuất phát được tháo ra nhanh và dễ. Số lương, độ to và độ dài của ghim hoặc đinh tuỳ thuộc vào cấu trúc của đường chạy. Phải đóng chặt để không bị xê dịch lúc xuất phát thật sự.

c)               Khi một vận động viên sử dụng bàn đạp xuất phát của riêng mình thì bàn đạp này phải tuân theo mục (a) và (b) ở trên. Bàn đạp xuất phát có thể theo bất kỳ thiết kế hoặc cấu trúc nào miễn là chúng không gây cản trở cho các vânj động viên khác.

d)              Khi bàn đạp xuất phát do ban tổ chức cung cấp, chúng phải tuân theo những đặc điểm kỹ thuật sau:

Bàn đạp xuất phát phải bao gồm hai mặt tựa chân để bàn chân của vận động viên tỳ vào trong tư thế xuất phát. Mặt tựa này phải nằm trên một khung cứng và khung này không gây ra bất  kỳ trở ngại nào đối với chân của vận động viên khi họ rời bàn đạp.

Mặt tựa phải nghiêng để phù hợp với tư thế xuất phát của vận động viên và có thể phẳng hoặc hơi cong. Bề mặt trên các mặt tựa phải được chuẩn bị phải phù  hợp với các đinh giày chạy của vận động viên, hoặc là dùng rãnh hoặc khoảng trống bên trong mặt tựa hoặc phủ mặt tựa bằng vật liệu phù hợp cho phép sử dụng giày đinh.

Việc gắn mặt tựa lên một khung cứng có thể điều chỉnh được song phải cố định trong lúc xuất phát thật sự. Trong tất cả cáảctường hợp, mặt tựa phải điều chỉnh về trước hoặc về sau tuỳ thuộc vào mỗi vận động viên. Việc điều chỉnh phải được cố định bởi những bàn lẹp chắc hoặc một kết cấu khoá để vận động viên thao tác nhanh và dễ dàng.

2.Trong các cuộc thi đấu áp dụng điều luật 12.1 (a), ( b) và (c) bàn đạp xuất phát phải được nối với một thiết bị báo lỗi xuất phát được IAAF chấp nhận. Trọng tài phát lệnh hoặc trọng tài được phân công gọi quay lại phải đeo Headphonesddeer nghe rõ tín hiệu âm tnanh phát ra khi có lỗi xuất phát (có nghĩa là thời gian phản ứng ít hơn 100/1000 của giây).

Ngay khi trọng tài phát lệnh hoặc trọng tài được phân công gọi quay lại nghe thấy tín hiệu âm thamh này, và nếu súng đã nổ, hoặc thiết bị xuất phát đã hoạt động, thì sẽ phải gọi lại và trọng tài phát lệnh phải lập tức kiểm tra thời gian phản ứng trên máy báo lỗi xuất phát để khẳng định vận động viên nào chịu trách nhiệm gây ra lỗi xuất phát. Hệ thống này rất nên dùng cho các cuộc thi đấu.

3.Trong các cuộc thi đấu áp dụng điều luật 12.1 (a), (b), (c) và (e) các vận động viên phải sử dụng bàn đạp xuất phát do ban tổ chức cuộc thi cung cấp, và trong các cuộc thi đấu khác trên các đường chạy mọi thời tiết, ban tổ chức có thể yêu cầu chỉ những bàn đạp xuất phát do ban tổ chức cung cấp mới được sử dụng.

 

ĐIỀU 162

XUẤT PHÁT

 

1. Nơi xuất phát của một cuộc đua phải được thể hiện bởi  một vạch trắng rộng 5cm.

Trong tất cả các cuộc thi không chạy theo các ô, vạch xuất phát phảilà một đường vòng cung để tất cả các vận động viên  xuất phát và đến đích trên cùng một cự ly.

2. Tất cả các cuộc thi chạy phải xuất phát theo tiếng  súng nổ của trọng tài phát lệnh hoặc của máy chuyên dụng cho xuất phát đã được phê chuẩn bắn lên trời  sau khi trọng tài xuất phát  đã xác định chắc chắn rằng  các vận động viên đã ổn định ở đúng vị trí xuất phát.

3. Tại tất cả các cuộc thi đấu quốc tế, khẩu lệnh của trọng tài xuất phát bằng tiếng Anh và tiếng Pháp. Đối với các cuộc đua dưới và tới 400m (bao gồm cả 4x200m và 4x400m). Khi tất cả các vận động viên đã "sẵn sàng", súng hoặc thiết bị phát lệnh tương ứng sẽ nổ.

Trong các cuộc thi dài hơn 400m, khẩu lệnh sẽ là "vào chổ" và khi tất cả các vận động viên ổn định, súng hoặc thiết bị phát lệnh sẽ nổ. Vận động viên không được phép chạm đất bằng 1 tay hoặc 2 taytrong lúc xuất phát.

4. Nếu vì bất kỳ lý do nào mà trọng tài phát lệnh không thoả mãn với việc tất cả đã sẵn sàng cho xuất phát, thì sẽ ra lệnh cho tất cả các vận động viên lùi khỏi tư thế "vào chỗ" và trợ lý trọng tài xuất phát sẽ bố trí họ trên vạch chung lại.

Trong tất cả các cuộc thi dưới và tới 400m (bao gồm cả vòng đầu của 4x200m và 4x400m), xuất phát thấp có sử dụng bàn đạp xuất phát là yêu cầu bắt buộc. Sau lệnh "vào chỗ" các vận động viên phải tiến tới vạch xuất phát, chiếm vị trí hoàn toàn trong ô chạy riêng của mình, phía sau vạch xuất phát. Hai bàn tay và 1 đầu gối phải tiếp xúc với mặt đất và hai bàn chân phải tiếp xúc với bàn đạp xuất phát. Khi có lệnh "sẵn sàng" các vận động viên phải lập tức nâng lên tới tư thế xuất phát cuối cùng của mình trong khi vẫn giữ sự tiếp xúc của hai tay với đất và sự tiếp xúc của 2 bàn chân với bàn đạp.

Khi ở tư thế vào chỗ, vận động viên không được chạm vào vạch xuất phát hoặc đất phía trước vạch xuất phát bằng chân hoặc tay của mình.

5. Khi thực hiện lệnh "vào chỗ" hoặc "sẵn sàng", tất cả các vận động viên phải lập tức và không được chậm trễ ở vào tư thế đầy đủ và cuối cùng của họ.

LỖI XUẤT PHÁT 

6. Vận động viên sau khi đã vào chỗ và ở tư thế  sẵn sàng chỉ được phép bắt đầu hành động xuất phát của mình sau khi nghe thấy tiếng nổ của súng phát lệnh hoặc của máy phát lệnh. Nếu, theo nhận định của trọng tài phát lệnh hoặc trọng tài bắt phạm quy, vận động viên đã không thực hiện đúng như vậy thì bị coi là phạm lỗi xuất phát.

Cũng sẽ bị coi là phạm lỗi xuất phát nếu, theo nhận định của trọng tài phát lệnh:

a) Vận động viên không tuân thủ mệnh lệnh “vào chỗ” hoặc “sẵn sàng” một cách nghiêm túc trong một thời gian hợp lý.

b) Vận động viên, sau khi có lệnh “vào chỗ”,  có hành động quấy rầy các vận động viên khác trong đợt chạy bằng tiếng ồn hoặc các hành vi khác.

Ghi chú: Khi thiết bị phát hiện lỗi xuất phát đang hoạt động (xem Điều 161.2 về hoạt động của thiết bị ) thì bằng chứng của thiết bị này thông thường sẽ được công nhận như quyết định của trọng tài phát lệnh.

7.  Vận động viên mắc lỗi xuất phát sẽ bị cảnh cáo. Trong một đợt chạy chỉ một lỗi xuất phát lần đầu là không bị truất quyền thi đấu còn bất kỳ vận động viên nào phạm lỗi xuất phát sau đó thì sẽ bị loại khỏi cuộc đua. Trong thi đấu nhiều môn phôí hợp nếu một vận động viên gây ra hai lỗi xuất phát sẽ bị truất quyền thi đấu. 

8. Trọng tài phát lệnh hoặc bất kỳ trọng tài bắt phạm quy khi thấy  có phạm quy trong xuất phát, phải gọi các vận động viên lại bằng một phát súng.

Ghi chú: Trong thực tế, khi một hoặc nhiều vận động viên phạm lỗi xuất phát, những vận động viên khác bị ảnh hưởng theo và nói đúng ra, bất kỳ vận động viên nào làm như vậy cũng bị lỗi xuất phát. Song trọng tài phát lệnh chỉ cảnh cáo vận động viên hoặc các vận động viên là nguyên nhân gây ra lôi xuất phát. Điều này có thể dẫn tới kết quả là nhiều hơn so với một vận động viên bị cảnh cáo: Nếu việc xuất phát phạm quy xảy ra song không do bất kỳ vận động viên nào gây ra thì sẽ không có việc cảnh cáo.

1000m, 2000m, 3000m, 5000m và 10000m

Trường hợp có nhiều hơn 12 vận động viên trong cuộc thi, các vận động viên phải được chia thành 2 nhómvà một nhóm khoảng 65%vận động viên trên vạch xuất phát hình vòng cung bình thường, cong nhóm kia trên vạch xuất phát hình vòng cung riêng được vẽ ngang qua nửa phía ngoài của tuyến đường. Nhóm sau phải chạy cho tới cuối của đường vòng thứ nhất trên nửa ngoài của tuyến đường.

Vạch xuất phát hình vòng cung riêng phải được kẻ theo cách để tất cả các vận động viên phải chạy qua cùng một cự ly như nhau. Vạch cho phép chạy vào đường chung đối với cự ly 800m được mô tả trong điều luật 163.5 chỉ rõ chỗ mà ở đó các vận động viên ở nhóm bên ngoài trong cự ly 2000 và 10000m, có thể hợp nhất với các vận động viên sử dụng xuất phát bình thường. Vòng đua phải được đánh dấu tại chỗ bắt vào đoạn thẳng đích đối với các xuất phát theo nhóm trong cự ly 1000m, 3000m và 5000m để chỉ rõ chỗ các vận động viên xuất phát ở nhóm bên ngoài có thể hợp nhất với các vận động viên sử dụng xuất phát bình thường.

Dấu này phải là 5cm x 5cm trên vạch giữa ô chạy 4 và 5 (ô 3 và 4 trong vòng đua có 6 ô) tại đó một vật mốc hoặc cờ được bố trí cho tới khi 2 nhóm hội tụ.

 

ĐIỀU 163

THI CHẠY VÀ ĐI BỘ THỂ THAO

  1. Hướng chuyển động của vận động viên khi thi chạy và đi bộ thể thao là phải vào phía bên trong tay trái. Các ô chạy phải được đánh số với ô chạy số 1 là ô đầu tiên ở phía bên tay trái.

CẢN NGƯỜI TRÊN ĐƯỜNG ĐUA

  2.    Bất kỳ vận động viên chạy hay đi bộ khi đang thi đấu mà xô đẩy hoặc ngăn cản một vận động viên khác cốt để chặn bước tiến của người đó thì sẽ có thể bị truất quyền thi đấu khỏi cuộc thi đó. Trọng tài giám sát có quyền ra lệnh cho các vận động viên thi lại, trừ vận động viên bị truất quyền thi đấu hoặc, trong trường hợp là một đợt chạy, trọng tài giám định có quyền cho phép bất cứ vận động viên nào bị ảnh hưởng nghiêm trọng do bị xô đẩy hoặc cản trở (trừ vận động viên bị truất quyền thi đấu) được thi đấu trong vòng tiếp theo của môn thi. Thông thường những vận động viên như vậy là những người đã thi đấu trong cuộc thi với tinh thần trung thực và có thiện chí.

Bất kể là có vận động viên bị truất quyền thi đấu hay không thì trong những trường hợp ngoại lệ, trọng tài giám sát vẫn có quyền cho thi đấu lại nếu cho rằng việc đó là đúng và hợp lý.

KHI CHẠY THEO CÁC Ô CHẠY RIÊNG

3. Trong tất cả các cuộc thi chạy theo các ô chạy riêng mỗi vận động viên phải chạy đúng trong ô chạy của mình từ khi xuất phát cho tới khi về đích. Điều này cũng áp dụng đối với tất cả các đoạn mà ở đó có phân theo từng ô chạy riêng trong một cuộc thi chạy.

Trừ những trường hợp được nêu trong muc 4 dưới đây nếu trọng tài giám sát theo báo cáo của trọng tài giám định và giám thị hoặc những trọng tài khác, có đủ căn cứ thuyết phục về một vận động viên đã chạy ngoài ô chạy riêng của mình thì vận động viên đó sẽ bị truất quyền thi đấu.

4. Nếu một vận động viên bị xô đẩy hoặc bị người khác thúc ép buộc phải chạy ra ngoài ô chạy của mình và nếu không được một lợi thế thực chất nào thì vận động viên đó sẽ không bị truất quyền thi đấu.

Nếu một vận động viên hoặc là:

i) Chạy ngoài ô chạy của mình và không được một lợi thế thực chất nào trên đoạn đường thẳng, hoặc

ii) Chạy phía ngoài vạch ngoài ô chạy của mình trên đoạn đường vòng, mà không giành được một lợi thế thực chất nào qua việc đó, và không làm cản trở đến bất kỳ vận động viên nào khác thì vận động viên đó cũng không bi truất quyền thi đấu.

5.Trong tất cả các cuộc thi đấu được tổ chức theo điều luật 12.1 (a), (b) và (c) ở cự ly 800m, vận động viên phải theo các ô riêng tới khi đén vạch cho phép chạy vào đường chung được kẻ từ sau đoạn vòng đầu tiên, từ đây các vận động viên có thể rời khỏi ô chạy riêng của mình.

Vạch cho phép chạy vào đường chung phảu là một vạch hình vòng cung, rộng 5 cm, cắt qua  đường chạy, tại mỗi đầu được đánh dấu bằng một cây cờ cao tối thiểu là 1,50m cắm bên ngoài đường chạy.

Ghi chú 1: Để giúp các vận động riêng nhận rõ vạch cho phép chạy vào đường chung có thể đặt tại giao điểm của vạch phân chia ô chạy và vạch cho phép chạy vào đuaoàng chung này các trụ làm mốc hình nón hoặc hình lăng trụ với kích thước 5 x 5cm cà cao không quá 15 cm có cùng màu với vạch cho phép chạy vào dường chung.

Ghi chú 2: Trong các cuộc thi đấu quốc tế, các nước, có thể thoả thuận với nhau không sử dụng các ô chạy riêng.

RỜI KHỎI ĐƯỜNG CHẠY

6. Vận động viên sau khi rời khỏi đường chạy một cách tự ý sẽ không được phép tiếp tục thi đấu.

ĐÁNH DẤU TRÊN ĐƯỜNG ĐUA

  1. Trừ trường hợp trong các cuộc thi chạy tiếp sức các ô chạy riêng, các vận động viên không được phép đánh các dấu hiệu hoặc đặt các vật thể trên hoặc dọc theo tuyến đường đua nhằm hỗ trợ cho mình.

ĐO TỐC ĐỘ GIÓ

8. Thời gian mà tốc độ gió được đo từ khi có tia sáng của súng phát lệnh hoặc dụng cụ phát lệnh là như sau:

100m 10 giây

100 rào 13 giây

110m rào 13 giây

Trong môn thi 200m, tốc độ gió sẽ được đo trong thời gian 10 giây từ lúc người chạy đầu tiên chuyển vào đoạn đường thẳng.

  1. Dụng cụ đo tốc độ gió đối với các môn chạy phải đặt bên cạnh đường thẳng, sát với ô chạy và cách đường đích 1,50m. Dụng cụ đo tốc độ gió phải được đặt cao 1,22m và không được cách đường chạy quá 2m.
  2. Kết quả trên dụng cụ đo tốc độ gió phải được đọc theo đơn vị m/giây và được làm tròn tới 0,1 m/giây theo hướng tăng lên khi gió xuôi và theo hướng giảm đi khi gió ngươcj. (Thí dụ: đọc  +2.03m/giây thì sẽ ghi là 2,1m/giây ; còn đọc –2.03m/giây thì sẽ ghi là 2.0m/giây). Các dụng cụ đo hiện số để đọc tới 1/10 của m/giây được lắp đặt để phù hợp với luật này.

Các dụng cụ đo tốc độ gió phải được chứng nhận của cơ quan có thẩm quyền thích hợp.

11.Trong tất cả các cuộc thi đấu quốc tế trong điều 12.1(a) đến f đều phải sử dụng máy đo tốc độ gió siêu âm.

Máy đo tốc độ gió cơ học phải có bộ phận che chắn thích hợp để giảm tác động của thành phần gió thổi ngang. Trường hợp sử dụng các ống hướng gío thì độ dài các cạnh của dụng cụ đo ít nhất phải bằng hai lần đường kính của ống.

12.Máy đo tốc độ gió phải tự động tắt và mở, hoặc đuaoạc điều khiển từ xa, và các số liệu đo phải được truyền trực tiếp vào hệ thống máy tính dùng cho cuộc thi đấu.

 

ĐIỀU 164

VỀ ĐÍCH

1. Đích của một cuộc thi chạy phải được biểu thị bằng một vạch trắng rộng 5 cm.

  1. Để giúp cho việc điều chỉnh thẳng hàng của thiết bị chụp ảnh đích và để tiện lợi cho việc đọc phim đích, giao điểm giữa các vạch của các ô chạy và vạch đích phải được sơn màu đen với thiết kế phù hợp.

3.. Các vận động viên sẽ được xếp theo thứ tự mà trong đó thứ tự về đích của các vận động viên sẽ được tính tại thời điểm mà ở đó bất kỳ phần cơ thể nào của họ, trừ đầu, cổ, tay, chân, bàn tay, bàn chân chạm tới mặt phẳng thẳng đứng tại mép gần của gần của vạch đích như đã dược xác định ở trên.

4. Trong bất kỳ cuộc thi mà thành tích dựa trên cơ sở độ dài đã vượt qua được trong một thời gian cố định, đúng 1 phút trước khi kết thúc cuộc thi , trọng tài phát lệnh phải bắn súng để báo trước cho các vận động viên và các trọng tài giám định biết là cuộc thi đã gần kết thúc. Trọng tài phát lệnh phải được tổ trưởng trọng tài bấm giờ chỉ dẫn và tại thời điểm chính xác sau xuất phát sẽ phát tín hiệu kết thúc cuộc thi bằng việc nổ súng một lần nữa. Tại thời điểm súng nổ để phát lệnh kết thúc cuộc thi, các trọng tài giám định được phân công sẽ đánh dấu chính xác điểm mà tại đó mỗi vận động viến chạm vào đường chạy trong thời gian cuối cùng trước khi hoặc đồng thời cùng với tiếng nổ của súng. Cự ly đạt được phải được đo tới mép gần nhất phía sau vạch đánh dấu này. Ít nhất một trọng tài giám định phải được phân công theo dõi mỗi vận động viên trước khi bắt đầu cuộc thi để đánh dấu cự ly mà vận động viên đạt được.

 

ĐIÊU 165

XÁC ĐỊNH THỜI GIAN VÀ CHỤP ẢNH ĐÍCH

1 .Hai phương pháp xác định thời gian được  công nhận chính thức là:

-Đo  thời gian bằng đồng hồ bấm tay (HT).

-Đo thời gian tự động hoàn toàn từ hệ thống chụp ảnh đích (ET).

DÙNG ĐỒNG HỒ BẤM TAY

2. Các trọng tài bấm giờ phải ở vị trí thẳng hàng với đích ở phía ngoài đường chạy. Dù ở bất kỳ vị trí nào có thể, các trọng tài bấm giờ đều phải cách xa ô chạy ngoài cùng của đường chạy ít nhất là 5m. Để tất cả các trọng tài bấm giờ có thể quan sát được tốt, cần phải trang bị một bục trọng tài có các bậc cao dần.

  1. Các trọng tài bấm giờ phải sử dụng đồng hồ bấm chuyên dụng hoặc là các loại đồng hồ điện tử điều khiển bằng tay có mặt hiện số. Tất cả các dụng cụ đo thời gian như vậy được gọi trong các điều luật của IAAFlà ”đồng hồ bấm giờ”.

Thí dụ: Ở nội dung 800m:

–XP- hết vòng I                   :53.81

-Về đích                              :1:47.23

  • Ở nội dung 1.500m:

-XP- vạch đích  :36.17

-Tiếp- vạch đích  :1:36.17

-Tiếp- 1000m  :2:42.08

-Tiếp- đích   :3:59.51

  • Ở nội dung 3.000m:

-XP- hết vòng 1  :53.81

XP- hết vòng 2  :1:49.03

Xp- hết vòng 3  :3:00.00

4. Thời gian của tất cả những người về đích phải được ghi lại.  Ngoái ra, khi có thể, thời giaisau mỗi vòng, mỗi 1000m cần phải được ghi lại (và thông báo)  bởi các trọng tài bấm giờ chính hoặc các trợ lý trọng tài bấm giờ. Thời gian ở mỗi vòng trong các cuộc đua từ 800m trở lên và  thời gian ở mỗi 1000m của các cuộc đua  3000m cũng phải được các thành viên được phân công của tổ bấm giờ dùng loại đồng hồ đa năng có thể ghi được nhiều mức thời gian khác nhau ghi lại, hoặc do các trọng tài bấm giờ phụ ghi lại.

5. Thời gian phải được ghi từ lúc có tia lửa hoặc khói súng (hoặc máy phát lệnh) phát ra tới thời điểm mà tại đó bất kỳ một bộ phận nào của cơ thể vận động viên trừ đầu, cổ, tay, chân, bàn tay, bàn chân, chạm vào mặt phẳng thẳng đứng của mép vạch đích gần nhất.

6. Ba trọng tài bấm giờ chính thức (trong đó có tổ trưởng trọng tài bấm giờ) và 1 hoặc 2 trọng tài bấm giờ phụ phải xác định thời gian của người về nhất ở mỗi đợt chạy. Những thời gian do đòng hồ bấm giờ của trọng tài phụ ghi lại được sẽ được xem xét trong trường hợp có một hoặc nhiều đồng hồ của các trọng tài bấm giờ chính thức không ghi được thời gian một cách chính xác. Trong trường hợp này các trọng tài bấm giờ phụ sẽ được mời đến theo thứ tự đã được quyết định từ trước đó, để trong tất cả các cuộc đua phải có 3 đồng hồ ghi được thời gian choính thức của người về nhất.

7. Mỗi trọng tài bấm giờ phải hành động độc lập và không được để lộ đồng hồ của mình, không bàn luận thời gian mình đã xác định được với bất cứ người nào, phải ghi thời gian đó vào phiếu ghi chính thức, ký tên mình vào đó rồi chuyển cho tổ trưởng trọng tài bấm giờ là người được phép kiểm tra độ chính xác của các đồng hồ để xác định thời gian về đích.

8. Đối với các cuộc thi trên sân vận động mà việc xác định thời gian được thực hiện bằng đồng hồ bấm tay, thời gian sẽ được đọc tới 1/10 giây tiếp sau đó.  Đối với các cuộc thi có một phần hoặc hoàn toàn bên ngoài sân vận động, thời gian xá định sẽ được làm tròn tới đơn vị giây tiếp sau đó. Thí dụ 10.11 sẽ được đọc là 10.2.

9. Nếu 2 trong số 3 đồng hồ có thời gian khớp nhau và đồng hồ thứ 3 không khớp thì thời gian của hai đồng hồ khớp nhau sẽ là thời gian chính thức. Nếu cả 3 đồng hồ có thời gian không khớp nhau thì thời gian của đồng hồ ở giữa sẽ là thời gian chính thức. Nếu chỉ có 2 đồng cho ra kết quả và thời gian của chúng lại khác nhau thì thời gian dài hơn sẽ là thời gian chính thức.

10.Tổ trưởng trọng tài bấm giờ, khi làm việc theo đúng các điều luật được nêu ra trên đây, sẽ quyết định thời gian chính thức cho mỗi vận động viên và cung cấp kết quả cho  Thư ký cuộc thi để công bố.

 

 XÁC ĐỊNH THỜI GIAN BẰNG THIẾT BỊ HOÀN TOÀN TỰ ĐỘNG

  1. Thiết bị chụp ảnh đích tự động hoàn toàn  phải được đưa vào sử dụng trong tất cả các cuộc thi đấu.

CÁC ĐIỀU KIỆN CƠ BẢN

  1. Hệ thống chụp ảnh đích phải có chức năng in ra những bức ảnh chỉ rõ thời gian của mỗi vận động viên.
  2. Quy trình tính thời gian phải được bắt đầu một cách tự động đúng lúc có tiếng súng nổ của trọng tài phát lệnh hoặc máy phát lệnh chuyên dụng và đồng thời thiết bị này phải tự động ghi lại được các thời gian về đích của các vận động viên.
  3. Một hệ thống máy xác định thời gian vận hành tự động hoặc tại vị trí xuất phát hoặc tại đích song không phải là ở cả 2 nơi đó sẽ bị coi là thiết bị xác định thời gian không phải bằng tay mà cũng chẳng phải hoàn toàn tự động, do vậy không đuaoạc dùng để xác định thời gian chính thức. Trong trường hợp này, những thời gian được đọc trên phim, dưới bất cứ điều kiện nào, sẽ không được coi là chính thức, song phim đó có thể được dùng làm tư liệu hỗ trợ có giá trị để xác định các giá trị để xác định các thứ tự về đích và hiệu chỉnh thời gian cách quãng giữa các vận động viên.

Ghi chú: Nếu dụng cụ xác định thời gian này không bắt đầu theo tiếng súng phát lệnh hoặc máy phát lệnh chuyên dụng thì thước đo thời gian trong phim sẽ tự động chỉ ra trường hợp này.

15.Thiết bị chụp ảnh đích tự động hoàn toàn phải được IAAF chấp nhận căn cứ vào thử nghiê4mj về độ chính xác của thiết bị được tiến hành trong 4 năm trước cuộc thi đấu. Thiết bị phải bắt đầu hoạt động một cách tự động theo tiếng súng phát lệnh hay máy phát lệnh chuyên dụng để khoảng thời gian giữa tiếng nổ phát ra và sự bắt đầu của hẹ thống máy đo thời gian không thay đổi và luôn nhỏ hơn 1/1000 giây.

16.Trong tất cả các hệ thống máy đo thời gian và ghi hình tự động hoàn toàn, chế độ ghi hình và ghi thời gian phải ăn khớp với nhau.

HỆ THỐNG MÁY MÓC

17. Có thể sử dụng hệ thống máy ghi hình-thời gian, với điều kiện là:

(a)   Tính năng của máy đáp ứng được những điều kiện cơ bản nêu trên

(b)  Máy có láp một camera ghi hình chiếu thẳng hàng với vạch đích và ghi lại được ít nhất là 50 khuôn hình trong một giây.

(c)   Bao gồm một thiết bị tính thời gian có hiển thị các ssố đọc được tới  1/50 giây.

(d)  Thời gian đối với mỗi vận động viên được đọc từ thời gian của ảnh mà tại đó có bất cứ một phần nào thuộc  thân trên của vận động viên chạm tới mặt phẳng đứng tại mép gần nhất của vạch đich. Trường hợp không có một ảnh nào cho thấy có một phần bất kỳ của thân trên ở vị trí như vậy thì thời gian phải được lấy từ ảnh mà ở đó phần thân trên của vận động viên vừa mới vượt qua mép vạch đích.

Ghi chú: Trường hợp các vận động viên về đích trùng nhau và không có một hình ảnh nào thể hiện một phần thân trên của vận động viên chạm vào mặt phẳnh thẳng đứng qua mép gần nhất của vạch đích, thì hình ảnh chỉ ra các vận động viên ở ngay trước và ngay sau cạch đích của họ sẽ được xem xét. Nếu có sự thay đổi ở vị trí về dích giữa 2 hình ảnh này thì tổ trưởng trọng tài giám địng ảnh đích sẽ tuyên bố có sựn về đích cùng nhau giữa các vạn động viên nói trên.

18. Có thể sử dụng hệ thống máy xác định thời gian không dựa trên nguyên lý video với điều kiện:

a)     Tính năng của máy đáp ứng được những điều kiện cơ bản nêu trên.

b)     Máy ghi lại việc về đích qua một camera có đường vạch thẳng đứng được định vị tại phần kéo dài ra phía ngoài của vạch đích và in ra một chuỗi hình ảnh liên tiếp nhau. Hình ảnh này cũng phải ăn khớp với thước đo thời gian được đánh dấu đều nhau thành từng đơn vị 1/100 giây.

c)      Các thời gian và các vị trí được đọc ra từ các hình ảnh này bằng một thiết bị chuyên dụng đảm bảo độ vuông góc giữa thước đo thời gian và vạch dọc.

VẬN HÀNH THIẾT BỊ ĐO THỜI GIAN

19. Tổ trưởng trọng tài giám định ảnh đích phải chịu trách nhiệm về sự hoạt động của thiết bị này.

20. Trước khi bắt đầu thi đấu, người tổ trưởng này phải họp các nhân viên kỹ thuật có liên quan và làm quên, nắm được quy trình hoạt động của thiết bị, phải giám sát việc lắp đặt thiết bị vào vị trí và cho chạy thử.

21. Nếu có thể, nên có ít nhất 2 camera cùng hoạt động, mỗi bên một camera. Tốt nhất là các hệ thống thiết bị đo thời gian (camera) phải hoạt đông độc lập  về mặt kỹ thuật, nghĩa là có nguồn cung cấp năng lượng khác nhau và việc ghi và phát lại tiếng súng nổ của trọng tài phát lệnh hoặc các máy phát lệnh chuyên dụng bằng các thiết bị và cáp truyền riêng biệt.

Ghi chú: Trường hợp dùng 2 hay nhiều camera ghi ảnh đích, một cái phải được Đại diện kỹ thuật  (hoặc trọng tài giám định quốc tế về ảnh đích) đánh dấu là cái chính thức trước khi bắt đầu cuộc thi. Thời gian và các vị trí thu được từ các camera khác sẽ không được xem xét trừ khi có lý do để nghi ngờ sự chuẩn xác của camera chính thức hoặc nếu có nhu cầu ảnh bổ sung để quyết định cho những trường hợp chưa chắc chắn trong thứ hạng về đích (nghĩa là những vận động viên bị che khuất toàn bộ hay một phần trong ảnh đích).

22. Tổ trưởng trọng tài giám định ảnh đích phải phối hợp với trọng tài giám sát môn chạy và trọng tài phát lệnh, chủ động kiểm tra trước mỗi đợt xuất phát để đảm bảo cho thiết bị được hoạt động một cách tự động khi có tiếng súng phát lệnh  và được sắp đặt thẳng hướng một cách chính xác. Đồng thời phải kiểm tra tình trạng hoạt động của thiết bị ở giá trị 0.

23. Tổ trưởng trọng tài giám định ảnh đích phải kết hợp với 2 trợ lý của mình để xác định thứ hạng các vận động viên về đích và thời gian đạt được của riêng từng người. Phải ghi các thứ hạng này cùng các kết quả đo thời gian vào phiếu ghi thành tích chính thức (bản chính)ký tên vào đó, rồi chuyển lên cho ban thư ký.

24. những thời gian tính được từ camera ghi ảnh đích sẽ được coi là chính thức trừ khi vì một lý do nào đó, vị quan chức có thẩm quyền quyết định rằng nhỡng kết quả đó rõ ràng và chắc chắn rằng không chính xác. Nếu xảy ra trường hơp như vậy, những thời gian của các trọng tài bấm giờ phụ đo được, nếu có thể hiệu chỉnh được khớp với thông tin về thời gian cách quãng ghi được từ các ảnh đích, sẽ là chính thức. Phải cử các trọng tài bấm giờ phụ trong trường hợp có khả năng xảy ra sự trục trặc của thiết bị đo thời gian.

25. Các thời gian sẽ được đọc từ ảnh đích theo những cách thức dưới đây:

a)          Đối với các cuộc đua ở cự ly dưới hoặc bằng 10.000m, thời gian sẽ được đọc từ ảnh đích tới 1/100 giây và sẽ được ghi tới 1/100 giây. trừ khi thời gian này là một số chính xác tới 1/100 giây còn thì nó sẽ được đọc tới 1/100 giây tiếp sau đó.

b)    Đối với tất cả các cuộc đua trong sân vận động ở cự ly dài hơn 10.000m tất cả các thời gian được đọc không tận cùng bằng số không sẽ được làm tròn lên 1/10 .giây và ghi tới 1//0 giây. Thí dụ: ở cự ly 20.000m, 59:26.32 sẽ được ghi thành 59:26:4.

b)         Đối với các cuộc thi có một phần hoặc hoàn toàn bên ngoài sân vận động, thời gian sẽ được đọc tới 1/100 giây. Tất cả các thời gian không tận cùng bằng 2 số không sẽ được làm tròn tới giây kế tiếp sau đó. Thí dụ: Ở cự ly maratông 2:09:44.32 sẽ được ghi là 2:09:45.

ĐIỀU 166

CHỌN HẠT GIỐNG,  RÚT THĂM VÀ THI LOẠI TRONG CÁC MÔN CHẠY

CÁC VÒNG THI VÀ CÁC ĐỢT THI

  1. Trong các đợt  thi đấu chạy  mà số lượng các vận động viên quá đông không thể tổ chức thi đấu trong một vòng duy nhất thì phải tổ chức các vòng đấu sơ loại. Trong trường hợp có tổ chức thi đấu các vòng sơ loại, tất cả các vận động viên viên tham gia thi đấu đều phải qua các vòng đấu này.
  2. Các đợt thi, thi tứ kết và bán kết trong trường hợp cần thiết phải do Đại diện kỹ thuật được bổ nhiệm sắp xếp. Nếu không có Đại diện kỹ thuật nào được bổ nhiệm thì phải do ban tổ chức sắp xếp.

Trong các cuộc thi đấu theo điều 12.1 (a), (b) và (c), nếu không có gì bất thường xảy ra thì cách sắp xếp bảng thi đấu dưới đây sẽ được sử dụng để xác định số vòng thi và số đợt thi trong mỗi vòng, để chọn ra các vận động viên tiếp tục thi đấu ở các vòng sau.

100m, 200m, 400m, 100m rào, 110m rào, 400m rào

 

Danh Các  Thứ Thời    Các   Thứ Thời Các đợt Thứ

Sách          đợt thi hạng gian  đợt thi   hạng gian thi  hạng

đăng ký vòng1    vòng 2   vòng 3

9-16  2 3  2 

17-24 3 2  2

25-32 4 3  4        2      4

33-40 5 4  4        3      4     4       2                     4

41-48 6 4  8        4      4        2                     4

49-56 7 4  4        4      4        2                       4

57-64 8 3  8        4      4        2                     4

65-72 9 3  5        4      4                 2                        4

73-80 10 3  2        4      4        2                      4

81-80 11 3  7        5      3       1       2                      4

89-96 12 3  4        5      3      1       2                      4

97-104 13 3  9        6      2      4          2                      4

105-112 14 3  6        6      2      4        2                      4

 

800m, 4x100m, 4x400m

 

Danh Các  Thứ Thời Các Thứ Thời Các đợt Thứ

Sách          đợt thi hạng gian đợt thi   hạng gian thi  hạng

đăng ký vòng1    vòng 2   vòng 3

 

9-16  2  3  2

17-24 3  2  2

25-32 4  3  4   2    3   2

33-40 5  2  6   2    3   2 

41-48 6  2  4   2    3   2 

49-56 7  2  2   2    3   2

57-64 8  2  8   3    2   2

65-72 9  3  5   4    3   4            2   4

73-80 10  3  2   4    3   4  2 4

81-88 11  3  7   5    3   1  2 4

89-96 12  3  4   5    3   1  2 4

97-104 13  3  9   6    2   4  2 4

105-112 14  3  6   6    2   4  2 4

 

1500m

Danh Các  Thứ Thời Các Thứ Thời  

Sách          đợt thi hạng gian đợt thi   hạng gian   

đăng ký vòng1    vòng 2   

16-24 2 4 4

25-36 3 6 6 2 5 2

37-48 4 5 4 2 5 2

49-60 5 4 4 2 5 2

61-72 6 3 6 2 5 2

3000m CN, 3000m

 

Danh Các  Thứ Thời Các Thứ Thời   

Sách          đợt thi hạng gian đợt thi   hạng gian 

Đăng ký vòng 1   vòng 2

 

16-30 2  4  4

31-45 3  6  6   2    5   2

46-60 4  5  4   2    5   2

61-75 5  4  4   2    5   2

5000m

 

Danh Các  Thứ Thời Các Thứ Thời   

Sách          đợt thi hạng gian đợt thi   hạng gian 

Đăng ký vòng 1   vòng 2

20-38 2 5 5

39-57 3 8 6 2 6 3

58-76 4 6 6 2 6 3

77-95 5 5 5 2 6 3

10.000m

 

Danh    Các              Thứ              Thời    

Sách             đợt thi   hạng              gian 

Đăng ký  vòng 1   

28-54      2               8                 4

55-81      3               5                 5

82-108      4               4                 4

Bất kỳ lúc nào có thể thì các đại diện của mỗi một quốc gia phải được sắp xép vào các đợt chạy khác nhau.

Ghi chú: Khi sắp xếp các đợt chạy thì việc có được càng nhiều thông tin về thành tích của tất cả các vận động viên càng tốt và các đợt chạy này nên được rút thăm để tạo điều kiện cho những vận động viên có thành tích tốt nhất sẽ vào đến vòng thi chung kết.

  1. Sau mỗi vòng thi các vận động viên sẽ được sắp xếp vào các đợt thi của các vòng tiếp theo cách thức như sau:

a)     Đối với các cuộc thi đấu từ 100m đến 400m và các cuộc thi đấu tiếp sức bao gồm các cự ly tới 4x400m, việc sắp xếp các hạt giống sẽ được căn cứ trên cơ sở thứ hạng và thời gian của mỗi vòng đấu trước đó. Như vậy, các vận động viên sẽ được xếp loại như sau:

Người về nhất của đợt chạy có thời gian ngắn nhất.

Người về nhất của đợt chạy có thời gian ngắn thứ nhì.

Người về nhất của đợt chạy có thời gian ngắn thứ ba.

Người về thứ 2  trong đợt chạy có thời gian ngắn nhất.

Người về thứ 2  trong đợt chạy có thời gian ngắn thứ nhì.

.Người về thứ 2  trong đợt chạy có thời gian ngắn thứ 3.

Chọn ra được:

Người đạt thời gian nhanh nhất.

Người đạt thời gian nhanh thứ 2.

Người đạt thời gian nhanh thứ 3…và tiếp tục như vậy.

Sau đó các vận động viên được sắp xếp vào các đợt chạy theo thứ tự sắp xếp hạt giống có sự phân chia chéo (zig-zag) ví dụ ba đợt chạy sẽ bao gồm các hạt giống như sau:

A 1 6 7 12 13 18 19 24

B 2 5 8 11 14 17 20 23

C 3 4 9 10 15 16 21 22

Thứ tự sắp xếp của các đợt thi chạy A, B, C sẽ được rút thăm.

b)     Đối với các nội dung thi khác, danh sách thành tích cũ sẽ tiếp tục được dùng để chọn hạt giống và chỉ thay đổi khi có sự cải thiện về thành tíh đạt được trong vòng thi (các vòng) mới nhất.

c)      Đối với vòng thứ nhất của các cuộc đua cũng phải được sắp xếp theo phương thức tương tự, hạt giống được xác định từ danh sách các thành tích đã được công nhận, đạt được trong một khoảng thời gian được ấn định trước.

  1. Trong các cuộc thi đấu từ cự ly 100m đến 800m và chạy tiếp sức các cự ly đến 4x400m, nếu có một số vòng thi kế tiếp nhau liên tục thì cách rút thăm xác định các ô chạy sẽ được tiến hành như sau:

a)     Trong vòng thi thứ nhất, thứ tự ô chạy sẽ được rút thăm.

b)     Đối với các vòng tiếp theo, các vận động viên sẽ được sáp xếp sau mỗi vòng theo đúng trình tự đã nêu trong điều luật 166.3 (a).

Sẽ có 2 cuộc rút thăm được thực hiện.

-Một cuộc dành cho 4 vận động viên hoặc đội có thành tích cao hơn được sắp xếp vào các ô chạy 3, 4, 5 và 6.

-Cuộc thứ 2 dành cho 4 vận động viên hoặc đội có thành tích thấp hơn để sắp xếp vào các ô 1, 2, 7,và 8.

Ghi chú1: Khi đường chạy có ít hơn 8 ô chạy thì phương pháp trên cần có những thay đổi cho thích hợp.

Ghi chú 2: Trong các cuộc thi đấu theo điều luật 12.1 (d) đến (h) môn thi 800m có thể cho một hoặc hai vận động viên chạy trong mỗi ô, hoặc xuất phát theo nhóm sau một vạch hình vòng cung.

Ghi chú 3: trong các cuộc thi đấu theo điều luật 12/1(a), (b) và (c), thông thường phương thức này chỉ nên áp dụng ở vòng đầu tiên, trừ khi do có những thành tích bằng nhau hoặc do trọng tài giám sát nâng lên thì số vận động viên thi đấu trong đợt tiếp theo sẽ nhiều hơn số đã dự tính.

  1. Vận động viên không được phép thi đấu trong một dợt chạy khác ngoài đợt có ghi tên mình tham gia, trừ trường hợp mà theo ý kiến của trọng tài giám sát là đã có sự điều chỉnh, thay đổi cho đúng.
  2. Trong tất cả các vòng đấu loại, ít nhất là người thứ nhất và người thứ hai trong mỗi đợt chạy được chọn vào thi đuúa vòng sau và trong trường hợp có thể thì ít nhất có 3 người trong mỗi đợt được chọn.

Trừ trường hợp phải áp dụng điều luật 167, bất cứ vận động viên nào có đủ tư cách vào vòng thi đấu sau đều phải được quyết định hoặc là theo các vị trí xếp hạng của họ, hoặc là theo thời gian họ đạt được. Trong trường hợp sau thì chỉ có một phương pháp đo thời gian được áp dụng.

Thứ tự tổ chức các đợt chạy phải được xác định bằng rút tham sau khi thành phần các đợt thi đã được quyết định.

  1. Thời gian tối thiểu giữa đợt chạy cuối cùng của một vòng và đợt chạy đầu tiên của vòng tiếp sau hoặc vòng chung kết được quy định như sau:

Các cự ly đến 200m là 45 phút.

Các cự ly trên 200m cho tới 1000m là 90 phút.

Trên 1000m- không được tổ chức trong cùng một ngày.

  1. Các vòng đấu đơn (chung kết)

Trong các cuộc thi đấu theo điều luật 12.1(a), (b), và (c), đối với các cuộc thi có cự ly dài hơn 800m, các cự ly tiếp sức trên 4x400m và các cuộc thi chỉ cần có một vòng (chung kết), thì các ô chạy, các vị trí xuất phát phải được rút thăm.

 

Điều 146

CÁCH PHÂN ĐỊNH KHI THÀNH TÍCH BĂNG NHAU

 

Khi thành tích bằng nhau thì được phân định như sau:

Để xác định xem đúng là đã có các vận động viên đạt thành tích bằng nhau hay không, trong bất kỳ vòng thi đấu nào mà ở đó việc xác định thành tích bằng thời gian nhằm chọn người vào thi tiếp ở vòng tiếp theo, tổ trưởng trọng tài giám định ảnh đích sẽ phải xem xét thời gian thực tế đã được ghi lại của từng vận động viên với độ chuẩn xác tới 1/1000 giây. Nếu việc kiểm tra đó cho thấy rằng đã có những thành tích lập được ngang nhau, thì những vận động viên đã có thành tích  ngang nhau đó sẽ được sắp xếp thi đấu ở vòng tiếp theo hoặc, nếu việc đó không thể thực hiện được thì phải xác định bằng rút thăm để chọn người được vào thi đấu ở vòng tiếp theo.

Trong trường hợp sự ngang bằng thành tích xảy ra đối với vị trí xếp hạng thứ nhất trong một cuộc thi chung kết, thì trọng tài giám sát có quyền quyết định có thể tổ chức cho các vận động viên có thành tích bằng nhau này thi đấu lại hay không. Nếu quyết định là khônh thì kết quả vẫn giữ nguyên. Sự ngang nhau ở các thứ hạng khác vẫn giữ nguyên.

 

ĐIỀU 168

CHẠY VƯỢT RÀO

1 Các cự ly tiêu chuẩn:

Nam và  nam thiếu niên: 110m, 400m

Nữ và nữ thiếu niên: 100m, 400m

Phải có 10 lần vượt qua rào trên mỗi ô chạy và các rào được sắp đặt theo đúng hướng dẫn trong bảng dưới đây:

NAMNAM THIẾU NIÊN

 

Cự ly thi đấu

Cự ly từ vạch xuất phát đến rào thứ nhất

Cự ly giữa các rào

Cự ly từ rào cuối cùng đến vạch đích

(m)

(m)

(m)

(m)

110

13,72

9,14

14,02

400

45

35

40

 

NỮ VÀ NỮ THIẾU NIÊN

Cự ly thi đấu

Cự ly từ vạch xuất phát đến rào thứ nhất

Cự ly giữa các rào

Cự ly từ rào cuối cùng đến vạch đích

(m)

(m)

(m)

(m)

110

13

8,5

10,5

400

45

35

40

 

Mỗi rào được đặt trên đường chạy sao cho chân đế rào quay về phía vạch xuất phát, cạnh hướngvề phía xuất phát của thanh ngang trên rào trùng với mép gần nhất của vạch đánh đấu.

2. Cấu trúc: Rào được làm bằng kim loại hoặc những vật liệu phù hợp khác. Rào có một thanh ngang phía trên làm bằng gỗ hoặc vật liệu tương tự. Rào gồm 2 chân đế và hai thanh chống để đỡ khung hình chử nhật được gia cố bởi một hoặc nhiều thanh ngang. Hai thanh chống mỗi thanh được gắn chặt vào một đầu của mỗi chân đế.

Rào được thiết kế như thế nào đó để sao cho khi một lực tối thiểu bằng 3,6kg tác động vào giữa đỉnh của thanh ngang trên rào thì rào bị đổ về trước. Rào có thể điều chỉnh độ cao ở từng mức. Tại mỗi độ cao, bộ phận đối trọng ở chân đế rào sẽ được điều chỉnh lại để sao cho một lực tối thiểu 3,6 - 4,0kg có thể làm đổ rào.

  1. Kích thước. Độ cao tiêu chuẩn của rào:

 

 

 

Nam  Nam thiếu niên Nữ  Nữ thiếu niên

 

Cự ly 100/110m 1,067m     0,914m  0,840m    0,762m

Cự ly 400m  0,914m     0,840m  0,762m    0,762m

Chiều rộng của rào từ 1,18m - 1,20m

Độ dài tối đa của chân đế rào là 70cm(kể cả phần đối trọng

Trọng lượng toàn bộ của rào tối thiểu phải là 10kg.

Trong mỗi trường hợp dung sai cho phép so với độ cao chuẩn là 3mm.

4. Độ rộng của thanh ngang phía trên rào là 7cm, độ dày từ 1 - 2,5cm và hai cạnh trên của thanh ngang được làm tròn. Thanh ngang phải được cố định chắc chắn ở hai đầu.

5. Thanh ngang phía trên rào được sơn các sọc đen và trắng hoặc các màu tương phản khác nhau. Các sọc màu sáng tối thiểu phải rộng 22,5cm được đặt ở hai đầu thanhngang.

6. Tất cả các cuộc thi phải chạy theo ô chạy riêng và mỗi vận động viên phải chạy trong ô chạy riêng của mình.

7. Một vận động viên di chuyển bàn chân hoặc chân thấp hơn mặt phẳng ngang của đỉnh rào của bất kỳ rào nào tại một thời điểm hoặc nhảy qua bất kỳ rào nào không phải trong ô chạy riêng của mình, hoặc theo ý kiến của trọng tài đã cố tình dùng tay hoặc bàn chân làm đổ rào bất kỳ nào sẽ bị truất quyền thi đấu.

8. Ngoại trừ như được qui định trong mục 7, việc đổ rào không dẫn đến bị truất quyền thi đấu và cũng sẽ không cản trở một kỷ lục được lập.

9. Đối với một kỷ lục thế giới, tất cả các rào phải tuân theo những chỉ dẫn kỹ thuật của luật này.

 

ĐIỀU 169

CHẠY VƯỢT CHƯỚNG NGẠI VẬT

1. Cự ly Chuẩn: 2000m và 3000m

2. Trong thi đấu ở cự ly 3000M vượt chướng ngại sẽ có 28 lần nhảy qua rào và 7 lần nhảy qua rào cùng hố nước.

Trong thi đấu ở cự ly 2000m vượt chướng ngại sẽ có 18 lần nhảy qua rào và 5 lần nhảy qua rào cùng hố nước.

3. Đối với cự ly thi 3000m vượt chướng ngại vật, khi hoàn thành mỗi vòng sân sẽ có 4 lần nhảy qua rào cạn và một lần nhảy qua rào cùng hố nước (ở lần nhảy thứ tư). Các lần nhảy sẽ được phân phối đều đặn để cự ly giữa các lần nhảy vào khoảng 1/5 độ dài ấn định của vòng sân.

4. Trong thi đấu 3000m vượt chướng ngại vật khoảng cách từ chỗ xuất phát tới chỗ bắt đầu của vòng đầu tiên sẽ không có bất kỳ rào nào. Các rào được rời chuyển đi cho tới khi các vận động viên chạy vào vòng đầu tiên.

  1. Đối với các cuộc thi của nam các rào cao 0,914m còn đối với các cuộc thi của nữ các rào cao 0,762m (+-3mm) và rộng tối thiểu là 3,96m. Tiết diện (mặt cắt) của thanh ngang trên rào sẽ là một hình vuông có cạnh 12,7cm.

`Rào đặt tại đầu hố nước phải có chiều rộng là 3,66m (±2cm) và phải được cố định chắc chắn vào mặt nền để rào không bị xê dịch theo phương nằm ngang.

Thanh ngang phía trên phải được sơn các sọc trắng và đen hoặc những màu tương phản dễ phân biệt khác, hai phía đầu rào là hai sọc trắng (hoặc sáng màu) có độ rộng tối thiểu bằng 22,5cm.

Trọng lượng của mỗi rào khoảng từ 80kg đến 100kg. Mỗi rào đều có đế ở cả hai bên và chân đế đài từ 1,20m đến 1,40m (xem hình 3).

Hai đầu phải được bố trí trên đường chạy sao cho 30cm của một đầu thanh ngang trên chờm vào bên trong cạnh trong của vòng sân.

Ghi chú: Rào đầu tiên được đưa vào cuộc đua nên có độ rộng tối thiểu 5m.

6. Rào cùng hố nước dài 3,66m (±2cm) và  hố nước phải rộng 3,66m (±2cm) .Phần đáy hố nước phải có cấu tạo bằng một bề mặt nhựa tổng hợp hoặc thảm đệm để đảm bảo an toàn khi vận động viên rơi xuống và cho phép các đinh giày găm xuống một cách thoải mái. Vào lúc bắt đầu cuộc đua, mực nước phải ngang mức với bề mặt đường chạy, bên trong một đường gờ 2cm. Độ sâu của hố nước ở đoạn 30 cm gần với rào nhất phải là 70 cm. Từ đây đáy của hố nước phải dốc đều lêndddeens mặt đường chạy ở đầu xa của hố nước.

7. Mỗi vận động viên phải đi qua hoặc nhảy vượt qua hố nước và bất cứ ai bước sang phía này hoặc phía khác của hố hoặc đưa bàn chân hoặc chân khi vượt qua thấp hơn mặt phẳng ngang của đỉnh thanh ngang rào của bất kỳ rào nào sẽ bị tước quyền thi đấu. Với điều kiện tuân thủ điều luật này, vận động viên có thể vượt qua rào bằng bất kỳ cách nào.

 

Điều 170

THI CHẠY TIẾP SỨC

  1. Các vạch rộng 5cm được vẽ ngang qua đường đua để đánh dấu cự ly của các đoạn và để biểu thị vạch xuấi phát.
  2. Mỗi khu vực trao tín gậy có chiều dài 20m và ở giữa khu vực trao này là vạch đánh dấu cự ly các đoạn. Các khu vực này phải bắt đầu và kết thúc ở mép gần với vạch xuất phát theo hướng chạy của 2 vạch phân chia khu vực.
  3. Các vạch ở giữa khu vực trao tín gậy đầu tiên đối với nội dung thi 4x400m (hoặc các khu vực thứ 2 đối với môn thi 4x200m) cũng chính là các vạch xuất phát cho nội dung thi chạy 800m.
  4. Các khu vực trao tín gậy dành cho lần trao thứ 2 và lần trao cuốicùng (4x400m) sẽ được giới hạn bởi những vạch cách 10m về phía bên này và bên kia vạch xuất phát / vạch đích.
  5. Vạch hình vòng cung cắt ngang đường chạy tại nơi bắt đầu vào đường thẳng tiếp sau chỉ vị trí mà tại đó những người chạy ở chặng thứ 2 (4x400m) và những người chạy ở chặng thứ 3 (4x200m) được phép rời khỏi ô chạy riêng của mình, phải trùng với vạch hình vòng cung cho môn thi chạy 800m bhư đã được mô tả trong điều luật 163.5.

6.   Các cuộc thi tiếp sức 4x100m và nếu có thể cả 4x200m sẽ phải chạy hoàn toàn theo ô chạy riêng.

Trong các cuộc thi tiếp sức 4x200m (nếu môn này không chạy hoàn toàn theo từng ô chạy riêng) và tiếp sức 4x400m, ở vòng chạy đầu tiên cũng như phần đường vòng đầu tiên của vòng chạy thứ hai để bắt vào đường thẳng sẽ phải chạy hoàn toàn theo ô chạy riêng.

Ghi chú : Trong thi tiếp sức 4x200m và 4x400m mà chỉ có từ 4 đội trở xuống thì nên bố trí cho các vận động viên chạy theo ô riêng của mình trong đường vòng đầu tiên của vòng chạy đầu.

7.    Trong các cuộc thi 4x100m và 4x200m, các thành viên của đội, trừ người chạy đầu tiên, có thể bắt đầu chạy từ bên ngoài vùng trao gậy tiếp sức song tối đa không quá 10m (xem mục 2 ở trên). Dấu phân biệt phải được đánh trong mỗi ô chạy để chỉ rõ giới hạn kéo dài.

8.   Trong thi chạy tiếp sức 4x400m, tại khu vực trao tín gậy đầu tiên các vận động viên vẫn phải ở trong các ô riêng của họ, người chạy thứ 2 không được phép bắt đầu chạy ở ngoài vùng trao gậy của anh ta và phải xuất phát trong vùng trao gậy này. Tương tự người chạy thứ 3 và thứ 4 phải bắt đầu chạy từ phía trong của họ.

Người chạy thứ hai của mỗi đội có thể chạy tách ra khỏi ô chạy của mình ngay khi họ đã vượt qua vạch cho phép chạy vào đường chung sau đường vòng đầu tiên, vạch cho phép này sẽ được đánh dấu bằng một vạch hình vòng cung rộng 5cm ngang qua đường đua và hai đầu có cắm cờ với độ cao tối thiểu là 1,5m.

Ghi chú 1: Để giúp cho các vận động viên nhận rõ vạch cho phép chạy vào đường chung này, những vật mốc nhỏ hình nón hoặc hình lăng trụ (5cmx5cm) và không được cao quá 15cm, trùng màu với vạch cho phép chạy tạt vào này sẽ được đặt tại giao điểm của mỗi ô chạy và vạch cho phép  từ ô chạy riêng vào đường chạy chung.

9.   Những vận động viên ở chặng chạy thứ 3 và thứ 4 của cuộc thi chạy tiếp sức 4x400m, dưới sự hướng dẫn của trọng tài, phải đứng ở vị trí đợi của họ theo thứ tự (từ trong ra ngoài) giống như thứ tự của các thành viên tương ứng trong đội của họ khi hoàn thành 200m trong chặng đua của họ. Khi đồng đội chạy  qua điểm này, các vận động viên đợi gậy phải duy thứ tự của họ và không được đổi vị trí tại chỗ bắt đầu của vùng trao tín gậy. Nếu có một vận động viên nào đó không tuân thủ đúng điều luật này thì cả đội của anh ta sẽ bị truất quyền thi đấu.

10.  Trong các cuộc thi chạy tiếp sức khác khi không sử dụng ô chạy riêng, các vận động viên đợi tín gậy có thể đứng ở vị trí phía trong trên đường đua trong lúc đồng đội của mình đang chạy tới, miễn là họ không chen lấn hoặc cản trở các vận động viên đợi tín gậy khác.

  1.          Các dấu kiểm tra. Khi tất cả hoặc phần đầu tiên của cuộc thi tiếp sức đang chạy theo các ô riêng, một vận động viên có thể để một dấu kiểm tra trên đường, ở trong ô chạy riêng của anh ta bằng cách sử dụng băng dính có kích thước tối đa 5cmx40cm. Băng dính này phải có màu sắc dễ phân biệt để không bị lẫn với các vật đánh dấu cố định khác. Đối với đường đua rải than xỉ hoặc thảm cỏ,vận động viên có thể đánh dấu  trong ô chạy riêng của mình bằng cách cào xước trên mặt đường chạy. Ngoài 1 trong 2 cách này không được phép sử dụng bất kỳ cách đánh đấu nào khác.

12. Gậy tiếp sức phải là một ống rỗng và nhẵn, có tiết diện ngang hình tròn, làm bằng gỗ, kim loại hoặc bất kỳ một vận liệu nào cứng khác. Độ dài của gậy tiếp sức không được quá 30cm và cũng không ngắn hơn 28cm. Chu vi của vòng gậy phải từ 12cm đến 13cm và trọng lượng của gậy không được dưới 50gam. Gậy phải có màu sao cho dễ nhận thấy trong lúc thi đấu.

  1. Gậy tiếp sức phải được vận động viên cầm bằng tay vượt qua hết cự ly. Nếu bị rơi gậy,vận động viên đánh rơi phải tự mìnhnhặt lại. Nếu bị rơi gậy, vận động viên đánh rơi phải tự mình nhặt lại.  Vận động viên này có thể rời khỏi ô chạy riêng của mình để nhặt gậy tiếp sức với điều kiện khi làm việc này, vận động viên không làm giảm bớt cự ly chạy mà mình phải vượt qua. Nếu thực hiện đúng quy định này và không có vận động viên nào khác bị cản trở thì việc đánh rơi gậy sẽ không bị coi là phạm quy.
  2. Trong tất cả các cuộc thi chạy tiếp sức, gậy tiếp sức phải được chuyển giao trong khu vực trao gậy. Việc chuyển giao gậy được tính từ khi người nhận bắt đầu chạm vào gậy và kết thúc vào lúc gậy chỉ còn ở trong tay người nhận. Vận động viên không được phép đeo găng hoặc bôi các chất liệu lên 2 bàn tay mình để có thể bắt được gậy dễ dàng hơn.  Bên trong vùng trao gậy tiếp sức chỉ có vị trí của gậy là có tính chất quyết định chứ không phải là vị trí của thân mình hay chân, tay của vận động viên. chuyển giao gậy tiếp sức bên ngoài khu vực trao gậy sẽ bị mất quyền thi đấu (phạm quy).

15.  Các vận động viên trước khi nhận và cả sau khi đã chuyển giao được gậy tiếp sức phải tiếp tục di chuyển trong ô chạy  haytrong khu vực trao gậy của mình cho tới khi  các vận động viên đội khác đã chạy qua để tránh gây cản trởtới các vận động viên khác. Nếu bất kỳ vận động viên nào cố tình gây cản trở một thành viên của đội khác bằng cách chạy ra ngoài vị trí hoặc ô chạy  lúc kết thúc  chặng của mình thì đội của người đó sẽ bị mất quyền thi đấu.

16.  Việc hỗ trợ bằng cách đẩy lên hoặc bằng bất kỳ phương thức nào khác sẽ bị mất quyền thi đấu.

17.  Khi một đội thi tiếp sức đã bước vào thi đấu, chỉ có 2 vận động viên ở ngoài có thể được dùng như những người dự bị (thay thế) trong thành phần của đội ở các vòng sau.

Việc thay người trong một đội thi chạy tiếp sức chỉ có thể được lấy từ danh sách các vận động viên đã được đăng ký trước cuộc thi dù là môn đó hay bất kỳ môn nào khác.

18. Thành phần của đội và trình tự chạy trong một cuộc thi chạy tiếp sức phải được tuyên bố chính thúckhông chậm hơn một giờ  trước lúc gọi công khai lần thứ nhất để vào đợt chạy đầu tiên của mỗi vòng trong cuộc thi. Những thay đổi muộn hơn chỉ có thể được thực hiện vì những lý do về y tế (phải do một cán bộ y  tế đã được Ban tổ chức bổ nhiệm xác nhận) cho tới trước lần gọi cuối cùng, để vào đợt chạy riêng biệt mà ở đó đội đang thi đấu. Khi một vận động viên đã xuất phát trong vòng trước đã được thay bằng một vận động viên dự bị thì vận động viên đó không thể trở lại đội (để thi các vòng sau).

 

CHƯƠNG IV

CÁC MÔN NHẢY VÀ NÉM ĐẨY

ĐIỀU 180

CÁC ĐIỀU KIỆN CHUNG

 

KHỞI ĐỘNG TẠI KHU VỰC THI ĐẤU

  1. Tại khu vực thi đấu và trước khi bắt đầu nội dung thi, mỗi vận động viên có thể thực hiện các lần thử. Trong các môn ném, các lần thử sẽ tiến hành theo trình tự rút thăm và luôn dưới sự giám sát của trọng tài chính.
  2. Trong trường hợp một vận động viên đã bắt đầu, các vận động viên khác không được phép sử dụng với mục đích tập hay khởi động tại:

a)     Đường chạy đà hoặc khu vực giậm nhảy.

b)     Dung cụ.

c)      Vòng đẩy hoặc vùng đất trong khu vực cùng với dụng cụ hoặc không có dụng cụ.

CÁC VẬT ĐÁNH DẤU

3.  Trong tất cả các môn nhảy và ném đẩy mà tại đó có sử dụng đường chạy đà, các vật đánh dấu phải được đặt kế bên đường chạy đà, ngoại trừ đối với nhảy cao thì vật đánh dấu có thể được đặt trên  đường chạy đà. Một vận động viên có thể sử dụng một hoặc 2 vật đánh dấu (được ban tổ chức cung cấp hoặc chấp nhận) để trợ giúp bản thân trong khi chạy đà và giậm nhảy. Nếu các vật đánh dấu như vậy không được cung cấp, vận động viên có thể sử dụng băng dính nhưng không được vẽ bằng phấn hoặc chất tương tự nào có thể để lại dấu không thể tẩy xoá.

TRÌNH TỰ THI ĐẤU

4.  Các vận động viên phải thi đấu theo trình tự kết quả rút thăm. Nếu có vòng thi đấu sơ loại thì phải có một lần rút thăm mới cho vòng chung kết (xem mục 5 phía dưới).

CÁC LẦN THỰC HIỆN

5.  Trong tất cả các nội dung nhảy và ném đẩy, Ngoại trừ nhảy cao và nhảy sào, mà có nhiều hơn 8  vận động viên  thì mỗi  vận động viên được phép thực hiện 3 lần và 8  vận động viên có thành tích tốt nhất sẽ được phép thực hiện thêm 3 lần nữa. Trong trường hợp có thành tích bằng nhau ở vị trí thứ 8 thì sẽ được giải quyết theo mục 20 dưới đây.

Trong trường hợp chỉ có 8  vận động viên hoặc ít hơn thì mỗi vận động viên sẽ được phép thực hiện 6 lần.

Trong cả hai trường hợp, trình tự thi đấu của các  vận động viên ở 3 vòng cuối cùng sẽ được sắp xếp ngược lại với thứ hạng của họ sau 3 lần đầu (người có thành tích tốt nhất sẽ nhảy sau cùng).

Ghi chú: Đối với các môn nhảy theo hướng thẳng đứng (xem điều 181.2).

  1. Ngoại trừ nhảy cao và nhảy sào, không vận động viên nào được phép có nhiều hơn một lần nhảy được ghi thành tích trong bất cứ một vòng nào của cuộc thi.
  2. Trong các cuộc thi đấu quốc tế, trừ giải vô địch thế giới (ngoài trời, trẻ, trong nhà và thiếu niên) và các đại hội Olympic, số lượng các lần thực hiện trong các môn nhảy và ném đẩy theo phương nằm ngang có thể bị giảm đi. Điều này sẽ do cơ quan giốc gia hoặc quốc tế kiểm soát cuộc thi đấu quyết định.

CUỘC THI SƠ LOẠI

  1. Trong trường hợp số lượng các vận động viên là qua đông một vòng thi sơ loại sẽ được tiến hành trong các môn nhảy và ném đẩy để trong vòng chung kết cuộc thi được tiến hành thoả đáng. Khi một vòng sơ loại được tổ chức tất cả các vận động viên phải thi đấu và vượt qua  vòng này. Thành tích được tạo ra trong vòng sơ loại sẽ không được coi là thành tích thi đấu.
  2. Các  vận động viên  phải được chia thành 2 hoặc nhiều nhóm. trừ trường hợp không có điều kiện để nhóm thi đấu đồng thời và dưới cùng một điều kiện như nhau, mỗi nhóm phải bắt đầu thi đấu ngay khi nhóm trước vừa thi xong.
  3. Trong các cuộc thi đấu mà thời gian kéo dài hơn 3 ngày thì nên có một ngày nghỉ giữa các cuộc thi sơ loại và thi chung kết ở các môn nhảy theo hướng thẳng đứng.
  4. Các điều kiện thi sơ loại, tiêu chuẩn sơ loại và số lượng vận động viên vào thi chung kết sẽ do đại diện kỹ thuật quyết định. Nếu không có đại diện kỹ thuật nào được chỉ định thì uỷ ban tổ chức sẽ quyết định. Trong các cuộc thi áp dụng Điều 12.1 (a), (b) và (c) thì phải có ít nhất 12 vận động viên trong thi chung kết.
  5. Trong cuộc thi sơ loại, trừ nhảy cao và nhảy sào, mỗi vận động viên sẽ được phép thực hiện tới 3 lần. Khi một vận động viên đã đạt được tiêu chuẩn sơ loại thì anh ta có quyền tham dự cuộc thi chính mà không phải tiếp tục cuộc thi sơ loại.
  6. Trong cuộc thi sơ loại ở môn nhảy cao và nhảy sào, các  vận động viên không bị loại sau 3 lần hỏng liên tiếp, mà sẽ tiếp tục thi theo Điều 181.2 cho tới kết thúc lần thực hiện cuối cùng, tại độ cao đạt cho tiêu chuẩn sơ loại.
  7. Nếu như không có vận động viên nào hoặc có ít vận động viên đạt được tiêu chuẩn sơ loại hơn so với số lượng yêu cầu thì nhóm những  vận động viên được vào thi chung kết sẽ được nới rộng ra tới số lượng yêu cầu bằng cách lấy thêm vận động viên dựa theo thành tích của họ trong thi đấu sơ loại. trường hợp bằng nhau ở thứ hạng cuối cùng được chọn trong vòng sơ loại của toàn bộ cuộc thi sẽ được quyết định như mô tả ở mục 20 phía dưới hoặc Điều 181.8 khi thích hợp.
  8. Khi cuộc thi sơ loại cho các nhóm ở nhảy cao và nhảy sào được tiến hành đông thời thì xà ngang nên được nâng lên ở mỗi độ cao bằng nhau cho các nhóm. Cũng nên bố trí 2 nhóm có trình độ tương đương nhau.

SỰ NGĂN CẢN TRỞ NGẠI

  1. Nếu vì bất cứ lý do khách quan nào mà, một  vận động viên bị cản trở trong lần thực hiện, thì trọng tài giám sát có quyền cho phép anh ta thực hiện lại lần đó.

CHẬM TRỄ, TRÌ HOÃN VIỆC THỰC HIỆN LƯỢT THI

  1. Một vận động viên nhảy hoặc ném đẩy nếu trì hoãn việc thực hiện mà không có lý do, thì sẽ rơi vào tình trạng bị mất quyền thực hiện lần đó và được ghi như một lần phạm quy. Đối với trọng tài giám sát, việc quyết định xem xét tất cả các tình huống được coi là trì hoãn không có lý do là một vấn đề cần thận trọng

Người có trách nhiệm phải củi cho vận động viên biết là mọi thứ đã sẵn sàng để bắt đầu lần thực hiện và thời gian được phép cho lần thực hiện này phải bắt đầu từ thời điểm đó. Nếu một vân động viên sau đó quyết định không cố gắng thực hiện lần của mình thì sẽ bị coi là phạm lỗi một khi thời gian được phép cho lần thực hiện đã trôi qua.

Đối với nhảy sào, thời gian sẽ bắt đầu khi 2 cột đã được điều chỉnh theo yêu cầu trước đó của  vân động viên. Không có thêm thời gian cho việc điều chỉnh tiếp theo.

Nếu thời gian cho phép về điểm 0 khi một vận động viên đã bắt đầu thực hiện của mình, thì lần thực hiện đó sẽ không phạm lỗi.

THỜI GIAN DƯỚI ĐÂY SẼ KHÔNG BỊ COI LÀ VƯỢT QUÁ

 

Số lượng vận động viên còn thi đấu

Thời gian thực hiện môn cá nhân

Thời gian thực hiện môn phối hợp

Nhảy cao

Nhảy sào

Các môn khác

Nhảy cao

Nhảy sào

Các môn khác

Nhiều hơn3

1'

1'

1'

1'

1'

1'

2 hoặc 3

1,5'

2'

1'

1,5'

2'

1'

1

3'

5'

-

2' *

3' *

-

Các lần thực hiện liên tiếp

2'

3'

2'

2'

3'

2'

 

  • Khi chỉ còn lại một vận động viên, các thời gian đã nêu sẽ chỉ được áp dụng ở lần nhảy thứ nhất khi lần trước đó do chính vận động viên ấy thực hiện.

Ghi chú: Vận động viên phải được nhìn thấy một đồng hồ chỉ thời gian được phép còn lại. Một quan chức phải nâng và giữ một lá cờ vàng, hoặc bằng chỉ dẫn khác cho 15 giây còn lại cuối cùng của thời gian được phép.

VẮNG MẶT TRONG KHI THI

  1. Trong các môn nhảy và ném đẩy, một vận động viên có thể lập tức rời khỏi khu vực môn thi trong quá trình thi đấu với sự cho phép và đi theo của trọng tài giám định.

THAY ĐỔI KHU VỰC THI ĐẤU

  1. Trọng tài giám sát tương ứng sẽ có thẩm quyền thay đổi vị trí thi đấu nếu theo ý kiến của ông ta hoàn cảnh đúng là phải như vậy. Sự thay đổi vị trí thi đấu như vậy chỉ được làm sau khi một vòng thi đã được hoàn thành.

Ghi chú: Độ mạnh của gió hoặc sự đổi hướng gió không phải là điều kiện đủ để thay đổi vị trí thi đấu.

BẰNG NHAU (HOÀ)

  1. Trong những môn nhảy và ném đẩy, ngoại trừ nhảy cao và nhảy sào, thành tích tốt nhất thứ 2 của các vận động viên bằng nhau sẽ được dùng để phân định trên dưới. Sau đó, nếu cần thiết, thành tích tốt nhất thứ 3 và dưới nữa sẽ được dùng để phân định thứ hạng.

Nếu vẫn bằng nhau và có liên quan đến vị trí thứ nhất thì các vận động viên có cùng thành tích sẽ thi đấu lại theo cùng thứ tự trong một lần thực hiện mới cho đến khi phân định được thứ hạng.

Ghi chú: Đối với các môn nhảy theo hướng thẳng đứng (nhảy cao và nhảy sào), xem Điều 181.8.

Kết quả:

  1. Mỗi vận động viên sẽ được công nhận thành tích tốt nhất trong các lần thực hiện của mình, bao gồm cả những thành tích đạt được khi thực hiện thi phân định để giành thứ hạng cao nhất.

 

 

A. CÁC MÔN NHẢY CAO, NHẢY SÀO

ĐIỀU 181

CÁC ĐIỀU KIỆN CHUNG

 

  1. Trước khi cuộc thi đấu bắt đầu, tổ trưởng trọng tài giám định phải thông báo cho các vận động viên độ cao mức xà khởi điểm và các mức xà kế tiếp khi kết thúc mỗi vòng, cho tới khi chỉ còn một vận động viên còn lại thắng cuộc thi, hoặc cho phép các lần nhảy để phân hạng nếu có sự tranh chấp vị trí thứ nhất.

CÁC LẦN THỰC HIỆN

  1. Một vận động viên có thể bắt đầu nhảy tại bất kỳ độ cao nào mà tổ trưởng trọng tài giám định tuyên bố trước đó và có thể nhảy theo quyết định riêng của mình tại bất kỳ độ cao tiếp sau. 3 lần nhảy hỏng liên tiếp, bất kể ở mức xà nào mà tại đó những lần nhảy hỏng như vậy xảy ra, sẽ bị loại khỏi những lần nhảy sau đó, ngoại trừ trường hợp bằng nhau ở vị trí thứ nhất.

Hiệu quả của luật này là việc một vận động viên có thể bỏ lần nhảy thứ 2 hoặc thứ 3 của mình tại một độ cao nàp đó ( sau khi đã nhảy hỏng lần đầu hoặc lần thứ 2) và sẽ nhảy ở độ cao tiếp theo. Nếu một vận động viên bỏ một lần nhảy tại một độ cao nào đó thì anh ta sẽ không được thực hiện lần nhảy tiếp theo tại độ cao này, ngoại trừ trường hợp có sự bằng nhau ở vị trí thứ nhất.

  1. chỉ sau khi tất cả các  vận động viên khác bị loại, một vận động viên còn lại được quyền tiếp tục nhảy cho tới khi bị mất quyền thi tiếp.
  2. Ngoại trừ việc chỉ có một vận động viên còn lại và anh ta đã chiến thắng cuộc thi:

(a)   Sau mõi lần thi xà ngang không bao giờ được nâng lên ít hơn 2 cm trong nhảy cao và 5 cm trong nhảy sào; và

(b)  Mức tăng trong mỗi lần nâng xà phải như nhau. Luật này sẽ không áp dụng khi mà các  vận động viên còn thi đấu thoả thuận nâng xà trực tiếp tới độ cau kỷ lục thế giới.

Sau khi một vận động viên đã thắng cuộc thi, độ cao hoặc các độ cao mà xà được nâng lên tiếp sẽ do vận động viên này quyrts định có tham khảo ý kiến của trọng tài giám dịnh hoặc trọng tài giám sát liên quan.

Ghi chú: Điều này không áp dụng đối với các cuộc thi nhiều môn phối hợp.

Trong thi đấu nhiều môn phối hợp áp dụng Luật 12.2 (a), (b), và (c), mức tăng sau mỗi lần nâng xà sẽ luôn là 3 cm trong nhảy cao và 10 cm trong nhảy sào qua suốt cả cuộc thi.

ĐO THÀNH TÍCH

  1. Tất cả các số đo phải được tính đủ đến đơn vị cm, đo thẳng góc ỳư đất tới phần có độ võng thấp nhất của mặt trên xà ngang.
  2. Bất kỳ số đo nào của một độ cao mới đều phải được làm trước khi vận động viên thực hiện lần nhảy ở độ cao đó. Trong tất cả các trường hợp có kỷ lục, trọng tài giám định phải kiểm tra số đo khi xà được đặt ở độ cao kỷ lục và họ phải kiểm tra lại số đo này trước mỗi lần cố gắng lập kỷ lục tiếp theo nếu như xà ngang bị chạm trong lần được đo trước.

Ghi chú: Trước khi bắt đầu cuộc thi, các trọng tài giám định phải bảo đảm rằng mặt dươí và mặt trước của xà ngang là được phân biệt và xà ngang luôn được dặt với cùng một mặt hướng lên phía lên và cùng một mặt hướng ra phía trước.

XÀ NGANG

  1. Xà ngang phải được làm bằng sợi thuỷ tinh hoặc vật liệu khác tương tự nhưng không phải là lim loại. xà có tiết diện hình tròn trừ 2 đoạn ở 2 đầu xà. Độ dài toàn bộ của xà ngang phải là 4,00m (±2cm) trong nhảy cao và 4,50m ( ± 2 cm) trong nhảy sào. Trọng lượng tối đa của xà ngang phải là 2 kg trong nhảy cao và 2,25 kg trong nhảy sào. Đường kính của phần có tiết diện tròn của xà ngang phải là 30 mm ( ± 1mm).

Xà ngang gồm 3 phần: phần giữa có tiết diện ngang hình tròn và 2 đầu là 2 đoạn, mỗi đoạn có chiều rộng 30-35mm và dài 15-20cm để đặt lên giá đỡ của cột chống xà. Hai đoạn ở 2 đầu xà có thể có tiết diện ngang hình tròn hoặc bán nguyệt cùng một mặt phẳng làm nơi đặt xà nhang lên giá đỡ của 2 cột chống xà. Mặt này phải cứng, nhẵn và không được cao hơn trục giữa của xà ngang, không được bọc cau su hoặc bất kỳ vật kiệu nào khác có tác dụng làm tăng ma sát giữa chúng và giá đỡ.

Xà ngang phải cân bằng và khi đặt vào vị trí chỉ được võng xuống tối đa 2 cm trong nhảy cao và 3cm trong nhảy sào.

Kiểm tra độ đàn hồi: Treo một trọng lượng 3 kg vào giữa xà ngang khi nó được đặt vào vị trí. Xà ngang chỉ được võng xuống tối đa 7cm trong nhảy cao và 11cm trong nhảy sào.

TRƯỜNG HỢP BẰNG NHAU

  1. Trường hợp có thành tích bằng nhau sẽ được giải quyết như sau:

a)     Vận động viên có số lượng lần nhảy ít nhất tại mức xà mà ở đó xảy ra sự ngang nhau về thành tích thì sẽ được xếp hạng cao hơn.

b)     Nếu vẫn bằng nhau, thì vận động viên nào có tổng số làn nhảy hỏng ít nhất trong suốt cuộc thi, bao gồm cả mức xà cuối cùng đã vượt qua được, sẽ được xếp hạng cao hơn.

c)      Nếu vẫn bằng nhau:

i)                    Trong trường hợp có liên quan đến vị trí xếp hạng thứ nhất thì các vận động viên có thành tích bằng nhau phải nhảy thêm một lần nữa tại mức xà thấp nhất mà ở đó các vận động viên liên quan đều bị mất quyền tiếp tục nhảy và nếu lần đó vẫn không phân địng được thì mức xà sẽ được nâng lên nếu các vận động viên có thành tích bằng nhau đã nhảy qua. hoặc sẽ hạ thấp mức xà xuống nếu họ đều khônh nhảy qua được. Trình tự tăng hoặc giảm một mức xà là 2cm đối với nhảy cao và 5cm đối với nhảy sào. Khi đó các vận động viên này chỉ được nhảy một lần ở mỗi mức xà cho tới khi phân định được thứ hạng. Khi giải quyết thắng thua, các vận động viên có thành tích bằng nhau như vậy phải nhảy theo lượt của mình ( xem ví dụ).

ii)                  Nếu việc bằng nhau liên quan đến các thứ hạng khác thì các vận động viên sẽ được xếp xếp cụng vị trí trong cuộc thi.

Ghi chú: Điều luật ( c) sẽ không áp dụng đối với các môn phối hợp.

MÔN THI NHẢY CAO-VÍ DỤ

Các mức xà ( độ cao) được tổ trưởng trọng tài giám định tuyên bố vào lúc bắt đầu cuộc thi.

1,75m; 1,80m; 1,84m; 1,88m; 1,91m; 1,94m; 1,97m; 1,99m…

 

 

Tên vận động viên

Độ cao (mức xà)

Nhảy hỏng

Nhảy phân thứ hạng

Vị trí xếp hạng

1,75m

1,80m

1,84m

1,88m

1,91m

1,94m

1,97m

 

1,94m

1,92m

1,94m

A

0

X0

0

XO

X-

XX

XX

2

X

0

X

2

B

-

XO

-

X0

-

-

-

2

X

0

0

1

C

-

0

X0

X0

-

-

XXX

2

X

X

 

3

D

-

XO

X0

X0

XXX

XXX

 

3

 

 

 

4

 

0= Nhảy qua   X= Nhảy hỏng  -= Không nhảy             

 

Tất cả các vận động viên A, B, C và D đều vượt qua mức xà 1,88m.

Theo điều luật về phân định thứ hạng khi có sự ngang bằng nhau về thnhf tích thì các trọng tài giám định cộng toàn bộ số lần hỏng từ đầu cho tới mức xà cao nhất cuối cùng đã được vượt qua là 1,88m.

D có nhiều lần nhảy hỏng hơn A, B hoặc C , vì thế phải xếp ở vị trí thứ 4.

A, B, và C vẫn hoà nhau và do có liên quan đến vị trí thứ nhất nên họ có thêm một lần nhảy nữa tại mức xà 1,94 là mức mà A và C mất quyền tiếp tục nhảy để phân định thứ hạng.

Khi tất cả các vận động viên đều nhảy hỏng, thì xà ngang được hạ xuống ở mức 1,92m cho lần nhảy phân định sau. Khi chỉ có C nhảy hỏng ở mức xà 1,92m thì 2 vận động viên A và B sẽ có lần nhảy phân định them thứ 3 tại mức xà 1,94m. Ở mức xà này chỉ có B vượt qua được và vì vậy b được tuyên bố là người chiến thắng.

CÁC LỰC BÊN NGOÀI

  1. Khi rỏ ràng rằng xà ngang đã bị rơi boỉư một lực không liên quan đến vận động viên ( thí dụ như gió mạnh ).

(a)   Nếu việc rơi xà như vậy xảy ra sau khi vận động viên đã vượt qua xà mà không chạm vãomà thì lần nhảy đó sẽ được coi là thành công, hoặc

(b)  Nếu việc rơi xà như vậy xảy ra dưới bất kỳ tình huống nào khác thì vận động viên đó được nhảy lại lần đó.

 

ĐIỀU 182

NHẢY CAO

 

 

 

CUỘC THI

1.   Vận động viên phải giậm nhảy bằng 1 chân.

2.   Một vận động viên sẽ bị phạm qui nếu:

(a) Sau lần nhảy, do hành động của vận động viên làm rơi xà; hoặc

(b) Vận động viên chạy đà giậm nhảy không vượt qua phía trên xà ngang mà chạm đất ỏ khu vực ngoàì mặt phẳng tạo bởi hai cạnh gần  của 2 cột chống xà, kể cả ở giữa hoặc bên ngoài hai cột chống xà bằng bất kỳ bộ phận nào của cơ thể.

Tuy nhiên, nếu khi nhảy, một vận động viên chạm chân vào khu vực rơi xuống và theo ý kiến của trọng tài giám định là không tạo thêm lợi thế nào, thì lần nhảy với lý do đó sẽ không bị coi là hỏng.

Ghi chú: Để trợ giúp cho việc thi hành luật này, một vạch trắng rông 50 mm sẽ được kẻ ( thường bằng băng dính hoặc vật liệu tương tự) từ chân mỗi cột chống ra ngoài 3 m sao cho mép gần của vạch này nằm dọc theo vạch thẳng của cạnh gần hơn của cột chống xà.

KHU VỰC CHẠY ĐÀ VÀ GIẬM NHẢY

3. Đường chạy đà phải có độ dài tối thiểu là 15m ngoại trừ trong các cuộc thi đấu được áp dụng theo điều luật 12.1 (a), (b) và (c) trong đó độ dài đường chạy đà tối thiểu phải là 20m.

Khi điều kiện cho phép, độ dài tối thiểu nên là 25m.

  1. Độ nghiêng tối đa của khu vực chạy đà và giậm nhảy theo hướng tới điểm giữa của xà ngang không được vượt quá 1/250 .
  2. Khu vực giậm nhảy phải bằng phẳng.

BỘ DỤNG CỤ

6. Cột chống xà: Có thể sử đụng bất kỳ loại cột chống xà nào miễn là chúng phải cứng.

Cột chống phải có các giá đỡ xà để xà ngang đặt vững trên đó.

Cột chống xà phải đủ cao để vượt trên độ cao thực tế mà xà được nâng lên, ít nhất là 10cm.

Khoảng cách giữa hai cột chống xà không được ngắn hơn 4,00m và không dài hơn 4,04m.

7. Cột chống xà không được di chuyển trong lúc thi đấu trừ khi trọng tài giám sát cho rằng khu vực giậm nhảy hoặc rơi xuống là không phù hợp.

Trong trường hợp như vậy, việc thay đổi chỉ được thực hiện sau khi các vận động viên đã thực hiện hết một vòng.

8. Giá đỡ xà ngang. Giá đỡ là một hình chữ nhật phẳng, rộng 4 cm và dài 6 cm. Giá đỡ phải được gắn chặt vào cột chống xà trong thời gian nhảy và hướng vào nhau. Hai đầu của xà ngang phải được đặt trên giá đở với cách thức sao cho nếu khi nhảy  vận động viên chạm vào thì xà ngang dễ dàng bị rơi xuống về phía trước hay  phía sau.

Giá đỡ xà không được phủ cao su hoặc bất cứ chất liệu nào khác có tác dụng làm tăng độ ma sát giữa giá đỡ và bề mặt xà ngang, hoặc có bất kỳ sự đàn hồi nào.

  1. Giữa đầu xà ngang và cột chống xà phải có khoảng cách tối thiểu là 1 cm.

 

 

KHU VỰC RƠI XUỐNG

10. Khu vực rơi xuống phải có kích thước tối thiểu 5mx3m.Các cuộc thi tiến hành theo Điều 12.1 thì khu vực rơi xuống phải có kích thước không được nhỏ hơn 6m x 4m x 0,7m.

Ghi chú: Hai cột chống xà và khu vực rơi xuống ( đệm) cũng được thiết kế sao giữa chúng có một khoảng trống tối thiểu 10cm, để khi sử dụng xà không bị rơi xuống do sự xê dịch của khu vực rơi ( đệm)

tác động vào cột chống xà.

 

Điều 183

NHẢY SÀO

CUỘC THI
  1. Vận động viên chỉ có thể dịch chuyển xà ngang về phía khu vực tiếp đất tới mức khi hình chiếu của mép xà phía  đường chạy đàỉơ vị trí cách phía trên thành sau của hộp chống sào 80cm về phía khu vực tiếp đất.

Trước khi bắt đầu cuộc thi, vận động viên phải thông báo cho người có trách nhiệm vị trí của cột chống hoặc giá đỡ xà cần cho lần nhảy đầu tiên của mình và vị trí này phải được ghi lại.

Nếu lần nhảy sau, vận động viên muốn có bất kỳ sự thay đổi nào thì anh ta phải lập tức thông báo cho người có trách nhiệm vị trí của cột chống hoặc giá đỡ xà cần cho lần nhảy đầu tiên của mình và vị trí này phải được ghi lại.

Nếu lần nhảy sau, vận động viên muốn có bất kỳ sự thay đổi nào thì anh ta phải lập tức thông báo cho người có trách nhiệm trước khi các cột chống xà được đặt theo đề nghị ban đầu. Việc quên làm điều này sẽ dẫn tới hậu quả làm rút ngắn thời gian được phép để bắt đầu lần nhảy của mình.

Ghi chú: Một vạch trắng rộng 1 cm  được vẽ vuông góc với trục của đường chạy đà ở ngang mức cạnh bên trong phía trên của hộp chống sào. Vạch này được kéo dài tới cạnh ngoài của cột chống xà.

2. Một vận động viên sẽ bị coi là phạm lỗi nếu:

(a) Sau lần nhảy, xà ngang không còn trên giá đỡ do hành động của vận động viên trong lúc  nhảy; hoặc

(b)  Vận động viên không vượt qua phía trên xà ngang mà chạm đất rơi vượt ra ngoài mặt phẳng thẳng đứng đi qua phần trên của ván chặn bằng bất kỳ bộ phận nào của cơ thể hoặc sào; hoặc

(c) Sau khi rời đất, vận động viên chuyển tay nắm sào phía dưới lên trên tay nắm sào ở phía trên hoặc di chuyển tay nắm sào phía trên lên vị trí cao hơn trên sào.

(d)Trong lần nhảy, một vận động viên  dùng tay của mình đỡ hoặc đặt lại xà ngang.

Ghi chú: Nếu một vận động viên chạy ra ngoài vạch trắng đánh dấu đường chạy đà tại bất kỳ điểm nào thì đều không bị phạm lỗi.

3.. Trong thi đấu, các vận động viên được phép bôi một chất làm tăng ma sát lên tay hoặc lên sào của mình để giúp cho việc nắm sào tốt hơn.

Việc sử dụng băng trên hai bàn tay hoặc các ngón tay là không được phép ngoại trừ trong trường hợp cần thiết để bịt một vết thương hở.

  1. Không ai  được phép chạm vào sào trừ khi nó rơi khỏi xà ngang hoặc cột chống xà. Nếu chạm vào sào, bất kể như thế nào, và theo ý kiến của trọng tài giám sát xà ngang sẽ bị rơi xuống nếu không có sự can thiệp đó thì lần nhảy sẽ bị coi là hỏng.
  2. Nếu khi thực hiện lần nhảy, sào của vận động viên bị gẫy thì lần nhảy đó sẽ không bị coi là nhảy hỏng và vận động viên được nhảy lại.

ĐƯỜNG CHẠY ĐÀ

6. Độ dài tối thiểu của đường chạy đà phải là 40m và nếu điều kiện cho phép thì có thể 45m. Đường chạy đà phải có chiều rộng tối thiểu là 1,22m ±0.01m. Đường chạy đà phải được đánh dấu bằng các vạch trắng rộng 5 cm.

7. Độ nghiêng tối đa cho phép theo chiều ngang của đường chạy đà là 1:100 và độ nghiêng toàn bộ theo hướng chạy không vượt quá 1:1000.

BỘ DỤNG CỤ

8. Hộp chống sào. Giậm nhảy trong nhảy sào phải từ hộp chống sào. Hộp chống sào được làm từ vật liệu rắn phù hợp và được chôn ngang mức mặt đường chạy đà. Mặt đáy của hộp chống sào là một hình thang cân, có chiều cao 15cm, đáy lớn rộng 60 cm, đáy nhỏ rộng 15cm (đáy nhỏ nằm sát với ván chặn); góc hợp bởi ván chặn và  đáy hộp là 105o. Mặt đáy của hộp chống sào dốc nghiêng từ ngang mức mặt đường chạy (phía đáy lớn) xuống sâu dưới mặt đường 20cm (phía đáy nhỏ). Hộp chống sào phải được cấu trúc theo cách để hai mặt bên nghiêng ra phía ngoài. Giao tuyến giữa mặt bên và mặt ván chặn hợp với với giao tuyến giữa mặt đáy và mặt ván chặn tạo thành một góc 120o.

Nếu hộp chống sào được làm bằng gỗ thì mặt đáy hố được phủ lớp kim loại dày 2,5mm kéo dài từ chỗ ngang mức đường chạy chếch xuống phía dưới 80 cm.

9.  Cột chống xà. Có thể sử dụng bất kỳ loai jcột chống xà nào miễn là chúng phải cứng. Cấu trúc bằng kim loại của đế và phần bên dưới cột chống xà cần phủ bằng các vật liệu mềm phù hợp để bảo vệ an toàn cho các vận động viên và sào nhảy.

10. Giá đỡ xà ngang. Xà ngang phải đặt trên chốt ngang sao cho khi vận động viên hoặc sào chạm vào sẽ dễ dàng rơi xuống theo hướng về phía khu vực chạm đất của vận động viên. Chốt đặt xà ngang không được có vết khía hoặc bất kỳ vết lõm nào, có độ dày như nhau từ đầu đến cuối và đường kính không quá 13 mm. Chốt đặt xà không được nhô ra khỏi thanh đỡ quá 75 mm và thanh đỡ phải cao hơn chốt ngang 35 đến 40 mm.

Khoảng cách giữa hai chốt đặt xà không được nhỏ hơn 4.30 m và không lớn hơn 4.37 m.

Chốt đặt xà không được phủ bằng cao su hoặc bất kỳ chất liệu nào khác có tác dụng làm tăng độ ma sát giữa chúng và mặt dưới của xà hoặc có độ đàn hồi.

Ghi chú. Để giảm trường hợp chấn thương cho vận động viên do bị rơi vào chân đế của cột chống xà, hai chốt đỡ xà ngang có thể gắn trên cánh mở rộng được gắn cố định vào các cột chống xà, điều này cho phép đặt 2 cột chống tách rộng ra mà không làm tăng độ dài của xà ngang (xem hình).

SÀO NHẢY

11. Các vận động viên có thể sử dụng sào nhảy riêng. Không vận động viên nào được phép sử dụng bất cứ cây sào nào của người khác trừ khi có sự đồng ý của chủ nhân.

Sào nhảy có thể làm từ bất kỳ vật liệu khác nhau hoặc vật liệu tổng hợp và có độ dài hoặc đường kính tuỳ ý song bề mặt cơ bản phải nhẵn.

Sào nhảy có thể có có các lớp băng bảo vệ ở đoạn tay cầm và ở đầu sào.

KHU VỰC RƠI XUỐNG

12. Khu vực rơi xuống phải có kích thước tối thiểu 5mx5m. Các cạnh của khu vực rơi gần sát hộp chống sào phải cách hộp 10 cm tới 15 cm và  vát nghiêng ra khỏi phía hộp một góc khoảng 45o (xem hình). Đối với các cuộc thi đấu áp dụng theo Điều 12.1 thì khu vực rơi xuống phải có kích thước tối thiểu : 6m chiều dài ( trừ đoạn phía trước) x 6m chiều rộng x 0,8m chiều cao. Đoạn phía trước phải dài 2m.

 

 

B. CÁC MÔN NHẢY XA, NHẢY BA BƯỚC

ĐIỀU 184

CÁC ĐIỀU KIỆN CHUNG

CÁC SỐ ĐO

  1. Trong tất cả các môn nhảy theo hướng nằm ngang, độ xa phải được ghi tới 0,01m gần nhất phía dưới cự ly được đo nếu cự ly này không tròn tới đơn vị cm.

ĐƯỜNG CHAY ĐÀ

  1. Đường chạy đà phải dài tối thiếu là 40m và có độ rộng 1,22m ± 0,01m và được đánh dấu bằng những vạch trắng rộng 5cm. Độ dài tối đa của đường chạy đà phải là 45m và được đo từ vạch giậm nhảy có liên quan tới cuối của đường chạy đà.

Ghi chú: Nếu vận động viên bắt đầu chạy đà ở vị trí xa hơn vạch giậm nhảy 45 m thì bị coi là phạm lỗi.

  1. Độ nghiêng tối đa sang bên của đường chạy đà không được vượt quá 1:100 và độ nghiêng toàn bộ theo hướng chạy đà không được vượt quá 1:1000.

ĐO TỐC ĐỘ GIÓ

  1. Tốc độ gió được đo trong thời gian 5 giây  từ lúc vận động viên chạy qua vật đánh dấu được đặt kế bên đường chạy đà. Đối với nhảy xa vật đánh dấu này cách vạch giậm nhảy 40m, còn đối với nhảy ba bước vật đánh dấu này cách vạch giậm nhảy 35m. Nếu vận động viên chạy đà ngắn hơn 40m hoặc 35m ( trong nhảy ba bước) thì tốc độ gió sẽ được đo từ lúc anh ta bắt đầu chạy đà.
  2. Dụng cụ đo tốc độ gió phải đặt cách ván giậm nhảy 20m, ở độ cao 1,22m và không xa đường chạy đà quá 2m.
  3. Dụng cụ đo tốc độ gió phải phù hợp với Điều 163.10.

 

Điều 185

NHẢY XA

CUỘC THI ĐẤU

1. Vận động viên sẽ phạm lỗi nếu:

(a) Trong khi giậm nhảy, chạm đất phía sau vạch giậm nhảy bằng bất kỳ bộ phận nào của cơ thể, dù chạy đà không giậm nhảy hoặc có giậm nhảy; hoặc

(b) Giậm nhảy từ phía bên ngoài phạm vi cả hai đầu của ván, dù ở phía sau hay phía trước đường kéo dài của vạch giậm nhảy; hoặc

(c). Chạm đất ở khu giữa vạch giậm nhảy và khu vực rơi xuống; hoặc

(d)  Sử dụng bất cứ hình thức nhào lộn nào trong khi chạy lên hoặc trong hành động giậm nhảy; hoặc

(e)   trong quá trình tiếp đất, vận động viên chạm vào phần phía bên ngoài hố gần vạch giậm nhảy hơn so với điểm chạm gần nhất trên cát; hoặc

(f)    Khi rời khu vực rơi, điểm tiếp xúc đất đầu tiên bên ngoài hố cát gần vạch giậm nhảy hơn so với điểm chạm gần nhất trên cát ở khu vực rơi xuống, bao gồm bất kỳ điểm chạm do mất thăng bằng khi rơi nằm hoàn toàn trong hố cát nhưng gần vạch giậm nhảy hơn so với điểm chạm đầu tiên lúc rơi xuống.

Ghi chú 1: Nếu vận động viên chạy đà bên ngoài vạch trắng đánh dấu đường chayk ở bất cứ điểm nào thì không bị coi là phạm lỗi.

Ghi chú 2:  Nếu một phần giầy của vận động viên chạm vào đất phía bên ngoài 2 đầu của ván giậm nhảy song ở trước vạch giậm nhảy thì không bị coi là phạm lỗi.

Ghi chú 3:  Nếu vận động viên đi ngược lại qua khu vực rơi xuống sau khi đã rời khỏi khu vực rơi đúng quy định thì không bị coi là phạm lỗi.

2. Ngoại trừ trường hợp đã nêu trong điểm 1 ( b) ở trên, nếu vận động viên giậm nhảy ở vị trí trước khi đạt tới ván giậm thì sẽ không bị coi là phạm lỗi.

3. Tất cả các lần nhảy sẽ được đo từ điểm chạm gần nhất do bất kỳ bộ phận nào của cơ thể hoặc chân tay trên khu vực rơi tới vạch giậm nhảy hoặc đường kéo dài của vạch giậm nhảy ( xem muc 1 (f) ở trên ). Việc đo phải tiến hành vuông góc với vạch giậm nhảy hoặc đường kéo dài của vạch này.

VÁN GIẬM NHẢY (BỤC GIẬM NHẢY)

4. Giậm nhảy được thực hiện trên ván giậm được chôn ngang mức với đường chạy đà và bề mặt của khụ vực rơi (hố cát). Cạnh của ván giậm gần với khu vực rơi được gọi là vạch giậm nhảy. Ngay sau vạch giậm nhảy được đặt một ván phủ chất dẻo để giúp cho trọng tài xác định phạm quy.

Nếu không thể lắp đặt ván phủ chất dẻo như ở trên thì có thể áp dụng phương pháp sau: ngay sau vạch giậm nhảy tạo một khuôn bằng đất xốp hoặc cát có chiều dài đúng bằng độ dài của ván giậm nhảy và chiều rộng bằng 10cm. Khuôn cát hoặc đất xốp này có góc vát 30o dọc theo chiều dài của nó.

5. Khoảng cách giữa ván giậm nhảy và mép xa của khu vực rơi (hố cát) phải có độ dài tối thiểu 10m.

6. Ván giậm nhảy phải đặt cách mép gần của khu vực rơi từ 1-3m.

7. Cấu trúc: Ván giậm nhảy là một khối hình hộp chữ nhật bằng gỗ hoặc vật liệu cứng phù hợp khác có chiều dài từ 1,22m ± 0,01, chiều rộng 20 cm (+-2 mm) và chiều cao (sâu) 10 cm. Mặt trên ván giậm nhảy được sơn màu trắng.

8.  Ván xác định phạm quy. Ván này gồm 1 thanh cứng rộng 10 cm (+-2 mm) và dài 1,22m bằng gỗ hoặc bất cứ vật liệu nào phù hợp. Ván này sẽ được gắn vào khoảng trống hoặc giá trong đường chạy đà ở cạnh ván giậm nhảy gần phía khu vực rơi. Mặt trên ván cao hơn mặt ván giậm nhảy 7mm (+-1mm), hai cạnh bên có mặt vát với góc 45o và mặt vát hướng về phía đường chạy được phủ một lớp chất dẻo có độ dày 1mm (xem hình 8) hoặc được cắt thành hõm, khi được phủ đầy bằng chất dẻo mặt này phải đảm bảo độ vát 45độ (xem hình 9)

 

VÁN GIẬM NHẢY VÀ VÁN XÁC ĐỊNH PHẠM QUY

  Phần trên của ván xác định phạm quy cũng phải được phủ một  lớp chất dẻo dày khoảng 3mm trên suốt chiều dài của ván.

Khi lắp vào vị trí, toàn bộ khối lắp ghép phải đủ độ chắc chắn để chịu được toàn bộ lực giậm nhảy của vận động viên.

Bề mặt của ván phía dưới lớp chất dẻo phải là vật liệu để mũi đinh giày vận động viên bám chắc chứ không bị trượt.

Lớp phủ chất dẻo có thể được làm nhẵn bằng cách lăn hoặc miết để tạo hình phù hợp cho các mục đích xoá tẩy vết chân của vận động viên in trên lớp phủ.

Ghi chú: Rất thuận tiện nếu có các ván phủ chất dẻo dự trữ để thay thế lúc các vết chân để lại trên ván đang được xoá tẩy, cuộc thi đấu sẽ không bị trì hoãn.

KHU VỰC RƠI XUỐNG

9. Khu vực rơi xuống (hố cát) phải có chiều rộng tối thiểu 2.75m và tối đa là 3.00m. Nếu điều kiện cho phép khu vực rơi nên được bố trí cân đối giữa đường chạy đà kể cả lúc nó được mở rộng.

Ghi chú: Khi trục của đường chạy đà không trùng với đường trung tâm của khu vực rơi xuống, thì để đạt mục đích trên nên đặt một băng hoặc 2 băng ( nếu cần thiết) dọc teo khu vực rơi.

. 10. Khu vực rơi xuống phải đổ đầy cát ẩm và xốp. Mặt trên của khu vực rơi phải bằng với mức ván giậm nhảy.

 

Điều 186

NHẢY BA BƯỚC

CUÔC THI ĐẤU

1. Nhảy ba bước bao gồm 3 bước theo trình tự: bước1 - bước trượt, bước 2 - bước bộ, bước ba - nhảy rơi xuống hố cát.

2. Bước 1 phải thực hiện như thế nào đó để vận động viên chạm đất bằng chính chân giậm nhảy; trong bước thứ 2 vận động viên phải rơi xuống bằng chân khác và cuối cùng hoàn thành lần nhảy khi rơi vào hố cát.

Sẽ không bị coi là phạm lỗi nếu như trong lúc nhảy, vận động viên chạm đất bằng chân "lăng" (chân không giậm nhảy)

Ghi chú: Điều 185.1 (c ) không áp dụng đối với những lần chạm đất bình thường trong các bước 1 và 2.

VÁN GIẬM NHẢY

3. Khoảng cách giữa ván giậm nhảy và mép xa của khu vực rơi xuống (hố cát) phải có độ dài tối thiểu 21m.

4. Đối với cuộc thi đấu quốc tế, vạch giậm nhảy nên đặt cách mép gần của khu vực rơi xuống tối thiểu là 13m đối với nam và 11m đối với nữ. Đối với các cuộc thi đấu khác, khoảng cách này cần phù hợp với trình độ của vận động viên.

5. Đoạn giữa ván giậm nhảy và khu vực rơi xuống là chỗ giậm bật lên của bước thứ 2 và thứ 3 phải có độ rộng tối thiểu là 1m22 ± 0,01m, mặt đường phải cứng và đồng nhất.

 

C. CÁC MÔN NÉM ĐẨY

ĐIỀU 187

CÁC ĐIỀU KIỆN CHUNG

CÁC DỤNG CỤ CHÍNH THỨC

  1. Trong tất cả các cuộc thi đấu quốc tế, các dụng cụ được sử dụng phải tuân thủ các đặc điểm kỹ thuật do IAAF quy định. Chỉ những dụng cụ có chứng chỉ chấp thuận hiện nay của IAAF mới được sử dụng. Bảng dưới đây cho thấy dụng cụ được sử dụng theo môĩ nhóm tuổi.

 

Dụng cụ

Nữ

Thiếuniên/Trẻ/Trưởng thành

Nam 

Thiếuniên/Trẻ/Trưởng thành

Nam trẻ

Nam 

trưởng thành

Tạ

4,000kg

5,000kg

6,000kg

7,260kg

Đĩa

1,000kg

1,500kg

1,750kg

2,000kg

Tạ xích

4,000kg

5,000kg

6,000kg

7,260kg

Lao

600gr

700gr

800gr

800gr

 

  1. Tất cả các dụng cụ trong các cuộc thi đấu theo Điều 12.1 (a) phải do Uỷ ban tổ chức cung cấp. Trong các cuộc thi đấu này các vận động viên không được phép sử dụng dụng cụ nào khác.
  2. Không có sự sửa đổi nào được làm với bất kỳ dụng cụ nào trong các cuộc thi. Tại các cuộc thi không theo Điều 12.1 (a), các vận động viên có thể sử dụng dụng cụ riêng của mình, miễn là chúng được Uỷ ban tổ chức kiểm tra và xác nhận là phù hợp trước cuộc thi và có thể dùng cho tât cả các vận động viên.

 

CÁC VẬT BẢO VỆ CÁ NHÂN

  1. (a) Không được phép có thêm bất kỳ cách thức nào ( ví dụ như quấn băng 2 hay nhiều ngón tay lại với nhau) để trợ giúp cho vận động viên khi thực hiện ném đẩy. Việc sử dụng băng tay là không được phép, ngoại trừ trường hợp để bọc vết cắt hay vết thương hở. Tuy mhiên băng riêng từmg ngón tay là có thể được trong môn ném tạ xích. Việc băng phải được tổ trưởng trọng tài giám định xem xét trước khi cuộc thi bắt đầu.

(b) Việc sử dụng găng tay là không được phép, ngoại trừ trong ném tạ xích. Trong trường hợp này găng phải nhẵn ở cả mặt trước, mặt sau; đầu của các ngón phải được hở ra trừ ngón cái.

(c)   Để giữ được tốt hơn,C được phép sử dụng chất phù hợp (bột) để xoa chỉ trên tay của mình. Ngoài ra các vận động viên ném tạ xíc có thể sử dụng chất này bôi trên găng tay của mình, và các vận động viên đẩy tạ có thể dùng nó để bôi lên cổ của họ.

(d)  Vận động viên có thể sử dụng thắt lưng bằng da hoặc các vật liệu phù hợp khác để bảo vệ cột sống khỏi bị chấn thương.

(e)   Trong đẩy tạ, vận động viên có thể đeo băng tại cổ tay để bảo vệ cổ tay khỏi chấn thương.

(f)    Trong ném lao, vận động viên có thể đeo băng bảo vệ khuỷu tay.

 

VÒNG NÉM ĐẨY

  1. Vành ngoài của vòng ném đẩy phải làm bằng sắt, thép hoặc vật liệu phù hợp, mặt trên của vòng phải ngang bằng mặt đất bên ngoài.

Phần bên trong cả vòng được lát bằng bêtông, rải nhựa hoặc một số vật liệu cứng khác song không được trơn. Bề mặt của phần bên trong vòng phải thấp hơn so với mép trên của vành ngoài từ 1,4cm tới 2,6cm.

Trong đẩy tạ, một vòng đẩy di động ( có thể thào lắp đem đặt ở nơi này sang nơi khác0 với cùng những đặc điểm trên là có thể chấp nhận được.

  1. Đường kính bên trong của vòng phải là 2,135m (±5mm) đối với đẩy tạ và ném tạ xích và 2,50m (±5mm) đối với ném đĩa.

Mép vòng phải dày tối thiểu 6mm và được sơn màu trắng. Vận động viên ném tạ xích có thể ném tạ xích từ vòng dùng cho ném đĩa miễn là đường kính của vòng này được giảm từ 2,50m xuống 2,135m bằng cách đặt một vòng tròn ở bên trong vòng ném đĩa.

  1. Một vạch trắng rộng 5cm phải được vẽ từ vạch trên của mép vành kim loại rộng ra 2 bên, mỗi bên tối thiểu 75cm. Vạch trắng này có thể được sơn hoặc làm băbgf gỗ hoặc vật liệu phù hợp khác. Vachj trắng này khi kéo dài phải đi qua tâm vòng và vuông góc với đường trung tâm của khu vực dụng cụ rơi xuống.
  2. Vận động viên không được phun (xịt ) hoặc bôi bất kỳ chất gì vào trong vòng ném hoặc lên đế giầy của mình.

ĐƯỜNG CHẠY ĐÀ CỦA NÉM LAO

9. Trong môn ném lao, độ dài tối thiếu của đường chạy đà phải là 30 m và tối đa là 36,5 m. Khi điều kiện cho phép, độ dài tối thiểu phải là 33,5 m.Đường chạy đà được đánh dấu bằng 2 vạch trắng song song có chiều rộng 5cm và cách nhau 4m. Việc ném phải được thực hiện từ phía sau của một vòng cung có bán kính 8m. Vòng cung này phải gồm một vạch sơn hoặc được làm bằng gỗ hoặc kim loại rộng 7cm, có màu trắng và ngang bằng với mặt sân. Từ 2 đầu của vòng cung này vẽ 2 vạch trắng vuông góc với các vạch song song ( giới hạn đường chạy đà) dài 75cm và rộng 7cm.

Độ nghiêng tối đa cho phép của đường chạy đà là 1/:00 theo chiều ngang và 1:1000 theo chiều dọc đường chạy đà.

Ghi chú: Nếu một vận động viên bắt đầu chạy đà cách mép trong của vòng cung quá 36,5m sẽ bị coi là phạm quy.

KHU VỰC RƠI

10. .Khu vực  rơi phải được phủ lớp xỉ, cỏ hoặc vật liệu phù hơp khác ở trên để khi dụng cụ rơi xuốngđể lại dấu vết.

11. Độ nghiêng tối đa cho phép của khu vực rơi theo hướng ném không được vượt quá 1:1000.

12. (a). Ngoại trừ trong ném lao, khu vực rơi của lao được giới hạn bởi 2 vạch trắng rộng 5cm được vẽ sao cho khi kéo dài, mép trong của 2 vạch này sẽ đi qua tâm của vòng và tạo thành góc 34,92 độ.

Ghi chú: Khu vực rơi 34,92 độ có thể được vẽ chính xác bằng cách xác định khoảng cách giữa 2 điểm trên 2 đường giới hạn khu vực rơi cách tâm vòng 20m sao cho chúng cách nhau 12m (20 x 0,60). Như vậy là cứ cách tâm vòng ném 1m thì khu vực rơi có độ rộng 60cm.

(b) Trong ném lao, khu vực rơi được giới hạn bởi 2 vạch trắng rộng 5cm. Hai vạch này được kẻ sao cho mép trong của 2 vạch nếu được kéo dài sẽ đi qua giao điểm của mép trong của vòng cung giới hạn với 2 đường song đánh dấu đường chạy đà và sau đó cách nhau tại tâm của vòng cung giới hạn với góc khoảng 29 độ.

CÁC LẦN THỰC HIỆN

13. Trong đẩy tạ, ném đĩa và ném tạ xích, dụng cụ phải được ném ra từ vòng còn trong ném lao là trong giới hạn khu vực chạy đà. Trong trường hợp lần thực hiện từ vòng, vận động viên phải bát đầu lần thi của mình từ một vị trí ổn định trong vòng ném. , Một vận động viên được phép chạm vào phía trong của vành sắt. trong đẩy tạ, vận động viên  cũng được phép chạm vào phía trong của bục chắn như đã mô tả ở Điều 188.2.

14. Trong quá trình thực hiện lần ném vận động viên  sẽ bị phạm quy nếu:

(a) Rời tạ hoặc lao không đúng;

(b) Sau khi đã bước vào vòng và bắt đầu thực hiện lần ném mà chạm bất kỳ bộ phận nào của cơ thể vào mặt trên của vành sắt hoặc đất phía bên ngoài vòng.

(c ) Trong đẩy tạ, vận động viên  chạm bất kỳ bộ phận nào của cơ thể lên mặt trên của bục chắn.

(d) Trong ném lao, vận động viên  chạm bất kỳ bộ phận nào của cơ thể vào các vạch đánh dấu ranh giới khu vực ném hoặc đất phía bên ngoài.

15. Miễn là trong quá trình thực hiện lần ném, các điều luật liên quan tới mỗi môn không bị vi phạm, một vận động viên  có thể dừng thực hiện khi đã bắt đầu, có thể đặt dụng cụ xuống bên trong hoặc bên ngoài vòng ném hoặc đường chạy đà và có thể rời khỏi chúng.

Khi rời vòng ném hoặc đường chạy đà, vận động viên  phải bước ra như yêu cầu của mục 17 dưới đây trước khi quay lại vòng ném hoặc đường chạy đà để bắt đầu một lần mới.

Ghi chú: Tất cả các di chuyển được phép trong mục này phải nằm trong thời hạn quy định tối đa cho một lần thực hiện theo Điều 180.17.

16. Một lần thực hiện được công nhận khi tạ, đĩa, đầu của tạ xích ( bao gồm bất kỳ phần dụng cụ nào không chạm đất trong lúc va chạm) hoặc mũi lao phải rơi hoàn toàn phía trong các mép trong của vạch trắng đánh dấu khu vực rơi.

17. Vận động viên  không được rời khỏi vòng ném hoặc đường chạy đà cho tới khi dụng cụ đã chạm đất.

Đối với các lần ném từ vòng, khi rời vòng ném, việc tiếp xúc đầu tiên với mặt trên của vành sắt hoặc đất bên ngoài vòng phải hoàn toàn ở phía sau vạch trắng được vẽ bên ngoài vòng và nếu kéo dài thì sẽ đi qua tâm vòng.

Trong trường hợp ném lao,khi một vận động viên  rời khỏi đường chạy đà, việc tiếp xúc đầu tiên với các vạch song song hoặc đất bên ngoài đường chạy đà phải hoàn toàn ở phía sau vạch trắng giới hạn. Vạch này được kẻ từ 2 đầu của cung tròn giới hạn và vuông góc với 2 đường song song.

18. Sau mỗi lần ném, dụng cụ phải được mang trở lại tới khu vực bên cạnh vòng hoặc dường chạy đà và không bao giờ được phép ném trở lại.

CÁC SỐ ĐO

19. Trong tất cả các môn ném, các cự ly được ghi tới 0,01m gần nhất phía dưới cự ly đo được, nếu như cự ly này không tròn tới đơn vị cm.

20. Việc đo mỗi lần ném phải được thực hiện ngay sau khi lần ném đượchoàn thành.

a) Từ điểm chạm gần nhất lúc rơi xuống của tạ, đĩa, đầu tạ xích tới mép trong của vòng cung giới hạn dọc theo hướng qua tâm vòng.

b) Trong ném lao, từ vị trí chạm gần nhất của đầu mũi lao trên đất tới mép trong của vòng cung, dọc teo hướng qua tâm của vòng tròn có cung giới hạn.

CÁC VẬT ĐÁNH DẤU

21. Cờ hoặc vật đánh dấu dễ nhận thấy phải được cung cấp để đánh du lần ném tốt nhất của mỗi vận động viên . Trong trường hợp này, chúng sẽ được đặt dọc theo bên ngoài của vạch giới hạn.

Một cờ hoặc một vâth đánh dấu cũng có thể được cung cấp để đánh dấu kỷ lục quốc gia và khi có điều kiện thì cả kỷ lục châu lục và quốc gia.

 

ĐIỀU 188

ĐẨY TẠ

 

CUỘC THI ĐẤU

1. Tạ phải được đẩy khỏi vai bằng 1 tay. Lúc vận động viên ở tư thế trong vòng để bắt đầu một lần đẩy, quả tạ phải chạm hoặc tương đối sát với cổ hoặc cằm và bàn tay  không được hạ thấp xuống dưới vị trí này trong khi thực hiện động tác. Tạ không được hạ xuống dưới đường trục vai.

BỤC CHẮN

2. Cấu trúc: Bục chắn phải có màu trắng và được làm bằng gỗ hoặc vật liệu tương tự khác . Bục chắn có dáng hình cung để cạnh trong của bục trùng với cạnh trong của vòng. Bục chắn được đặt cân giữa đường trung tâm và được gắn chặt xuống đất.

3. Kích thước: Bục chắn phải có chiều rộng từ 11,2cm tới 30cm, dài 1,15m ( ±1cm) và cao 10cm ( ±2mm) so với mặt trong của vòng ném.

Ghi chú: Các bục chắn có đặc điểm kỹ thuật của IAAF trước đây vẫn được chấp nhận.

TẠ

4. Cấu trúc: Tạ phải được làm bằng sắt, đồng hoặc bất kỳ kim loại nào không mềm hơn đồng, hoặc vỏ bằng các kim loại đó được đổ đầy chì hoặc những vật liệu khác. Tạ phải có hình cầu và bề mặt không được xù xì và cuối cùng phải nhẵn. Để được coi là nhẵn, độ dày trung bình của bề mặt phải ít hơn 1,6mm, có nghĩa là hệ số xù xì N7 hoặc ít hơn.

5. Tạ phải tuân theo những đặc điểm kỹ thuật sau đây:

 

Tạ

Trọng lượng tối thiểu để được thừa nhận trong thi đấu và được chấp nhận một kỷ lục

 

 7,260kg                              4,000kg                       5,000kg                     6,000kg                    

Thông tin đối với các hãng sản xuất:

Phạm vi cung cấp dụng cụ cho thi đấu

4,005kg

4,025kg

5,005kg

5,025kg

6,005kg

6,025kg

7,265kg

7,285kg

 

Đường kính tối thiểu

Đường kính tối đa

95mm

110mm

100mm

120mm

105mm

125mm

110mm

130mm

 

ĐIỀU 189

NÉM ĐĨA

1.Cấu trúc: Thân của đĩa có thể đặc hoặc rỗng và phải làm bằng gỗ hoặc các vật liệu phù hợp khác với một vành kim loại bao quanh. Gờ của vành kim loại phải tròn. Tiết diện ngang của gờ phải tròn với bán kính khoảng 6mm. Có thể có hai tấm tròn được đặt bằng (ngang) vào tâm của hai mặt. Đĩa có thể được làm mà không có các tấm kim loại tròn này, miễn sao diện tích tương đương là phẳng và kích cỡ , trọng lượng toàn phần của đĩa tương đương với các đặc điểm kỹ thuật.

Mỗi mặt của đĩa phải giống nhau và không được lõm vào, lồi ra hoặc có cạnh sắc. Hai mặt phải thuôn theo một đường thẳng từ vòng tròn cách tâm đĩa 25 - 28,5mmtớisátvành kim loại

Hình nhìn nghiêng của đĩa được mô tả như sau: từ chỗ bắt đầu vòng cung của vành kim loại, độ dầy của đĩa tăng dần đều lên tới độ dày tối đa D . Độ dày tối đa đạt được cách tâm đĩa (trục đĩa Y) 25 - 28,5mm. Từ điểm này tới trục Y độ dày đĩa không đổi. Mặt trên và mặt dưới của đĩa phải giống nhau. Đĩa cũng phải đối xứng khi xoay quanh trục Y.

Đĩa, bao gồm cả mặt trên của vành kim loại không được xù xì và phần cuối phải nhẵn  như nhau.

 

Điều 190

LƯỚI BẢO VỆ TRONG NÉM ĐĨA

1. Tất cả các lần ném đĩa phải được thực hiện bên trong khu vực lưới bảo vệ để đảm bảo độ an toàn cho khán giả, trọng tài và các vận động viên. Lưới bảo vệ được trình bày rõ trong điều luật này là để dùng cho những sân vận động lớn có đông khán giả và các môn thi khác đang diễn ra trên sân. Trong trường hợp khác, đặc biệt trong khu vực tập luyện có thể dùng lưới bảo vệ đơn giản hơn. Có thể nhận thông tin chỉ dẫn từ uỷ ban quốc gia hoặc văn phòng IAAF.

Ghi chú: Lưới bảo vệ trong ném tạ xích được trình bày trong điều 192 cũng có thể được sử dụng cho ném đĩa bằng cách hoặc là lắp hai vòng đồng tâm có đường kính 2,135/2,50m hoặc bằng cách sử dụng kiểu mở rộng của lưới bảo vệ này cùng với vòng ném đĩa riêng được đặt ở phía trước vòng ném tạ xích.

2. Lưới bảo vệ phải được thiết kế, lắp đặt và bảo dưỡng như thế nào đó để có thể cản được một đĩa có trọng lượng 2kg đang đi chuyển với tốc độ trên 25mlgiây, và đĩa không bị bật trở lại gây nguy hiểm cho vận động viên hoặc bay qua phía trên lưới chắn.

Miễn là thoả mãn tất cả những đòi hỏi của điều luật này, bất kỳ dạng lưới bảo vệ nào cũng có thể được sử dụng.

3. Lưới bảo vệ phải có hình chữ U theo hình chiếu bằng và được bố trí như trong hình vẽ. Độ rộng của miệng chữ U phải là 7m . Độ cao của tấm lưới ghép tối thiểu phải là 4m.

Sự dự phòng phải được làm trong thiết kế và cấu trúc của lưới chắn để phòng ngừa  đĩa văng qua bất kỳ mắt lưới hoặc lưới hoặc phía dưới tấm ghép.

Ghi chú: ( i ) Việc bố trí các tấm lưới ghép phía sau là không quan trọng, miễn là lưới phải cách trung tâm vòng ném tối thiểu là 3m.

( ii ) Các thiết kế mới tạo ra mức độ bảo vệ tương tự và không làm tăng thêm vùng nguy hiểm so với những thiết kế thông thường phải được IAAF chứng nhận.

4. Mặt lưới có thể làm từ dây gai bện tự nhiên hoặc nhân tạo hoặc từ dây thép. Cỡ mắt lưới tối đa phải là 5cm đối với dây thép và 4,4cm đối với lưới dây gai bện. Cỡ tối thiểu của dây gai hoặc dây thép phụ thuộc vào cấu trúc của lưới song sức mạnh để phá hỏng tối thiểu phải là 40kg.

Để bảo đảm độ an toàn liên tục của lưới, lưới thép phải được kiểm tra tối thiểu 12 tháng 1 lần.

Việc kiểm tra bằng mắt là không đủ đối với dây gai. Vì vậy cần kiểm tra độ dài như nhau của dây gai chuẩn được làm thành mắt lưới của nhà sản xuất. Chúng có thể khác nhau sau 12 tháng và được kiểm tra để bảo đảm độ bền ổn định của lưới.

5. Khu vực nguy hiểm nhất trong lúc ném đĩa ra khỏi lưới bảo vệ là khoảng 69o khi vận động viên sử dụng tay phải hoặc tay trái để ném trong cùng một cuộc thi đấu. Vì vậy việc kiểm tra vị trí và cân chỉnh lưới ở khu vực này là cần thiết để bảo đảm an toàn.

 

ĐIỀU 191

NÉM TẠ XÍCH

 

CUỘC THI

1. Vận động viên, khi ở vị trí bắt đầu, trước khi vung hoặc quay tạ sơ bộ thì được phép đặt đầu tạ xích trên đất  ở bên trong hoặc bên ngoài vòng ném.

2. Nếu đầu của tạ xích chạm đất hoặc mặt trên của vòng sắt khi vận động viên thực hiện quay hoặc vung ban đầu thì sẽ không bị coi là phạm lỗi, song nếu sau khi chạm đất hoặc phía trên vành kim loại vận động viên dừng quay để bắt đầu lại lần ném thì sẽ bị tính là phạm lỗi.

3. Nếu đầu tạ xích bị long ra khi ném hoặc trong lúc bay trên không thì lần ném sẽ không bị coi là phạm lỗi, miễn là lần ném đó đã thực hiện đúng điều luật này. Nếu vận động viên do sự long ra của đầu tạ  bị mất thăng bằng mà  phạm vào bất kỳ phần nào của điều luật này thì sẽ không bị coi là phạm lỗi và anh ta sẽ được phép thực hiện lại.

 

TẠ XÍCH

4. Cấu trúc: Tạ xích bao gồm 3 phần: đầu tạ bằng kim loại, dây cáp và tay cầm.

5. Đầu tạ: Đầu tạ xích phải là sắt cứng hoặc kim loại khác không được mềm hơn đồng hoặc vỏ bằng những kim loại trên còn trong ruột đổ chì hoặc vật liệu rắn khác. Đầu tạ xích phải có dạng hình cầu, đường kính tối thiểu của đầu tạ là 110mm đối với nam và 95mm đối với nữ.

Nếu sử dụng cách hàn, mối hàn phải được nối vào theo cách để nó là bất động và trọng tâm của đầu tạ không cách tâm của hình cầu  quá 6mm.

6. Dây cáp: Dây cáp phải là một đoạn thẳng liên tục (không nối) bằng thép lò xo có đường kính tối thiểu 3mm và phải được cấu tạo sao cho không bị kéo dãn ra đáng kể trong lúc ném tạ xích. Dây có thể được vòng lại ở một hoặc hai đầu để nối đầu tạ và tay cầm.

7. Tay cầm: Tay cầm có thể là một cấu trúc vòng đơn hoặc vòng đôi song phải cứng và không có bất kỳ loại khớp nối bản lề nào. Tay cầm phải không bị kéo giãn đáng kể khi thực hiện ném. Tay cầm được gắn với dây cáp theo cách nào đó để nó không bị xoay bên trong vòng dây làm tăng độ dài toàn bộ của tạ xích.

 

Tay cầm phải có hình tam giác đều và không bị duỗi ra đáng kể trong khi thực hiện ném. Tay cầm phải được gắn với dây cáp theo cách nào đó để nó không bị xoay trong vòng dây làm tăng độ dài toàn bộ cuă tạ xích.

Phần tay nắm có thể có hình vòng cung hoặc là một đoạn thẳng có kích thước tối đa tính từ mép trong là 130mm và cách điểm gắn với dây cáp tối đa là 110mm.

Độ bền chịu lực của dây cầm tối thiểu phải là 20kN (200 kg f ).

8. Khớp nối: Dây cáp được nối với đầu của tạ xích bằng một khớp nối khuyên phẳng hoặc cầu. Tay cầm phải được nối với dây cáp bằng cách quấn, không nên dùng khớp khuyên.

9. Các đặc điểm kỹ thuật sau đây là phù hợp với tạ xích :

Trọng lượng toàn bộ khi ném

Trọng lượng tối thiểu để được thừa nhận trong thi đấu và được công nhận một kỷ lục

                                      4,000kg                       5,000kg                      6,000kg                  7,260kg

Thông tin đối với các hãng sản xuất: Phạm vi cung cấp dụng cụ cho thi đấu

                                        4,005kg                     5,005kg                      6,005kg                      7,265kg

                                        4,025kg                     5,025kg                       6,025kg                     7,285kg

Độ dài của tạ xíh được đo từ bên trong của tay cầm

Tối thiểu                            1160mm                 1165mm                    1175mm                       1175mm

Tối đa                                1195mm                 1200mm                    1215mm                        1215mm

Đường kính của đầu tạ xích

Tối thiểu                            95mm                     100mm                        105mm                       110mm

Tối đa                              110mm                      120mm                        125mm                       130mm

 

TRỌNG TÂM CỦA ĐẦU TẠ XÍCH

Không được cách tâm hình cầu ( đâù tạ xích) quá 6 mm, có nghĩa là nó phải thăng bằng ở đầu trụ kiểm tra có mặt trên phẳng, tròn với đường kính 12mm.

 

ĐIỀU 192

LƯỚI BẢO VỆ TRONG NÉM TẠ XÍCH

1. Tất cả các lần ném tạ xích phải được thực hiện bên trong khu vực lưới bảo vệ để đảm bảo độ an toàn cho khán giả, trọng tài và các vận động viên. Lưới bảo vệ được trình bày rõ trong điều luật này là để dùng cho những sân vận động lớn có đông khán giả và các môn thi khác đang diễn ra trên sân. Trong trường hợp khác, đặc biệt trong khu vực tập luyện có thể dùng lưới bảo vệ đơn giản hơn. Có thể nhận thông tin chỉ dẫn từ Hiệp hội Diền kinh quốc gia hoặc văn phòng của IAAF.

2. Lưới bảo vệ phải được thiết kế, chế tạo và bảo dưỡng như thế nào đó để có thể cản được một quả tạ xích có trọng lượng 7,26kg đang bay với tốc độ 32m/giây, và tạ xích không bị bật trở lại gây nguy hiểm cho vận động viên hoặc bay qua phía trên lưới chắn.

Miễn là thoả mãn tất cả những đòi hỏi của điều luật này, bất kỳ dạng lưới bảo vệ nào cũng có thể được sử dụng.

  1. Lưới  bảo vệ phải có hình chữ U như trong hình vẽ. Độ rộng của miệng chữ U phải là 6m và được đặt cách tâm vòng ném 7m. Độ cao của lưới  ở chỗ thấp nhất phải tối thiểu là 7m đối với các tấm lưới ghép ở phía sau lồng lưới và tối thiểu là 10m đối với các tấm lưới ghép ở đoạn 2,8m tiếp giáp với trục cửa của lồng lưới.
  2. các giải pháp dự phòng phải được thực hiện trong thiết kế và cấu trúc của lưới chắn để ngăn ngừa tạ xích văng qua bất kỳ mắt lưới hoặc lưới hoặc phía dưới tấm ghép.

Ghi chú: Việc bố trí các tấm lưới ghép phía sau là không quan trọng, miễn làchúng tối thiểu phải cách tâm vòng ném 3,50m.

  1. Hai tấm lưới ghép có thể di chuyển được, có độ rộng 2m và cao tối thiểu 10m được lắp đặt ở phía trước của lồng lưới bảo vệ. Chỉ một trong 2 tấm lưới ghép này được mở ra đóng lại trong một  làn ném.

Ghi chú: ( i) Tấm lưới ghép bên tay trái được sử dụng cho các vận động viên quay vòng ngược chiều kim đồng hồ và tấm lưới ghép bên tay phải được sử dụng cho các vận động viên quay vòng theo chiều kim đồng hồ .

Trong thời gian thi đấu, khi có cả vận động viên thuận ném tay phải và tay trái thì cần thực hiện việc thay đổi từ tấm ghép này sang tấm ghép kia cho phù hợp. Điều cốt yếu là việc thay đổi này dễ dàng, ít tốn sức và được tiến hành trong thời gian tối thiểu.

( ii) Vị trí giới hạn của cả 2 tấm lưới ghép được trinh bày trong sơ đồ, mặc dầu trong thi đấu tại một thời điểm chỉ 1 trong 2 tấm lưới ghép được đưa vào sử dụng trong cuộc thi.

( iii) Khi thao tác, tấm ghép có thể di chuyển này phải được đặt chính xác ở vị trí đã nêu. Bởi vậy phải có bộ phận được làm sẵn trong thiết kế để gắn chúng vào vị trí thao tác.

( iv) Cấu trúc của các tấm ghép này và việc tháo lắp chúng phụ thuộc vào thiết kế tổng thể của lưới bảo vệ và có thể trượt, mở đóng theo các trục thẳng và ngang hoặc bỏ xuống. Yêu cầu chắc chắn đòi hỏi tấm ghép khi sử dụng phải hoàtoàn có khả năng cản được quả tạ xích khi đập vào và không để tạ xích lọt qua khe giữa các tấm ghép cố định và tấm ghép có thể di chuyển.

( v) Lưới bảo vệ mới phải được thiết kế phù hợp với khu vực rơi có góc 34,92 độ bằng cách giảm bớt độ

  C g phần miệng của lưới bảo vệ hoặc lùi vị trí vòng ném về phía sau và tăng độ rộng của các tấm lưới ghép có thể di chuyển được.

( vi) Các thiết kế mới tạo ra mức độ bảo vệ tương tự và không làm tăng thêm vùng nguy hiểm so với những thiết kế thông thường phải được IAAF chứng nhận.

  1. Lưới bảo vệ có thể được làm bằng dây bện từ vật liệu tự nhiên hoặc nhân tạo hoặc từ dây thép có độ căng trung bình hoặc cao. Cỡ mắc lưới tối đa là 50mm đối với dây thép và 44mm đối với dây bện. Cỡ tối thiểu của dây phụ thuộc vào cấu trúc của lưới bảo vệ song sức mạnh để phá rách tối thiểu phải là 300kg. Để bảo đảm độ an toàn liên tục của lưới, lưới thép phải được kiểm tra tối thiểu là 12 tháng 1 lần.

Việc kiểm tra bằng mắt là không đầy đủ đối với lưới bằng sợi bện vì vậy cần kiểm tra độ dài như nhau của dây chuẩn được làm thành mắt lưới của nhà sản xuất. Chúng có thể khác nhau trong 12 tháng và được được kiểm tra để bảo đảm độ bền ổn định của lưới bảo vệ.

  1. Ở nơi có yêu cầu sử dụng cùng một lưới bảo vệ cho ném đĩa, việc lắp đặt có thể được điều chỉnh phù hợp theo 2 cách khác nhau. Đơn giản nhất là các đường tròn đồng tâm với đường kính 2,135 và 2,5m có thể được gắn vào. Song điều này liên quan đến việc sử dụng cùng một mặt sàn trong vòng để ném đĩa và ném tạ xích. Cổng ném tạ xích phải được sử dụng cho ném đĩa theo cùng một cách như ném tạ xíh, ngoại trừ việc mép trước của cổng phải trong vạch sân.

Đối với các vòng riêng biệt cho ném tạ xích và ném đĩa trong cùng một lưới bảo vệ, 2 vòng phải được đặt cái nọ sau cái kia cách nhau 2,37m theo đường trung tâm của khu vực rơi và vòng ném đĩa phải đặt ở phía trước.

Trong trường hợp này, các tấm lưới có thể di chuyển phải được sử dụng cho ném đĩa.

Hình dáng phía sau lưới bảo vệ khi đó phải làm rộng bằng cách dùng tối thiểu 8 tấm chắn cố định hoặc tương đương và 2 tấm chắn, rộng 2m có thể di chuyển được. Độ cao tối thiểu của tấm chắn,cả cố định lẫn di chuyển được, cho lưới bảo vệ được mở rộng này phải giống nhau như lưới bảo vệ tiêu chuẩn.

7. Khu vực nguy hiểm nhất trong ném tạ xích từ trong lưới bảo vệ này là khoảng 53 độ, khi trong cuộc thi đấu có các vận động viên sử dụng cả bằng tay phải và tay trái. Vì thế vị trí và sự liên kết của lưới bảo vệ này trong đấu trường là điều phải đặc biệt quan tâm để bảo đảm an toàn.

 

 

 

Điều 193

NÉM LAO

CUỘC THI ĐấU

1. (a) Lao phải được cầm tại chỗ có dây cuốn . Lao phải được ném trên vai hoặc phần trên của tay ném và không được quăng hoặc lăng. Các kiểu ném không chính thống là không được phép.

(b) Lần ném được coi là hợp lệ nếu mũi kim loại của đầu lao chạm xuống đất trước bất kỳ phần nào của lao.

(c) Rất nhanh trong lúc ném, cho tới khi lao đã được phóng vào không khí, vận động viên có thể quay hoàn toàn xung quanh để lưng hướng về phía hướng ném.

2. Nếu lao bị gẫy trong lúc ném hoặc lúc bay trên không thì sẽ không bị coi là phạm lỗi, miễn là lần ném đó đã thực hiện theo đúng luật. Nếu vận động viên vì thế mà bị mất thăng bằng và vi phạm bất kỳ phần nào của luật này thì cũng không bị coi là phạm lỗi và vận động viên sẽ được thực hiện lại lần ném đó.

LAO

3. Cấu trúc. Lao gồm 3 phần: đầu, thân lao và chỗ cuốn dây để cầm khi ném. Thân lao  có thể đặc hoặc rỗng và phải được làm hoàn toàn bằng kim loại hoặc vật liệu đồng chất phù hợp khác. Thân lao được gắn với một đầu kim loại có mũi nhọn.

Bề mặt của thân lao phải nhẵn không được lồi lõm, xù xì có lỗ hoặc lởm chởm và đuôi phải thuôn đều như nhau.

Đầu lao phải đươc cấu trúc hoàn toàn bằng kim loại. Có thể hàn vào đầu lao một đầu nhọn được gia cường bằng loại hợp kim khác., miễn là phần đầu mũi lao đã hoàn chỉnh phải thuôn đều và đồng dạng trên toàn bộ bề mặt của nó (xem hình 24).

Lao quốc tế

Độ dài (tất cả các số đo mm)

Đường kính (tất cả các số đo mm)

 

Từng số

 

Chi tiết

Nam 

Tối đa  Tối thiểu

Nữ

Tối đa  Tối thiểu

 

Từng số

 

Chi tiết

Nam 

Tối đa  Tối thiểu

Nữ

Tối đa  Tối thiểu

L0

 

L1

 

1/2L1

 

L2

½ L2

 

L3

 

L4

Toàn bộ

 

Từ mũi tới trọng tâm

 

1/2L1

 

Từ đuôi tới trọng tâm

1/2L2

 

Đầu lao

 

Dây cuốn

2700    2600

 

1060     900

 

530        450

 

1800     1540

900          770

 

330         250

 

160          150

2300    2200

 

920     800

 

460      400

 

1500   1280

750      640

 

330        250

 

150        140

D0

 

D1

 

D2

 

D3

D4

 

D5

 

D6

D7

D8

D9

Phía trước chỗ cuốn dây

Phía sau chỗ cuốn dây

 

Cách mũi 150mm

 

Phía sau của đầu lao

Ngay phía sau đầu lao

Điểm giữa mũi lao và trọng tâm lao

Dây cuốn

Điểm giữa trọng tâm và đuôi lao

Cách đuôi 150mm

tại duôi

 

   30         25

 

   -    Do-0,25

 

0,8D0       -    

 

   -                 -

  -           D3-2,5

 

0,9-D0        -

 

D0+8         -

   -          0,9D0

   -          0,4D9

   -           3,5

   25        20

 

  -    D0-0,25

 

0,8D0        -

 

   -                -

    -       D3-2,5

 

0,9-D0       -

 

D0+8         -

   -          0,9D0

    -         0,4D0

    -          3,5

 

4. Chỗ dây cuốn để cầm khi ném phải phủ trên trọng tâm lao, và không được lớn hơn đường kính của thân lao 8mm. Mặt trên chỗ cuốn dây không trơn song không được có các vết khía, vết lõm và phải có độ dày như nhau.

5. Tiết diện ngang phải hoàn toàn tròn đều (Xem ghi chú 1). Đường kính tối đa của  lao phải ở ngay trước chỗ cuốn dây. Phần giữa của thân, bao gồm phần dưới của chỗ dây cuốn, phải có hình trụ hoặc hơi được vuốt thon về phía đuôi (sau) song không được giảm đường kính từ vị trí ngay trước chỗ cuốn dây tới vị trí ngay sau chỗ cuốndây vượt quá 0,25mm . Từ chỗ cuốn dây, lao sẽ thuôn đều tới đầu trước và tới đuôi lao phía sau. Nhìn nghiêng từ chỗ cuốn đây tới đầu và đuôi lao phải thẳng hoặc hơi lồi (Xem ghi chú 2) và không được có sự thay đổi đột ngột đường kính suốt chiều dài của lao ngoại trừ ngay sau đầu lao và phần trước và sau chỗ cuốn dây để cầm. Tại phần cuối của đầu lao. việc giảm đường kính không được quá 2,5mm và sự lệch hướng này khi nhìn nghiêng phải không kéo dài quá 300mm sau đầu lao.

Ghi chú 1 : Khi tiết diện ngang có dạng hình tròn thì sự chênh lệch tối đa 2% giữa đường kính chỗ rộng nhất và nhỏ nhất của tiết diện tròn là được phép. Giá trị trung bình của 2 đường này sẽ tương đương với đặc kỹ thuật của một lao tròn.

Ghi chú 2: Hình dạng của tiết diện dọc có thể kiểm tra nhanh và dễ dàng nhờ sử dụng một thanh kim loại có cạnh thẳng ít nhất dài 500mm và hai chiếc đo khe dày 0,20mm và 1,25mm. Đối với phần hơi lồi của măt cắt dọc, cạnh thẳng của thanh kim loại sẽ đung đưa trong khi được ép sát vào một phần ngắn của lao. Đối với phần thẳng của mặt cắt dọc, cạnh thẳng của thanh kim lọai được ép sát vào và không thể lồng một chiếc đo khe dày 0,20mm qua ở bất cứ chỗ nào dọc theo chiều dài tiếp xúc giữa lao và cạnh thẳng. Điều này không áp dụng ngay sau chỗ nối giữa đầu và thân lao. Tại điểm này không thể lồng một chiếc đo khe dày 1,25mm qua.

6.Các đặc điểm kỹ thuật sau đây là phù hợp với lao:

 

Trọng lượng (bao gồm cả dây cuốn)

Trọng lượng tối thiểu để được thừa nhận trong thi đấu và được chấp nhận một kỷ lục

 

                                                                                    600g                             700g                      800g

Thông tin đối với các hãng sản xuất: Phạm vi cung cấp dụng cụ cho thi đấu

 

                                                                                   605g                            705g                      805g

                                                                                   625g                           725g                        825g

Độ dài toàn bộ

Tối thiểu                                                                       2,20m                         2,30m                      2,60m

Tối đa                                                                     2,30m                         2,40m                      2,70m

Độ dài của đầu kim loại

Tối thiểu                                                                       250mm                      250mm                     250mm

Tối đa                                                                           330mm                     330mm                      330mm

Độ dài từ mũi lao tới trọng tâm lao

Tối thiểu                                                                       0,80m                        0,86m                        0,90m

Tối đa                                                                           0,92m                        1,00m                        1,06m

Đường kính của thân lao tại chỗ to nhất

Tối thiểu                                                                        20mm                         23mm                       25mm

Tối đa                                                                            25mm                         28mm                       30mm

Độ dài của đoạn có dây cuốn

Tối thiểu                                                                       140mm                      150mm                     150mm

Tối đa                                                                           150mm                      160mm                     160mm

7. Lao không được có các bộ phận di động hoặc thiết bị khác để trong khi ném có thể làm thay đổi trọng tâm hoặc tính chất ném

8. Sự vuốt thon của lao tới mũi của đầu kim loại phải như thế nào đó để góc ở mũi không quá 40o. Đường kính tại điểm cách mũi lao 150mm không vượt quá 80% đường kính tối đa của thân lao. Tại điểm giữa trọng tâm và đầu lao, đường kính không được vượt quá 90% đường kính tối đa của thân lao.

9. Sự vuốt thon của thân lao về phía đuôi phải như thế nào đó để đường kính tại điểm giữa trọng tâm và đuôi lao không nhỏ hơn 90% đường kính tối đa của thân lao. Tại điểm cách đuôi lao 150mm, đường kính không được nhỏ hơn 40% đường kính tối đa của thân lao. Đường kính tại đuôi lao không được nhỏ hơn 3,5mm.

 

 

 

 

 

CHƯƠNG V

CÁC CUỘC THI ĐẤU NHIỀU MÔN PHỐI HỢP

ĐIỀU 200

CÁC CUỘC THI ĐẤU NHIỀU MÔN PHỐI HỢP

 

NAM (5 môn và 10 môn phối hợp).

1. 5 môn phải được tiến hành thi trong 1 ngày theo trình tự: nhảy xa; ném lao; chạy 200m; ném đĩa và chạy 1500m.

2. 10 môn phối hợp được tiến hành thi trong 2 ngày liền nhau theo trình tự:

Ngày thứ nhất: Chạy 100m; nhảy xa; đẩy tạ; nhảy cao và chạy 400m.

Ngày thứ hai: Chạy 110m rào; ném đĩa; nhảy sào; ném lao và chạy 1500m.

NỮ (7 môn phối hợp)

3. 7 môn phối hợp phải được tiến hành thi đấu trong 2 ngày liền nhau theo trình tự:

Ngày thứ nhất: Chạy 100m rào, nhảy cao; đẩy tạ; chạy 200m.

Ngày thứ hai: Nhảy xa; ném lao; chạy 800m.

4.10 môn phối hợp của nữ được tiến hành thi trong 2 ngày liền nhau theo trình tự:

Ngày thứ nhất: 100m; ném đĩa; nhảy sào; ném lao và chạy 400m.

Ngày thứ hai: 100m rào; nhảy xa; đẩy tạ; nhảy cao và chạy 1.500m.

PHÂN CHUNG

5. Trọng tài giám sát nhiều môn phối hợp cần tính toán để:

- Nếu có thể, cần có tối thiểu 30 phút cho mỗi vận động viên từ lúc kết thúc môn thi trước cho tới khi bắt đầu môn thi sau.

- Nếu có thể, thời gian kéo dài từ lúc kết thúc môn thi cuối cùng của ngày thứ nhất đến lúc bắt đầu môn thi đầu tiên của ngày thứ hai tối thiểu phải là 10 tiếng.

6. Trình tự thi đấu được rút thăm trước mỗi môn thi. Trong các môn chạy 100m. 200m, 400m, 100m rào và 110m rào, các vận động viên thi đấu theo nhóm, theo quyết định của đại điện kỹ thuật (Technical Delegate), tốt nhất là 5 người hoặc nhiều hơn song không bao giờ được ít hơn 3 người một nhóm.

Trong môn thi cuối cùng của nhiều môn phối hợp, các đợt chạy phải được bố trí sao cho có một đợt chạy gồm các vận động viên dẫn đầu sau môn thi trước môn thi cuối cùng (áp chót). Cùng với ngoại lệ này các đợt chạy tiếp khác sau đó có thể được rút thăm như khi các vận động viên có thể làm ở cuộc thi trước.

Trọng tài giám sát nhiều môn phối hợp phải có trách nhiệm bố trí lại bất kỳ nhóm nào nếu thấy điều đó nên làm.

7. Các điều luật của IAAF đối với mỗi môn thi tạo thành cuộc thi nhiều môn phải áp dụng cùng các ngoại lệ sau đây:

(a) Trong nhảy xa và các môn ném, mỗi vận động viên chỉ được phép thực hiện 3 lần.

(b)Trong trường hợp thiết bị tính thời gian hoàn toàn tự động không có, thời gian của mỗi vận động viên phải được xác định bởi 3 trọng tài bấm giờ độc lập.

(c) Trong các môn chạy trong sân vận động, một vận động viên sẽ bị loại ở bất kỳ cự ly thi nào mà tại đó phạm 2 lỗi xuất phát.

8.Chỉ được sử dụng một hệ thống xác định thời gian trong suốt một môn thi. Tuy nhiên, với mục tiêu xác định kỷ lục, việc xác định thời gian bằng đồng hồ điện tử hoàn toàn tự động phải được áp dụng bất kể việc xác định này có thể đối với các vận động viên khác hay không trong môn thi đó.

9. Bất kỳ vận động viên nào vắng mặt khi xuất phát hoặc khi thực hiện lần nhảy hoặc đẩy ở một trong các môn thi sẽ không được phép tham gia các môn tiếp theo và bị coi là bỏ thi đấu. Do vậy vận động viên này sẽ không có điểm trong phân loại cuối cùng.

Bất kỳ vận động viên nào quyết định rút khỏi cuộc thi nhiều môn phối hợp phải lập tức thông báo cho trọng tài giám sát về quyết định của mình.

10.Số điểm theo bảng điểm hiện hành của IAAF phải được công bố tách biệt đối với mỗi môn cũng như tổng toàn bộ cho tất cả các vận động viên sau khi hoàn thành mỗi môn thi. Người thắng là người có tổng số điểm cao nhất.

11.Trong trường hợp bằng điểm, người thắng là vận động viên có nhiều môn thi đạt điểm cao hơn các vận động viên khác cùng bằng điểm). Nếu điều này vẫn không giải quyết được thì người thắng là vận động viên có số điểm cao nhất trong bất kỳ môn thi nào và nếu điều này cũng không thể giải quyết được thì người thắng là người có số điểm cao nhất trong môn thứ hai v.v...Điều này cũng áp dụng để phân hạng trong các trường hợp bằng điểm nhau ở các vị trí khác trong cuộc thi đấu.

 

CHƯƠNGVI

CÁC CUỘC THI ĐẤU Ở SÂN VẬN ĐỘNG TRONG NHÀ

ĐIỀU 210

 

Có thể áp dụng các điều luật thi đấu trên sân vận động ngoài trời vào các cuộc thi đấu ở sân vận động trong nhà.

Cùng với những ngoại lệ được nêu trong các điều luật của chương VI, các điều luật của chương I tới chương V của phần IV về các các cuộc thi đấu trên sân vận động ngoài trời là cũng có thể áp dụng đối với các cuộc thi đấu ở sân vận động trong nhà.

 

ĐIỀU 211

SÂN VẬN ĐỘNG TRONG NHÀ

 

1. Sân vận động phải hoàn toàn có tường bao quanh và có mái che. Ánh sáng, lò sưởi và hệ thống thông gió phải được chuẩn bị để tạo ra điều kiện thoả đáng cho thi đấu .

2. Khu vực thi đấu phải có đường chạy hình ô van, đường chạy thẳng cho chạy ngắn và chạy rào; đường chạy đà và khu vực rơi xuống cho các môn nhảy, một vòng đẩy và khu vực rơi xuống của dụng cụ cho đẩy tạ được bố trí tạm thời hoặc lâu dài.

3. Tất cả diện tích bề mặt các đường đua, đường chạy đà hoặc giậm nhảy phải được phủ vật liệu tổng hợp hoặc lát gỗ. Vật liệu tổng hợp tốt nhất là phải có thể tiếp nhận đinh giày chạy dài 6mm. Lớp phủ thay thế phải do ban quản lý sân cung cấp. Ban quản lý sân sẽ thông báo cho các vận động viên về độ dài được phép của đinh giày (xem điều luật 143.4).

4. Theo khả năng về mặt kỹ thuật cho phép, mỗi đường chạy đà phải có độ đàn hồi đồng đều như nhau. Điều này phải được kiểm tra ở khu vực giậm nhảy đối với các môn nhảy trước mỗi cuộc thi (xem điều luật 218.2 và 3, 219.3, 220.2).`

 

Điều 212

ĐƯỜNG CHẠY THẲNG

 

1. Độ nghiêng tối đa của đường chạy theo chiều ngang không được quá 1/100 và độ nghiêng theo hướng chạy không được vượt quá 1/250 tại bất kỳ điểm nào và 1/1000 trên toàn tuyến.

Ô CHẠY

2. Đường chạy phải có tối thiểu 6 ô chạy và tối đa 8 ô chạy được phân biệt và được giới hạn ở cả hai bên bởi vạch trắng rộng 5 cm. Các ô chạy phải có cùng chiều rộng tối thiểu là 1.22m ±0,01 (bao gồm cả vạch bên phải).

XUẤT PHÁT VÀ ĐÍCH

3. Phải có khoảng trống tối thiểu 3m phía sau vạch xuất phát và khoảng trống này không được có bất kỳ trở ngại nào. Phải có khu vực an toàn tối thiểu 10m phía sau vạch đích và khu vực này cũng không được có bất kỳ trở ngại nào cho vận động viên dừng lại mà không bị chấn thương.

Ghi chú: Nên để khu vực an toàn tối thiểu 15m phía sau vạch đích.

 

Điều 213

ĐƯỜNG CHẠY VÒNG HÌNH Ô VAN VÀ CÁC Ô CHẠY

 

1. Độ dài cần thiết phải là 200m bao gồm 2 đường thẳng song song và hai đường vòng. Đường vòng phải có độ dốc nghiêng và bán kính bằng nhau. Bên trong của vòng đường chạy phải được viền thành gờ bằng vật liệu phù hợp có chiều cao và chiều rộng 5 cm hoặc được phân biệt bằng 1 vạch trắng rộng 5 cm. Mép ngoài của gờ hoặc vạch 5 cm này tạo thành mép trong của ô chạy 1. Mép trong của vạch hoặc gờ phải ngang bằng suốt chiều dài của đường chạy với độ nghiêng tối đa 1/1000.

 

Ô CHẠY

2. Đường chạy phải có tối thiểu 4 ô chạy và tối đa là 6 ô chạy. Các ô chạy phải có cùng độ rộng tối thiểu là 0,90m và tối đa là 1,10m bao gồm cả vạch ô bên phải. Các ô chạy phải được phân chia ranh giới bằng các vạch trắng rộng 5 cm.

3. Hướng chạy phải vòng sang trái (ngược chiều kim đồng hồ). Các ô chạy phải được đánh số từ phía trong ra phía ngoài (có nghĩa là ô sát phía trong là ô chạy số 1).

 

ĐỘ NGHIÊNG

4. Nếu đường vòng có độ nghiêng, tốt nhất góc nghiêng tối đa không được lớn hơn 18độ. Góc nghiêng trong tất cả các ô chạy phải như nhau tại bất kỳ phần cắt ngang của đường.

Để dễ chuyển tiếp từ phần đường hoàn toàn thắng tới đường vòng có độ nghiêng, việc chuyển này phải làm với sự chuyển tiếp dần độ cao và sự chuyển tiếp này có thể phải được mở rộng vào phần đường thẳng 5m.

 

ĐƯỜNG VÒNG

5.Đối với đường đua 200m, bán kính phía trong của đường vòng không được nhỏ hơn 11m và không lớn hơn 21m. Ở những địa điểm có thể, bán kính này tối thiểu phải là 13m. Các bán kính của đường vòng không nên cố định.

 

ĐÁNH DẤU ĐƯỒNG VÒNG

  1. Khi mép trong của đường chạy được kẻ bằng một vạch trắng nó sẽ phải được đánh đấu thêm bằng vật mốc hoặc cờ. Vật mốc phải cao tối thiểu 20 cm. Cờ phải cỡ 25x20 cm, cao ít nhất 45 cm và được cắm nghiêng so với đường một góc 120độ. Các vật mốc hoặc cờ phải đặt trên đường như thế nào đó để mặt ngoài của mốc hoặc cột cờ trùng khớp với mép của vạch trắng gần đường nhất. Các vật mốc hoặc cờ phải được đặt ở khoảng cách không quá 1,5m trên 2 đường vòng và 10m trên đường thẳng.

Ghi chú: Đối với tất cả các cuộc thi đấu trong nhà do IAAF tổ chức, việc sử dụng một lề đường bên trong là rất cần thiết.

 

Điều 214

XUẤT PHÁT VÀ VỀ ĐÍCH TRÊN ĐƯỜNG CHẠY HÌNH Ô VAN

 

1. Thông tin kỹ thuật về cấu trúc và đánh dấu ở một đường chạy trên sân vận động trong nhà có chiều dài 200m được trình bày chi tiết trong sách của IAAF về những trang thiết bị trong môn điền kinh. Các nguyên tắc cơ bản phải thừa nhận được nêu dưới đây.

CÁC ĐÒI HỎI CƠ BẢN

2. Xuất phát và về đích của cuộc thi phải được biểu thị bởi các vạch trắng rộng 5 cm. Các vạch này vuông góc với các vạch phân ô chạy đối với các phần đường thẳng của đường chạy và dọc theo bán kính ô chạy đối với các phần đường vòng của đường chạy. .

3. Những đòi hỏi đối với vạch đích là nên chỉ có một vạch đích chung cho tất cả các cự ly khác nhau, vạch đích phải ở trên phần đường thẳng của sân chạy và trước khi tới đích có đoạn đường thắng càng dài càng tốt

4. Đòi hỏi thiết yếu đối với các vạch xuất phát thẳng, theo dạng bậc thang hoặc vòng cung là việc cự ly đối với mỗi vận động viên khi chạy theo dường được phép ngắn nhất phải là như nhau.

5. Nếu có thể vạch xuất phát (và vạch trao gậy đối với các cuộc thi tiếp sức) không được bố trí trong phần có độ cong nhiều nhất của đường vòng hoặc phần dốc nhất của độ nghiêng.

 

HƯỚNG DẪN VỀ CÁC CUỘC THI

6. Đối với các cuộc thi 400m hoặc ngắn hơn, mỗi vận động viên phải có ô chạy riêng tại chỗ xuất phát. Các cuộc thi từ 200m trở xuống phải chạy hoàn toàn theo ô chạy riêng. Các cuộc thi dài trên 200m và ngắn hơn 800m phải xuất phát và tiếp tục chạy theo ô chạy riêng cho tới cuối đường vòng thứ hai. Trong các cuộc thi 800m, mỗi vận động viên có thể được chỉ định một ô chạy riêng hoặc xuất phát theo nhóm, tốt nhất là sử dụng ô chạy 1 và 3. Các cuộc thi trên 800m phải chạy theo đường chung (không theo ô riêng) khi sử dụng một vạch xuất phát hình vòng cung hoặc xuất phát theo nhóm.

Ghi chú 1. Trong các cuộc thi đấu không áp dụng điều luật 12.1 (a), (b) và (c), các thành viên liên quan có thể đạt được sự thoả thuận không sử dụng chạy riêng cho cự ly 800m.

Ghi chú 2. Trong các đường chạy có ít hơn 6 ô chạy, xuất phát theo nhóm như trong điều luật 162.10 có thể được sử dụng để cho phép 6 vận động viên thi đấu.

VẠCH XUẤT PHÁT VÀ VẠCH ĐÍCH TRÊN ĐƯỜNG CHẠY CÓ ĐỘ DÀI HIỆN TẠI LÀ 200M

 

7. Vạch xuất phát trong ô chạy số 1 phải trên đường thẳng chính. Vị trí của vạch phải được xác định sao cho vạch xuất phát xa nhất ở phía trước tại ô chạy bên ngoài (Đua 400/800m, xem mục 9) phải ở vị trí mà tại đó độ cao của mặt nghiêng tại ô chạy bên ngoài không được quá 80 cm hoặc một nữa độ cao tối đa của mặt nghiêng tại đỉnh của đoạn đường vòng.

Vạch đích đối với tất cả các cuộc thi trên đường chạy hình ô van phải là sự kéo dài của vạch xuất phát tại ô chạy số 1 đi ngang qua đường và vuông góc với các vạch phân ô chạy.

CÁC VẠCH XUẤT PHÁT ĐỐI VỚI CUỘC ĐUA 200M

8. Vị trí của vạch xuất phát trong ô chạy 1 và vị trí của vạch đích phải ổn định. Vị trí của các vạch xuất phát tại các ô chạy còn lại sẽ được quyết định bởi việc đo trong mỗi ô chạy ngược từ vạch đích trở lại. Việc đo trong một ô chạy phải được thực hiện trong cùng một cách chính xác như với ô chạy 1 khi đo độ dài của đường chạy (xem điều 160.2).

Khi xác định được vị trí của vạch xuất phát tại nơi nó cắt đường đo ở điểm cách mép trong của ô chạy 20 cm, một vạch sẽ được kéo dài thẳng ngang qua ô chạy và vuông góc với vạch phân biệt ô chạy nếu như là ở trên phần thẳng của đường đua. Nếu trên phần đường vòng của đường đua, thì vạch sẽ được kéo dài dọc theo bán kính thẳng qua tâm của vòng và nếu như ở một trong những phần chuyển tiếp (xem điều luật 213.4) thì vạch dọc theo bán kính qua tâm lý thuyết của đường cong tại điểm đó. Vạch xuất phát khi đó phải được kẻ rộng 5 cm về phía vị trí đo gần đích hơn.

 

CÁC VẠCH XUẤT PHÁT ĐỐI VỚI CÁC CUỘC ĐUA TRÊN 200M TỚI 800M

9. Khi các vận động viên được phép rời ô chạy riêng của mình để chuyển vào đường thẳng sau khi đã chạy 1 hoặc 2 đường vòng theo ô chạy riêng của mình, các vị trí xuất phát sẽ được cân nhắc theo hai cách: Thứ nhất, theo cách bố trí hình bậc thang bình thường như trong cuộc thi 200m (xem mục 8 phía trên). Thứ hai, điều chỉnh điểm xuất phát trong mỗi ô chạy để bù cho các vận động viên chạy ở ô chạy phía ngoài phải di chuyển xa hơn so với các vận động viên chạy ở ô trong để đạt tới vị trí bên trong tại cuối đường thẳng phía sau vạch được phép chạy vào đường chung.

Sự điều chỉnh này được quyết định khi đánh dấu vạch cho phép vận động viên được rời ô chạy riêng chạy vào đường chung. Điều đáng tiếc là do vạch xuất phát rộng 5 cm, nên không thể đánh dấu hai vạch xuất phát khác nhau trừ khi có sự khác nhau về vị trí vượt quá khoảng 7 cm thì mới rõ khoảng cách 2 cm giữa 2 vạch xuất phát. Khi xuất hiện vấn đề này, việc giải quyết là sử dụng vạch xuất phát phía sau. Vấn đề này không xuất hiện ở ô chạy số 1 vì lẽ rằng không có sự điều chỉnh theo vạch được phép rời ô chạy riêng để vào đường chạy chung. Vấn đề sẽ xuất hiện ở ô chạy số 2 và số 3, song không phải ở các ô xa phía ngoài như ô số 5 và 6 vì ở những ô chạy này việc điều chỉnh theo vạch được phép chạy vào đường chung là lớn hơn 7 cm.

Ở những ô chạy bên ngoài, nơi mà sự cách biệt là đủ một vạch xuất phát thứ hai có thể được đo ở phía trước của vạch thứ nhất bởi sự "điều chỉnh" được xác định từ vạch được phép chạy vào đường chung. Vạch xuất phát thứ 2 khi đó có thể được kẻ rõ theo cùng cách như trong cuộc đua 200m.

Chính vị trí của vạch xuất phát trong ô chạy bên ngoài, sẽ quyết định vị trí của tất cả các vạch xuất phát và vạch đích trên đường đua.

Để tránh việc làm cho vận động viên xuất phát trong ô chạy ngoài bớt sự bất lợi rõ rệt của việc xuất phát trên vòng đua có mặt dốc nghiêng, tất cả các vạch xuất phát và vì lý do này cả vạch đích được di chuyển một cách đầy đủ xa về sau đường vòng đầu tiên để hạn chế độ dốc của mặt nghiêng tới mức có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, nếu cần thiết việc đầu tiên phải cố định vị trí các vạch xuất phát của 400m và 800m trong ô chạy bên ngoài và sau đó làm ngược lại qua tất cả các vạch xuất phát khác, cuối cùng tới vạch đích.

Ghi chú: Để trợ giúp các vận động viên nhận biết vạch cho phép chạy vào đường chung, các vật mốc nhỏ hoặc hình lăng trụ có kích thước 5cmx5cm và không cao quá 15 cm, có cùng màu như màu của vạch cho phép chạy vào đường chung phải được đặt tại chỗ cắt nhau của một ô chạy với vạch cho phép chạy vào đường chung.

 

HẠN ĐỊNH TỪ CÁC ĐỢT CHẠY VÒNG LOẠI

  1. Tại các cuộc thi đấu ở sân vận động trong nhà, khi không có các tình huống đặc biệt, các bảng sau đây sẽ được sử dụng để quyết định số lượng các vòng và số lượng các đợt chạy trong mỗi vòng để chọn ra các vận động viên tiếp tục thi đấu ở mỗi vòng sau của các môn chạy.

 

60m, 60m rào

 

Danh sách đăng ký

Các đợt thi vòng 1

Thứ hạng

Thời gian

Các đợt thi vòng 2

Thứ hạng

Thời gian

9-16

2

3

2

 

 

 

17-24

3

2

2

 

 

 

25-32

4

3

4

2

4

 

33-40

5

4

4

3

2

2

41-48

6

3

6

3

2

2

49-56

7

3

3

3

2

2

57-64

8

2

8

3

2

2

65-72

9

2

6

3

2

2

73-80

10

2

4

3

2

2

 

200M, 400M,800M, 4X200M, 4X400M

 

Danh sách đăng ký

Các đợt thi vòng 1

Thứ hạng

Thời gian

Các đợt thi vòng 2

Thứ hạng

Thời gian

Các đợt thi vòng 3

Thứ hạng

Thời gian

7-12

2

2

2

 

 

 

 

 

 

13-18

3

3

3

2

3

 

 

 

 

19-24

4

2

4

2

3

 

 

 

 

25-30

5

2

2

2

3

 

 

 

 

31-36

6

2

6

3

2

 

 

 

 

37-42

7

2

4

3

2

 

 

 

 

43-48

8

2

2

3

2

 

 

 

 

49-54

9

2

6

4

3

 

2

3

 

55-60

10

2

4

4

3

 

2

3

 

 

1500M

 

Danh sách đăng ký

Các đợt thi vòng 1

Thứ hạng

Thời gian

Các đợt thi vòng 2

Thứ hạng

Thời gian

12-18

2

3

3

 

 

 

19-27

3

2

3

 

 

 

28-36

4

2

1

 

 

 

37-45

5

3

3

2

3

3

46-54

6

2

6

2

3

3

55-63

7

2

4

2

3

3

3000M

 

Danh sách đăng ký

Các đợt thi vòng 1

Thứ hạng

Thời gian

16-24

2

4

4

25-36

3

3

3

37-48

4

2

4

Ghi chú: Thủ tục phân loại trên chỉ có giá trị đối với 6 ô chạy đường vòng và 8 ô chạy đường thẳng.

RÚT THĂM Ô CHẠY

  1.    Đối với các môn chạy ( trừ chạy 800m) việc chạy hoàn toàn hoặc một phần nào đó trong ô chạy riêng ở đường vòng mà tại đó có các vòng liên tiếp của cuộc đua, việc rút thăm chọn ô chạy phải được làm như sau:

a)          Hai ô bên ngoài thuộc về hai vận động viên hay đội có thứ hạng cao nhất.

b)      Hai ô kế tiếp  ngoài thuộc về hai vận động viên hay đội có thứ hạng thứ 3 và 4.

c)    Các ô bên trong còn lại thuộc về các vận động viên và đội khác.

Việc phân loại thứ hạng được phân định như sau:

i)      Đối với những đợt chạy của vòng đầu tiên, dựa vào danh sách liên quan của các thành tích đạt được trong thời kỳ định trước đó.

ii)    Đối với những vòng tiếp theo hoặc vòng chung kết thì theo quy định nêu trong Điều 166.3(a).

  1.    Đối với tất cả các cuộc đua khác, thứ tự ô sẽ được rút thăm theo Điều 162.9 và 11.

ĐIỀU 215

TRANG PHỤC, GIẦY VÀ SỐ ĐEO

  1. 9+Cùng với ngoại lệ dưới đây, Điều 143 phải được áp dụng cho trang phục, giầy và số đeo khi thi đấu ở sân vận động trong nhà.
  2. Khi một cuộc thi được  tiến hành trên lớp phủ tổng hợp thì phần đầu nhọn nhô ra khỏi lòng hoặc gót giầy không được vượt quá 6mm ( hoặc theo như đòi hỏi của Ban tổ chức). Phần đầu nhọn nhô ra này phải có đường kính tối đa 4mm.

 

ĐIỀU 216

CHẠY RÀO

 

1. Các cuộc thi chạy rào được tiến hành ở cự ly 50m hoặc 60m trên đường thẳng.

2. Các chi tiết về cấu trúc, kích thước và mặt trên của rào được trình bầy trong điều luật 168 về chạy rào trên sân vận độngngoài trời.

3. Cách bố trí các rào trong các cuộc đua:

 

Nam 

Nữ

Độ dài đường đua

Độ cao của rào

Số lượng rào

  50m                             60m

1,067                            1,067

   4                                  5                     

 50m                                 60m

0,840                             0,840

    4                                    5

Khoảng cách:

Từ vạch xuất phát tới rào đầu tiên

Khoảng cách giữa các rào

Từ rào cuối cùng tới đích

 

13,72m                        13,72m

 

 9,14m                            9,14m

8,86m                            9,72m 

 

13.00m                         13.00m

 

 8,50m                             8,50m

11,50m                          13.00m

 

4. Các cuộc đua sẽ tiến hành theo điều luật 168 về chạy rào trên sân vận động ngoài trời.

 

 

Điều 217

CHẠY TIẾP SỨC

 

1. Điều luật 170 sẽ được áp dụng đối với chạy tiếp sức ở sân vận động trong nhà cùng các ngoại lệ sau:

HƯỚNG DẪN VỀ CÁC CUỘC ĐUA

2. Trong chạy tiếp sức 4x200m, toàn bộ chặng đầu tiên và đường vòng đầu tiên của chặng thứ hai phải chạy theo trong ô chạy riêng. Ở cuối của đường vòng này có một vạch rộng 5 cm (vạch cho phép chạy vào đường chung) vẽ ngang qua tất cả các ô chạy tại điểm mà ở đó mỗi vận động viên có thể rời ô chạy riêng để bắt vào đường chung. Điều luật 170.7 sẽ không áp dụng.

3. Trong tiếp sức 4x400m, hai đường vòng đầu tiên sẽ phải chạy theo ô chạy riêng. Một vạch cho phép rời ô chạy riêng vào đường chạy chung; các vạch rời v.v. . . sẽ được sử dụng như đối với cuộc đua riêng cho 400m.

4. Trong tiếp sức 4x800m, đường vòng đầu tiên sẽ phải chạy theo ô chạy riêng. Một vạch cho phép rời ô chạy riêng vào đường chạy chung; các vạch rời v.v... sẽ được sử dụng như với cuộc thi riêng cho 800m.

5. Trong các cuộc thi mà ở đó các vận động viên được phép rời ô chạy riêng để chạy vào đường thắng chung sau khi chạy 2 hoặc 3 đường vòng theo ô riêng, cách bố trí xuất phát theo kiểu bậc thang được mô tả trong điều luật 214.9.

Ghi chú: Do ô chạy hẹp, việc thi đấu ở sân vận động trong nhà có nhiều nguy cơ va chạm và các trở ngại không lường trước được so với thi đấu tiếp sức trên sân vận động ngoài trời. Vì thế khi có thể, một ô chạy dự phòng nên được để lại giữa mỗi đội. Nghĩa là các ô chạy 1, 3 và 5 sẽ được sử dụng còn các ô chạy 2, 4 và 6 được để lại không dùng đến.

 

 

Điều 218

NHẢY CAO

 

1. Điều luật 180, 181 và 182 sẽ được áp dụng đối với nhảy cao ở sân vận động trong nhà cùng các ngoại lệ sau:

ĐƯỜNG CHẠY ĐÀ VÀ KHU VỰC GIẬM NHẢY

2. Khu vực giậm nhảy phải bằng phẵng với độ nghiêng tổng thể tối đa (lên hoặc xuống  là 1/250). Nếu sử dụng đệm mút có thể di chuyển được, tất cả những điều được đề cập trong điều luật đối với mặt bằng của khu vực giậm nhảy phải được lưu ý để độ cao của mặt trên đệm phù hợp.

Nền sàn mà trên đó bề mặt của khu vực giậm nhảy được gắn vào phải cứng hoặc nếu là cấu trúc treo (như là lát những miếng gỗ khớp với nhau) thì không được có bất kỳ độ nẩy nào đặc biệt.

  1. Đường chạy đà bên ngoài khu vực giậm nhảy phải ở mức ngang bằng và cũng không có độ đàn hồi như trong khu giậm nhảy. Tuy nhiên vận động viên có thể bắt đầu chạy đà trên mặt nghiêng của đường đua hình ô van miễn là 5m cuối cùng chạy tới phải ở mức ngang mức đường chạy đà.

 

 

Điều 219

NHẢY SÀO

 

1. Điều luật 180, 181,183 sẽ áp dụng đối với nhảy sào ở sân vận động trong nhà cùng với các ngoại lệ sau:

ĐƯỜNG CHẠY ĐÀ

2. Đường chạy đà phải rộng từ 1.22 - 1.25m và được đánh dấu rõ ràng.

3. Mặt nền mà trên đó bề mặt của khu vực giậm nhảy được gắn vào sẽ phải đặc hoặc nếu là cấu trúc treo (như là lát những miếng gỗ khớp nhau) thì không được có bất kỳ độ nảy nào đặc biệt.

4. Vận động viên có thể bắt đầu việc chạy đà của mình trên mặt nghiêng của đường vòng miễn là 40m cuối cùng phải ở mức ngang với đường chạy đà.

 

Điều 273

NHẢY XA VÀ NHẢY BA BƯỚC

 

1. Điều luật 180, 184, 185 và 186 sẽ áp dụng đối với nhảy xa và nhảy ba bước sân vận động trong nhà cùng với các ngoại lệ sau:

ĐƯỜNG CHẠY ĐÀ

2. Mặt nền trên đó bề mặt của đường chạy đà được gắn vào phải đặc hoặc, nếu là cấu trúc treo (như là lát những miếng gỗ khớp với nhau) thì không được có bất kỳ độ nẩy nào đặc biệt.

3. Vận động viên có thể bắt đầu việc chạy đà của mình trên mặt nghiêng của đường vòng miễn là 40m cuối cùng phải ở mức ngang với mặt đường chạy đà.

VÁN GIẬM NHẢY

4. Ván giậm nhảy phải đặt cách mép gần của khu vực rơi xuống tối thiểu là 3m.

KHU VỰC RƠI XUỐNG

5. Khu vực rơi xuống phải có chiều rộng 2,75m, độ dài tối thiểu 7m và độ sâu tối thiểu là 30cm.

 

Điều 281

ĐẨY TẠ

 

1. Điều luật 180, 187 và 188 được áp dụng cho đẩy tạ ở sân vận động trong nhà cùng với những ngoại lệ sau:

KHU VỰC TẠ RƠI

2. Khu vực tạ rơi xuống phải có một số vật liệu phù hợp để khi rơi tạ để lại dấu vết và có độ nẩy tới mức tối thiểu.

3. Khu vực rơi phải được bao bọc ở xa phía trước và hai bên sát với vòng đẩy như cần thiết để bảo vệ an toàn cho trọng tài và các vận động viên khác bằng một hàng rào chắn. Hàng rào này phải cản được tạ khi bay hoặc bật lên từ mặt đất.

4. Do không gian có giới hạn của sân vận động trong nhà, khu vực được bao quanh của rào chắn có thể không đủ rộng để chứa cả sân 34,92 độ. Các điều kiện sau đây phải áp dụng đối với bất kỳ sự hạn chế nào như vậy

(i) Rào chắn phía trước phải ở xa bên ngoài ít nhất 50 cm so với kỷ lục thế giới hiện hành của nam và nữ.

(ii) Các vạch kẻ sân ở cả hai bên phải gần như đối xứng với đường trung tâm của sân 34,92 độ.

(iii) Các vạch sân tại hai bên mà ở đó chúng không tạo thành phần của sân 34,92 độ có thể hoặc là chạy toả tròn ra từ tâm của vòng đẩy tạ trong cùng một cách như những vạch sân 34,92 độ hoặc có thể song song với nhau và song song với vạch trung tâm của vòng tròn 34,92 độ. Tại nơi các vạch sân song song, khoảng cách tối thiểu của 2 vạch sân song song phải là 9m.

CẤU TRÚC CỦA TẠ

5. Tuỳ thuộc vào chất liệu của khu vực tạ rơi (xem mục 2) tạ phải hoặc là kim loại cứng hoặc kim loại được bọc chất dẻo hoặc bọc cao su với độ bám chắc phù hợp. Trong cùng một cuộc thi chỉ được dùng thống nhất một loại tạ.

TẠ BẰNG KIM LOẠI CỨNG HOẶC ĐƯỢC BỌC KIM LOẠI

6. Điều này phải tuân theo điều luật 188.4 và  5 đối với đẩy tạ ở sân vận động ngoài trời.

TẠ ĐƯỢC BỌC CHẤT DẺO HOẶC CAO SU

7. Tạ phải được bọc chất dẻo hoặc cao su có độ bám phù hợp sao cho không bị hỏng khi rơi xuống sàn nhà tập bình thường. Tạ phải có hình cầu, bề mặt của tạ không được xù xì và phải nhẵn.

Tạ phải phù hợp với các tiêu chuẩn kỹ thuật sau:

 

Tạ                                                               Nam                                                      Nữ

Trọng lượng tối thiểu để được chấp nhận trong thi đấu và công nhận kỷ lục

7.260kg                                           4.000kg

 

Thông tin đối với hãng sản xuất

Phạm vi cung cấp tạ cho thi đấu

7.265kg

 

7.285kg

4.005kg

 

4.025kg

Đường kính tối thiểu

Đường kính tối đa

110mm

145mm

95mm

130mm

 

 

Điều 295

THI ĐẤU NHIỀU MÔN PHỐI HỢP

 

1. Điều luật 200 sẽ được áp dụng đối với các cuộc thi đấu nhiều môn phối hợp ở sân vận động trong nhà cùng những ngoại lệ sau:

NAM: (5 môn phối hợp)

2. 5 môn phối hợp sẽ được tiến hành thi đấu trong một ngày theo trình tự sau:

60m rào, nhảy xa, đẩy tạ, nhảy cao, chạy 1000m

NAM: (7 môn phối hợp)

3. 7 môn phối hợp sẽ được tiến hành thi đấu trong hai ngày liền nhau theo trình tự sau:

Ngày đầu: 60m, nhảy xa, đẩy tạ, nhảy cao

Ngày thứ hai: 60m rào, nhảy sào, chạy 1000m

NỮ (5 môn phối hợp)

4. 5 môn phối hợp sẽ được tiến hành thi đấu trong 1 ngày theo trình tự sau:

60m rào, nhảy cao, đẩy tạ, nhảy xa, chạy 800m

TRÌNH TỰ THI ĐẤU

5. Trình tự thi đấu phải được rút thăm trước mỗi môn thi.

Trong thi đấu chạy 60m và 60m rào, các vận động viên phải thi đấu từng nhóm theo quyết định của đại diện kỹ thuật. Tốt nhất là 4 hay nhiều hơn thành một nhóm song không bao giờ được ít hơn 3 vận động viên trong một nhóm.

 

VI - CÁC MÔN ĐI BỘ THỂ THAO

ĐIỀU 191

ĐI BỘ THỂ THAO

 

 ĐỊNH NGHĨA VỀ ĐI BỘ THỂ THAO

1.Đi bô thể thao là một quá trình di chuyển của các bước trong đó vận động viên luôn có sự tiếp xúc với mặt đất (mắt người bình thường không phát hiện thấy có thời điểm cả hai chân rời khỏi đất), chân trước phải được duỗi thẳng (có nghĩa là không cong ở khớp gối) từ lúc đặt xuống đất ở phía trước cho tới khi đi qua vị trí thẳng đứng (hình chiếu của trọng tâm rơi trên điểm đặt chân)

 TRỌNG TÀI GIÁM ĐỊNH

2.(a) Các trọng tài giám định được chỉ định sẽ bầu một tổ trưởng trọng tài giám định nếu như không có sự chỉ định trước. Trong các cuộc thi đấu được tiến hành theo điều luật 12.1 (a), (b), (c), (d) tổ trưởng trọng tài giám định chỉ có quyền loại một vận động viên từ tuyến đường tới sân vận động và ở trong sân vận động khi cuộc đua kết thúc trong sân vận động hoặc  trong 100m cuối cùng khi cuộc đua diễn ra chỉ trên đường chạy trong sân hoặc trong tuyến đường bộ, khi cách thức di chuyển của anh hay chị ta hiển nhiên có lỗi để áp dụng mục 1 ở trên, bất kể anh hay chị ta có bị cảnh cáo trước hay không.

(b) Tổ trưởng trọng tài giám định phải hành động như một quan chức giám sát cuộc thi đấu và chỉ hành động như một trọng tài giám định trong tình huống đặc thù được nói trong mục (a) ở trên trong các cuộc thi đấu theo Điều 12.1(a), (b), (c), (d) của IAAF. Trong các cuộc thi đấu áp dụng Điều 12.1 (a), (b),  và c của IAAF, tối đa hai trợ lý của tổ trưởng trọng tài giám định có thể được uỷ ban tổ chức địa phương chỉ định sau khi tham khảo ý kiến của tổ trưởng trọng tài giám định  và các dại diện kỹ thuật. Các trợ lỷ của tổ trưởng trọng tài giám định phải trợ giúp và chỉ thông báo về sự tước quyền thi đấu và không hành động như các trọng tài giám định thi đấu đi bộ.

(c) Tất cả các trọng tài giám định phải hành động theo khả năng cá nhân và ý kiến của họ phải dựa trên sự quan sát bằng mắt thường.

(d) Trong các cuộc thi đấu áp dụng điều luật 12.1 (a) của IAAF, tất cả các trọng tài giám định phải  là các trọng tài giám định đi bộ thể thao quốc tế. Trong các cuộc thi đấu theo luật 12.1 (b) và (c) của IAAF, tất cả các trọng tài giám định phải hoặc là trọng tài giám định đi bộ thể thao khu vực hoặc trọng tài giám định đi bộ thể thao quốc tế.

(e) Đối với các cuộc thi trên đường bộ, bình thường phải có tối thiểu 6 đến tối đa 9 trọng tài giám định ., bao gồm cả tổ trưởng trọng tài giám định .

(f) Đối với các cuộc thi trên đường chạy trong sân vận động, bình thường phải có 6 trọng tài giám định , bao gồm cả tổ trưởng trọng tài .

(g) Trong các cuộc thi đấu theo Điều 12.1 (a) của IAAF mỗi quốc gia chỉ được một trọng tài giám định . Trong các cuộc thi đấu theo Điều 12.1 (a), (b) và (c) của IAAF, một viên chức chịu trách nhiệm bảng báo cảnh cáo và một người ghi chép của tổ trưởng trọng tài giám định sẽ được uỷ ban tổ chức chỉ định sau khi tham khảo ý kiến trưởng trọng tài giám định và các đại diện kỹ thuật.

 NHẮC NHỞ

3. Các vận động viên bị nhắc nhở khi cách thức di chuyển về trước của họ có dấu hiện vi phạm mục 1 ở trên. Vận động viên sẽ không được quyền nhận sự nhắc nhở lần thứ hai của cùng một trọng tài giám định đối với cùng một lỗi vi phạm. Khi nhắc nhở một vận động viên, trọng tài giám định sẽ thông báo cho tổ trưởng trọng tài giám định về hành động của anh ta sau cuộc thi.

CẢNH CÁO VÀ TRUẤT QUYỀN THI ĐẤU

4 (a) Đề nghị truất quyền thi đấu của mỗi trọng tài giám định được coi là 1 lần cảnh cáo. Các vận động viên sẽ bị cảnh cáo khi cách thức di chuyển về trước của họ không tuân theo mục 1 ở trên do bị mất tiếp xúc rõ ràng với mặt đất hoặc cong khớp gối tại bất kỳ phần nào của cuộc thi.

(b) Khi một vận động viên nhận cảnh cáo từ 3 trọng tài giám định khác nhau thì vận động viên đó sẽ bị truất quyền thi đấu và tổ trưởng trọng tài giám định hoặc trợ lý của ông ta sẽ thông báo về sự truất quyền này.

(c) Trong tất cả các cuộc thi đấu do IAAF trực tiếp điều hành hoặc diễn ra theo sự cho phép của IAAF, không bao giờ được để hai trọng tài giám định của cùng một quốc gia có quyền hạn được truất quyền thi đấu.

(d) Nến không thể thực hiện được việc thông báo cho vận động viên về việc truất quyền thi đấu trong lúc thi thì việc truất quyền này phải được đưa ra ngay khi có thể sau khi vận động viên đó đã về đích.Trường hợp quên đưa ra lời khai báo nhanh sẽ không đưa đến sự phục hồi của vận động viên bị truất quyền.

(e) Một bảng màu vàng cùng biểu tượng lỗi vi phạm ở cả hai mặt sẽ được trưng ra cho vận động viên, khi đưa ra lời nhắc nhở. Một bảng đỏ tượng trưng cho sự truất quyền thi đấu của  vận động viên. Chỉ có tổ trưởng trọng tài giám định  được  sử dụng bảng đỏ để thông báo cho vận động viên về việc truất quyền thi đấu của họ. Các vận động viên cũng có thể được thông báo về sự việc truất quyền thi đấu của bởi người phó của tổ trưởng trọng tài giám định.

(f) Tại các cuộc thi ở đường chạy trong sân vận động, một vận động viên bị truất quyền thi đấu thì phải lập tức rời khỏi đường đua . Tại các cuộc thi trên đường bộ, sau khi phạm lỗi vận động viên sẽ phải lập tức cởi bỏ số đeo và rời khỏi lộ trình đua. Bất kỳ vận động viên bị truất quyền thi đấu nào quên không rời khỏi lộ trình đua hoặc đường đua phải chịu thêm kỷ luật theo Điều 53.1 (viii) của IAAF.

(g) Một  bảng thông báo việc cảnh cáo phải được đặt trên lộ trình và gần đích để thông tin cho vận động viên biết về số lần cảnh cáo đã được đưa ra với từng vận động viên.

(h) Đối với tất cả các cuộc thi đấu áp dụng Điều 12.1 (a) của IAAF, các thiết bị máy tính xách tay có khả năng dẫn truyền thông tin phải được các trọng tài giám định sử dụng để thông báo tất cả các lần cảnh cáo tới người ghi chép và bảng thông báo việc cảnh cáo.

XUẤT PHÁT

5. Các cuộc đua phải được bắt đầu bằng tiếng súng phát lệnh. Các lệnh và thủ tục tiến hành đối với các môn thi chạy cự ly dài trên 400m phải được sử dụng (xem Điều 162.3). Trong những cuộc đua có nhiều vận động viên tham gia, một thông báo vào chỗ 5 phút trước cuộc đua phải được đưa ra và nếu cần thiết thì thêm những lần thông báo nữa.

AN TOÀN VÀ Y TẾ

6. (a) Uỷ ban tổ chức và các cuộc thi đi bộ thể thao phải bảo đảm an toàn cho các vận động viên và các quan chức. Trong các cuộc thi đấu áp dụng Điều 12.1 (a), (b), và (c), Uỷ ban tổ chức phải đảm bảo rằng đường được sử dụng cho cuộc thi đấu phải được chặn ở các hướng đối với các phương tiện giao thông có động cơ.

(b). Trong các cuộc thi đấu áp dụng Điều 12.1 (a), (b), và (c) các nộ dung phải được bố trí để xuất phát và về đích khi trời còn sáng.

( c). Việc kiểm tra y tế trong quá trình thi đấu của nhân viên y tế được ban tổ chức chỉ định  sẽ không bị coi là một sự trợ giúp

(d) .Một vận động viên phải rời ngay khỏi cuộc đua nếu được lệnh phải làm như vậy của một thành viên của ban y tế chính thức được ban tổ chức chỉ định. Những thành viên của ban này phải được phân biệt rõ bằng băng tay, áo khoát hoặc trang phục tương tự.

CÁC TRẠM NƯỚC UỐNG, LAU RỬA VÀ ĂN NHẸ

7.(a) Nước và các đồ ăn nhẹ phù hợp khác phải được đặt tại khu vực xuất phát và về đích của tất cả các cuộc thi.

(b) Đối với tất cả các cự ly thi dưới 10 Km, các trạm uống nước, lau rửa phải được bố trí tại những khoảng cách phù hợp nếu như điều kiện thời tiết đòi hỏi phải như vậy.

(c) Đối với tất cả các cự ly thi đấu trên 10 Km, các trạm ăn nhẹ phải được bố trí ở mỗi vòng. Thêm vào đó các trạm uống nước lau rửa phải được bố trí xen kẽ giữa các trạm ăn nhẹ hoặc bố trí mau hơn nếu điều kiện thời tiết đòi hỏi.

(d). Thức ăn nhẹ có thể do uỷ ban tổ chức cung cấp hoặc do vận động viên chuẩn bị cần phải đặt tại các trạm mà sao cho dễ lấy hoặc có thể được những người có trách nhiệmđặt vào tay các vận động viên.

(e). Một vận động viên nhận thức ăn nhẹ ở vị trí khác với các trạm qui định tiếp thức ăn nhẹ sẽ bị truất quyền đấu

(f). Trong các cuộc thi đấuáp dụng Điều 12.1 (a), (b), và (c), không được quá hai quan chức của một nước được phép ở sau bàn đ thức ăn nhẹ tại bất kỳ thời điểm nào. Không bao giờ được phép chạy bên cạnh vận động viên trong khi anh ta đang nhận thức ăn nhẹ.

 CÁC TUYẾN ĐƯỜNG BỘ

8. (a)Đối với các cuộc thi đấu được áp dụng theo luật 12.1 (a), (b), (c) của IAAF, vòng đường không được dài quá 2,5km và không ngắn hơn 2km. Đối với các cự ly có xuất phát và về đích trong sân vận động, vòng đuờng phải được bố trí càng gần sân vận động càng tốt.

(b) Tuyến đường phải được đo theo Điều 240.3 của IAAF.

CÁCH XỬ LÝ

  1.       Trong những cự ly thi 20m hoặc dài hơn, một vận động viên có thể rời đường hoặc vòng đua với sự cho phép và dưới sự giám sát của một quan chức, miễn là khi đi ra khỏi tuyến đường, anh ta không làm giảm cự ly pjải vượt qua.
  2.   Thiết bị truyền tín hiệu vô tuyến: xem Điều 240.10.

 

CHƯƠNG VIII

CÁC CUỘC THI CHẠY TRÊN ĐƯỜNG BỘ

ĐIỀU 240

CÁC CUỘC THI CHẠY TRÊN ĐƯỜNG BỘ

1. Các cự ly chuẩn đối với nam và nữ là 10km, 15km, 20km, bán maratông, 25km, 30km, maratông (42,195km), 100km và chạy tiếp sức trên đường bộ.

Ghi chú 1: Chạy tiếp sức trên đường bộ là chạy qua cự ly maratông, tốt nhất là qua tuyến đường vòng 5km với các đoạn chạy 5km, 10km, 5km, 10km, 5km, 7,195km. Đối với các vận động viên trẻ, cự ly tiếp sức trên đường bộ phù hợp là bán maratông với các đoạn 5km; 5km; 5km, 6,098km.

Ghi chú 2. Các cuộc thi trên đường bộ nên tổ chức vào tháng 4 hoặc tháng 5 hoặc từ tháng 9 đến tháng 11

2. Các cuộc thi phải tiến hành trên đường bộ (do con người làm). Tuy nhiên, khi mà việc giao thông hoặc các hoàn cảnh tương tự gây trở ngại thì tuyến đường đua có thể được đánh dấu một cách tương ứng trên đường dành cho xe đạp hoặc đi bộ dọc theo đường bộ, song được chạy trên đất mềm như cỏ hoặc tương tư. Vị trí xuất phát và về đích có thể đặt trong sân đấu điền kinh.

Ghi chú 1: Đối với các cuộc đua trên đường bộ được tiến hành qua những cự ly chuẩn thì các vị trí xuất phát và về đích không nên cách xa nhau quá 50% cự ly đua (khoảng cách từ vị trí xuất phát tới đích được đo theo một đường thẳng giữa chúng).

3. Xuất phát và về đích của cuộc đua phải đựoc đánh dấu bằng một vạch trắng rộng tối thiểu 5cm. trong các cự ly đua trên đường bộ, đường đua phải được đo theo lộ trình ngắn nhất mà vận động viên có thể chạy trong phần đường được phép sử dụng để chạy.

Trong tất cả các cuộc thi, Theo luật 12.1 (a) và có thể  (b) và (c), việc đo lường phải được đánh dấu dọc theo tuyến đua bằng một màu dễ phân biệt để không bị lầm với các dấu khác.

3. Trong các cự ly đua trên đường bộ, đường đua sẽ được đo theo lộ trình ngắn nhất mà vận động viên có thể chạy trong phần đường được phép sử dụng để chạy.

Độ dài của tuyến đua không được ngắn hơn so với cự ly chính thức của môn thi. Trong các cuộc thi, theo luật 12.1 (a), (b), (c) và trong những cuộc thi đước IAAF ( Hiệp hội quốc tế các Liên đoàn điền kinh ) trực tiếp thừa nhận, sai số trong khi đo không được vượt quá 0,1% (có nghĩa là 42m đối với chạy maratông) và độ dài của đường đua phải được xác nhận trước của một nhân viên đo đạt được IAAF chấp nhận.

Ghi chú 1: Khi đo nên áp dụng " phương pháp đo bằng xe đạp được định cỡ"

Ghi chú 2: Để phòng ngừa tuyến đường bị ngắn trong lần đo lại sau, nên có "nhân tố phòng ngừa tuyến đường ngắn" khi bố trí tuyến đường. Đối với cách đo bằng xe đạp, nhân tố này là 0,1%, điều này có nghĩa là mỗi kilômét trên tuyến đường sẽ có "độ dài được đo" là 1001m.

Ghi chú 3: Nếu dự định làm rõ các phần của tuyến đường trong ngày đua bằng cách sử dụng những vật mốc, hàng rào tạm thời thì việc bố trí chúng sẽ được quyết định không chậm hơn so với thời gian đo và tài liệu về các quyết định như vậy sẽ được đưa vào trong báo cáo đo đạc.

Ghi chú 4: Đối với các cuộc đua trên đường bộ trên các cự ly chuẩn, việc giảm độ cao giữa vị trí xuất phát và về đích không được vượt quá 1/1000, có nghĩa là 1m đối với 1km

4. Cự ly gồm các kilômét trên đường phải được trình bày cho tất cả các vận động viên.

5. Đối với các cuộc đua tiếp sức trên đường bộ, các vạch kẻ rộng 5cm phải được vẽ ngang qua đường để đánh dấu cự ly của mỗi đoạn và biểu thi vạch xuất phát. Các vạch tương tự như vậy, sẽ được kẻ ở 10m phía trước và 10m phía sau vạch xuất phát để biểu thị vùng trao gậy. Toàn bộ các thủ tục trao gậy phải được thực hiện bên trong vùng này.

XUẤT PHÁT

6. Các cuộc thi phải xuất phát theo súng phát lệnh. Các lệnh xuất phát và thủ tục tiến hành trong thi chạy cự ly dài hơn 400m phải được sử dụng (xem Điều 162.3). Trong những cuộc  thi có số lượng lớn vận động viên tham gia thì trước khi xuất phát 5 phút sẽ có thông báo và nếu cần thiết thì có thêm các lần thông báo nữa.

AN TOÀN VÀ Y HỌC

7 (a). Ban tổ chức các cuộc đua trên đường bộ phải đảm bảo về sự an toàn của các vận động viên và quan chức. Trong các cuộc thi đấu, theo điều luật 12.1 (a), (b) và (c), ban tổ chức phải đảm bảo là tuyến đường sử dụng cho thi đấu được chặn ở tất cả các hướng đối với xe cơ giới .

(b) Một sự trợ giúp về kiểm tra y học trong quá trình một môn thi do một nhân viên y tế được ban tổ chức chỉ sẽ không bị coi là sự giúp đỡ.

( c) Một vận động viên sẽ phải rời bỏ lập tức khỏi cuộc đua nếu một thành viên của ban y học do ban tổ chức chỉ định ra lệnh cho anh ta phải làm như vậy. Thành viên của Ban y học này được nhận ra dễ dàng thông qua các băng tay, áo gilê hoặc trang phục bên ngoài dễ phân biệt.

CÁC TRẠM UỐNG NƯỚC, LAU RỬA VÀ ĂN NHẸ

8(a) Nước và các đồ ăn nhẹ phù hợp khác phải được đặt tại khu xuất phát và về đích của tất cả các cuộc đua.

(b) Đối với các môn thi dưới 10km, nước uống và lau rửa phải được cung cấp ở những khoảng cách phù hợp ( vào khoảng 2-3Km) nếu như điều kiện thời tiết đòi hỏi phải như vậy.

(c) Đối với các môn thi trên 10km , các trạm cung cấp thức ăn nhẹ phải được bố trí ở những điểm cách nhau khoảng 5km và thêm vào đó các trạm cung cấp nước uống, nước rửa phải được bố trí xen kẽ giữa các trạm cung cấp thức ăn nhẹ. Những trạm này có thể nhiều hơn nếu điều kiện thời tiết đòi hỏi.

Thức ăn nhẹ có thể do ban tổ chức cung cấp hoặc do vận động viên chuẩn bị và chúng được đặt tại các trạm do các vận động viên yêu cầu . Cần đặt ở vị trí thuận tiện để vận động viên để lấy hoặc dùng những người có trách nhiệm trao vào tay các vận động viên.

Vận động viên nhận thức ăn nhẹ ở vị trí khác với các trạm qui định tiếp thức ăn nhẹ sẽ bị mất quyền thi đấu.

Thức ăn nhẹ do vận động viên đưa đến phải chịu sự giám sát của các nhân viên do ban tổ chức chỉ định từ lúc các đồ ăn nhẹ này được vận động viên hoặc người đại diện của họ đặt vào

9.Trong các cuộc đua trên đường bộ, một vận động viên có thể rời đường hoặc đường chạy với sự cho phép và giám sát của một trọng tài giám định miễn là việc rời khỏi tuyến đường đua không làm cho cự ly phải vượt qua bị ngắn lại.

10.Việc sử dụng hệ thống tính thời gian phát-đáp trong các cuộc thi đấu  trên đường bộ được thực hiện theo luật 12.1 (f), (g), và (h) là được phép miễn là:

(a) Hệ thống này không phụ thuộc vào sự hoạt động của vận động viên trong cuộc thi, tại vạch đích hay trong bất kỳ đường đích hoặc các kết quả có quan hệ với hệ thống hoặc tiến trình.

(b) Độ phân giải là 0,1 giây ( có nghĩa là có thể phân biệt các vận động viên về đích cách nhau 0,1 giây).

( c) Trọng lượng của bộ phận phát-đáp và việc cài đặt nó trên trang phục số đeo, giầy của vận động viên là không đáng kể.

(d)Không có thiết bị nào được dùng tại chỗ xuất phát, dọc theo tuyến đua hoặc tại vạch đích tạo ra trở ngại đáng kể hoặc cản trở tới quá trình thi của các vận động viên .

(e) Hệ thống bao gồm dụng cụ và những đặc điểm kỹ thuật của chúng phải được Uỷ ban kỹ thật của IAAF thừa nhận.

(f) Hệ thống bắt đầu hoạt động theo tín hiệu xuất phát hoặc các thiết bị phát lệnh tương ứng.

(g)  Việc quyết định thời gian thắng cuộc chính thức phải tuân theo Điều luật 165.

Ghi chú: Đối với các cuộc thi chạy và các môn đi bộ thể thao trên đường bộ, thời gian chính thức sẽ là thời gian trôi qua giữa tín hiệu xuất phát của súng phát lệnh và thời điểm vận động viện chạm vạch đích, thời gian trôi qua từ lúc một vận động viên rời vạch xuất phát tới vạch đích có thể tính được cho vận động viện này song sẽ không được coi như thời gian chính thức. Thứ tự các vận động viên chạm vạch đích sẽ được coi như vị trí về đích chính thức.

CHƯƠNG IX

CHẠY BĂNG ĐỒNG

ĐIỀU 250

THI ĐẤU CHẠY VIỆT DÃ BĂNG ĐỒNG

 

Điều 167

THI CHẠY VIỆT DÃ TRÊN ĐỊA HÌNH TỰ NHIÊN

PHẦN CHUNG

1. Dẫu biết rằng do sự rất khác nhau về các điều kiện tổ chức thi đấu tại các địa điểm trên thế giới và những khó khăn trong việc xây dựng luật tiêu chuẩn hoá cho môn thể thao này, điều phải chấp nhận là sự khác nhau giữa những lần lần tổ chức thi rất thành công và thất bại thường phụ thuộc vào các đặc điểm tự nhiên của vị triư và các khả năng của người thiết kế tuyến đua.

Tuy vậy, các điều luật dưới đây nhằm hướng dẫn và động viên để giúp các quốc gia phát triển môn chạy việt dã trên địa hình tự nhiên.Xem sách hướng dẫn chạy cự ly dài của IAAF để có thêm thông tin về cách tổ chức.

MÙA THI

2. Mùa thi đấu chạy việt dã trên địa hình tự nhiên thường diễn ra trong suốt các tháng mùa đông.

ĐỊA ĐIỂM

3.(a) Tuyến đường phải được thiết kế trên một khu vực thoáng hoặc vùng đất có cây rừng được phủ cỏ càng nhiều càng tốt, với các chướng ngại vật tự nhiên. Người thiết kế tuyến đường có thể sử dụng các vật chướng ngại tự nhiên để xây dựng một tuyến đường đua có tính thách thức và hấp dẫn.

(b) Khu vực phải đủ rộng để không chỉ chứa được tuyến đường mà cả các tiện nghi cần thiết.

VIỆC THIẾT KẾ TUYẾN ĐƯỜNG ĐUA

4. Đối với các cuộc thi vô địch quốc tế và đối với các cuộc thi khác ở những nơi có điều kiện:

(a) Tuyến đường có hình vòng phải được thiết kế với vòng có độ dài 1.750m và 2000m. Nếu cần thiết thì một vòng nhỏ có thể được thêm vào để đạt đúng cự ly đòi hỏi. Trong trường hợp này, vòng nhỏ phải được chạy ở những chặng đầu của cuộc thi. Mỗi một vòng lớn phải có một đoạn dốc lên ít nhất 10m.

(b) Các vật chướng ngại tự nhiên nếu có thể phải được sử dụng, tuy nhiên, các chướng ngại vật rất cao thì nên tránh như các rãnh sâu, các đoạn dốc lên,dốc xuống nguy hiểm, đường ngầm dày đặc và nói chung, bất kỳ vật chướng ngại nào tạo nên khó khăn vượt ra ngoài mục đích cuộc thi. Tốt nhất là không nên sử dụng các vật chướng ngại nhân tạo, song nếu điều kiện để khắc phục vấn đề này là không thể thì chúng phải được làm giống với các vật chưỡng ngại tự nhiên. Trong các cuộc đua có vận động viên tham gia, các khe hẹp hoặc những vật chưỡng ngại khác gây cản trở cho việc chạy của vận động viên thì cần tránh ở khoảng 1.500m đầu tiên.

(c) Phải tránh các đường giao nhau hoặc bất kỳ đường có mặt trên phủ đá dăm hoặc ít nhất phải để ở mức tối thiểu. Khi không thể tránh khỏi các điều kiện như vậy thì ở một hoặc hai khu vực của tuyến đường phải phủ cỏ, đất hoặc thảm.

(d) Ngoài khu vực xuất phát và về đích, tuyến đường không được có bất kỳ đoạn thẳng dài nào khác. Một tuyến đường “tự nhiên”, nhấp nhô với các đoạn đường cong không khó và các đoạn đường thẳng ngắn là phù hợp nhất.

LỘ TRÌNH ĐUA

5.(a) Lộ trình đua phải được đánh đấu rõ ràng bằng băng ở cả hai bên. Dọc theo toàn bộ một bên lộ trình đua nên có hành lang rộng 1m được rào chắc từ bên ngoài của tuyến đường, nhằm dành cho các nhân viên y tế và tổ chức sử dụng (bắt buộc đối với ác cuộc thi vô địch). Những khu vực quan trọng phải được rào chắc xung quanh, cụ thẻ là khu vực xuất phát bao gồm cả vùng giáp ranh. Chỉ những người có trách nhiệm mới được phép đi vào khu vực này.

(b) Công chúng chỉ được phép đi ngang qua tuyến đường đua ở những chặng đầu của cuộc thi tại các điểm được bố trí để đi qua tốt, do thành viên ban tổ chức hướng dẫn.

( c) Ngoài khu vực xuất phát và về đích, tuyến đường nên có độ rộng khoảng 5m, bao gồm cả khu vực có chướng ngại vật.

CÁC CỰ LY

6. Các cự ly thi tại các giải vô địch đồng đội chạy về chạy việt dã trên địa hình tự nhiên của  IAAF phải là:

Tuyến đua dài của nam 12 km Tuyến đua ngắn của nam 4km

Nam trẻ 8 km

Tuyến đua dài của nữ 8 km Tuyến đua ngắn của nữ 4 km

Nữ trẻ 6 km

Các cự ly tương tự được dùng cho các cuộc thi đấu quốc gia và quốc tế khác.

XUẤT PHÁT

  1.   Các cuộc đua phải được bắt đầu bằng tiếng súng phát lệnh. Các mệnh lệnhvà thủ tục tiến hành đối với các môn thi cự ly trên 400m phải được áp dụng (xem Điều 162.3). Trong các cuộc thi quốc tế 5 phút, 3 phút, 1 phút trước xuất phát các thông báo vào chỗ phải được đưa ra .

Khu  vực xuất phát phải được bố trí và các thành viên của mỗi đội phải xếp hàng dọc người nọ sau người kia tại chỗ xuất phát của cuộc đua.

CÁC TRẠM UỐNG NƯỚC, LAU RỬA VÀ ĂN NHẸ

  1.   Nước và các thức ăn nhẹ phù hợp khác phải được cung cấp tại chỗ xuất phát và về đích của tất cả các cuộc đua. Đối với tất cả các cự ly, các trạm tiếp nước, lau rửa phải được bố trí ở mỗi vòng nếu điều kiện thời tiết đòi hỏi như vậy.

CÁC CUỘC ĐUA TRÊN NÚI

9. Các cuộc đua trên núi diễn ra ngang qua địa hình tự nhiên và chủ yếu bên ngoài đường bộ   và bao gồm một số lượng đáng kể các dốc lên (đối với các cuộc đua "chủ yếu là chạy lên dốc" hoặc chạy lên và xuống dốc (đối với các cuộc đua xuất phát và về đích ở cùng một độ cao).

Cự ly và tổng số độ dài dốc tương dối phù hợp  với các cuộc đua quốc tế là:

 

Đua chủ yếu lên dốc

Xuất phát và về đích ở cùng một độ cao như nhau

 

Cự ly

Dốc

Cự ly

Cự ly

Nam trưởng thành

12km

1200m

12km

700m

Nữ trưởng thành

7km

550m

7km

400m

Nam trẻ

7km

550m

7km

400m

 

 

Có thể có đoạn chạy trên đường nhựa song không được quá 20% cự ly đua. Tiến trình đua có thể khép thành 1 vòng.

CHƯƠNG X

CÁC KỶ LỤC THẾ GIỚI

ĐIỀU 260

CÁC KỶ LỤC THẾ GIỚI

CÁC QUY ĐỊNH CHUNG

1. Kỷ lục phải được lập trong một cuộc thi đấu trung thực đã được sắp xếp chính thức, được thông báo và được thành viên của IAAF, nơi diễn ra môn thi chấp thuận, và được tiến hành theo đúng luật của IAAF.

2. Vận động viên khi đạt được kỷ lục phải có đủ tư cách thi đấu theo luật của IAAF và thuộc quyền quản lý hợp pháp của một nước thành viên thuộc IAAF.

3. Khi một kỷ lục thế giới được lập bởi một vận động  hoặc một đội thì thành viên của IAAF ở nước mà tại đó thành tích kỷ lục được lập phải thu thập ngay tất cả những thông tin cần thiết để được IAAF phê chuẩn. Không một thành tích nào được coi là kỷ lục thế giới khi chưa được IAAF phê chuẩn

Thành viên này phải thông báo ngay cho IAAF về dự điịnh đệ trình  thành tích đó.

4. Biểu mẫu về đơn từ qui định của IAAF phải được điền đầy đủ các mục và phải được gởi tới Văn phòng IAAF trong vòng 30 ngày. Các mẫu đơn được in sẵn sẽ được văn phòng IAAFcung cấp khi có yêu cầu. Nếu đơn có liên quan đến một vận động viên nước ngoài hay một đội nước ngoài thì phải gửi hai bộ đơn trong cùng một thời gian tới Liên đoàn  thành viên của vận động viên hoặc đội đó. .

5. Thành viên của nước, nơi mà kỷ lục đã được lập phải gửi đơn chính thức cùng với:

a) Chương trình thi đấu được in sẵn;

b) Các kết quả tổng hợp của môn thi

c) Các bức ảnh đích ( xem Điều 260.22).

6. Vận động viên đạt kỷ lục thế giới phải được triệu tập để kiểm tra Doping vào lúc kết thúc môn thi theo đúng những điều luật có hiệu lực hiện hành của IAAF. Trong trường hợp có kỷ lục về môn tiếp sức thì tất cả các thành viên của đội tiếp sức đó phải được xét nghiệm.

Kết quả của xét nghiệm này phải do một phòng thí nghiệm đã được IOC chính thức công nhận giao nộp cho IAAF để bổ sung vào những thông tin cần thiết khác do IAAF yêu cầu đối với việc công nhận kỷ lục này. Nếu kết quả thử nghiệm này là dương tính hoặc test không theo hướng dẫn thì IAAF sẽ không công nhận kỷ lục đó.

7. Trường hợp một vận động viên đã thú nhận rằng, tại một thời gian nào đó trước khi lập được kỷ lục thế giới đã dùng, hoặc đã lạm dụng một chất, hoặc một phương pháp đã bị cấm, khi đó, Chiểu theo ý kiến của Uỷ ban chuyên trách về vấn đề doping, kỷ lục đó sẽ không được IAAF tiếp tục công nhận là kỷ lục thế giới nữa.

Các hệ thống phân cấp kỷ lục thế giới sau đây phải do IAAF công nhận.

Các kỷ lục thế giới

Các kỷ lục trẻ thế giới

Các kỷ lục thế giới ở sân vận động trong nhà

9. Đối với môn thi cá nhân thì ít nhất phải có 3 vận động viên tham gia thi đấu và đối với các mônthi tiếp sức thì ít nhất phải có 2 đội tham gia cuộc thi.

10. Kỷ lục phải tốt hơn hay ngang bằng với kỷ lục thế giới hiện hành đối với môn thi đó như đã được sự công nhận của IAAF.

11. Những kỷ lục lập được trong các đợt chạy hoặc các cuộc đấu loại, trong những lần thi đấu phân định vị trí xếp hạng giữa những vận động viên có thành tích ngang nhau và trong những nội dung cá nhân tại những cuộc thi đấu nhiều môn phối hợp thì bất kể vận động viên đó có thi đấu toàn bộ cuộc thi đấu nhiều môn phối hợp đó hay không đều có thể được trình lên để công nhận.

12. Chủ tịch và Tổng thư ký của IAAF cũng có thẩm quyền thừa nhận các kỷ lục thế giới. Nếu họ có bất cứ nghi ngờ nào về việc kỷ lục có được thừa nhận hay không, trường hợp này sẽ được chuyển tới Hội đồng để quyết định.

13 .Khi một kỷ lục thế giới được phê chuẩn, IAAF sẽ thông báo điều này cho Liên đoàn thành viên có vận động viên đó, Liên đoàn yêu cầu công nhận kỷ lục và hiệp hội khu vực liên quan.

14. IAAF sẽ cung cấp các huy chương kỷ lục thể giới đ trao tặng cho những người giữ kỷ lục thể giới .

15. Nếu kỷ lục không được công nhận, IAAF sẽ đưa ra những lý do giải thích.

16. IAAF cập nhật danh sách chính thức các kỷ lục thể giới mỗi khi có một kỷ lục thể giới mới được phê chuẩn. Danh sách này phải trình bày các thành tíc mà IAAF coi là thành tích tốt nhất do một vận động viên hoặc đội của các vận động viên đạt được trong mỗi môn thi được công nhận đã được liệt kê trong các Điều 261-262 và 263.

17. IAAF phải công bố danh sách này vào ngày 1 tháng giêng hàng năm.

18. Trừ các môn thi trên đường cái nhựa:

a.Các kỷ lục thế giới phải được lập tại một sân thi đấu điền kinh có hoặc không có mái che phù hợp với Điều luật 140. Đường chạy hoặc đường chạy đà phải được lắp đặt trên một nền cứng.

b. Đối với bất kỳ kỷ lục ở cự ly 200m hoặc dài hơn, để được thừa nhận, thì đường đua trong đó môn thi được tổ chức, không được vượt quá 402,3m (440 yards) và cuộc đua phải xuất phát trên một số phần của vòng đua. Sự hạn chế này không áp đụng đối với các môn thi chạy vượt chướng ngại vật, tại đó rào và hố nước được đặt bên ngoài vòng đua 400m thông thường.

c.  Kỷ lục phải được lập trên vòng đua có bán kính ô chạy bên ngoài không vượt quá 50m, ngoại trừ trường hợp đường vòng được tạo bởi hai bán kính khác nhau. Trong trường hợp này cung dài hơn không được lớn hơn 60o so với đường vòng 180o.

d. Tất cả những thành tích do một vận động viên lập được trong một cuộc thi đấu lẫn lộn (thi đấu cả nam và nữ lẫn lộn) đều không được công nhận.

19. Các kỷ lục thi đấu ngoài trời chỉ được lập trên đường đua phù hợp với quy định tại Điều 160.

20. Đối với các kỷ lục trẻ thế giới, trừ trường hợp ngày tháng, năm sinh của vận động viên đã được IAAF khẳng định từ trước thì hồ sơ đầu tiên nhân danh vận động viên đó phải có một bản sao hộ chiếu của vận động viên, giấy khai sinh hoặc các tài liệu, giấy tờ, chính thức tương tự khẳng định ngày, tháng năm sinh của vận động viên.

21. Đối với các kỷ lục thế giới ở các môn thi đấu trong nhà.

a. Kỷ lục đó phải được lập trên một sân đảm bảo quy định tại Điều 211 và 213.

b. Đối với các môn thi 200m và dài hơn, đường chạy ovan không được phép có độ dài lớn hơn 201,2m ( 200 yard).

22. Các kỷ lục ở môn chạy và  đi bộ thể thao phải tuân thủ các điều kiện về đo thời gian như sau:

a.  Các kỷ lục chạy và đi bộ phải được xác định thời gian bởi các trọng tài bấm giờ chính thức hoặc bởi một thiết bị đo thời gian  có chụp ảnh đích hoàn toàn tự động (xem Điều luật 165).

b. Đối với các cuộc thi dưới và tới 400m, thì các thành tích được xác định thời gian bằng thiết bị đo thời gian có chụp ảnh đích  hoàn toàn tự động phù hợp với Điều luật 165 mới được chấp nhận, bao gồm cả hệ thống Video.

c. Ảnh về đích trong trường hợp lập kỷ lục ở các môn chạy mà ở đó có sử dụng thiết bị đo thời gian tự động hoàn toàn phải được đưa vào hồ sơ để gửi tới IAAF.

d. Đối với tất cả các kỷ lục ở cự ly dưới và tới 200m, thông tin về tốc độ gió được đo như đã nêu trong Điều 163, 8, 9 và 10  phải được đệ trình. Nếu tốc độ gió trung bình được đo theo hướng chạy quá 2m/giây, kỷ lục sẽ không được công nhận.

e. Trong một cuộc đua chạy theo ô riêng, kỷ lục sẽ không được công nhận nếu vận động viên đã chạy trên vạch hoặc trong vạch giới hạn đường cong phía trong của ô chạy của mình.

f. Các thời gian phản ứng, khi có thể, phải được cung cấp trong tất cả các cuộc đua mà tại đó việc xuất phát thấp và sử dụng bàn đạp xuất phát là bắt buộc.

23. Đối với các cuộc đua vượt qua quãng đường có nhiều cự ly thành phần.

a.  Một cuộc đua phải được thông báo là vượt qua chỉ một cự ly .

b. Tuy nhiên, một cuộc thi chạy trong một thời gian cố định có thể được kết hợp với cuộc thi chạy vượt qua một cự ly nhất định (Thí dụ thi trong 1 giờ và thi 20.000m, xem điều luật 164.4) .

c. Được phép cho cùng một vận động viên đạt được trong cùng một cuộc đua một số lượng kỷ lục nào đó.

d. Được phép cho một vài vận động viên đạt được các kỷ lục khác nhau trong cùng một cuộc đua.

e. Tuy nhiên, không được phép cho một vận động viên được công nhận kỷ lục tại một cự ly ngắn hơn nếu không hoàn thành toàn bộ cự ly thi của cuộc đua đó.

24. Đối với các kỷ lục thế giới trong các môn tiếp sức.

a. Một kỷ lục tiếp sức chỉ được lập bởi một đội nếu tất cả thành viên của đội đó là công dân của một nước thành viên. Quyền công dân được đề cập trong Điều luật 12.10.

b. Theo tinh thần Điều luật này một thuộc địa không phải là thành viên độc lập của IAAF sẽ được coi như một bộ phận của "Nước mẹ".

c. Thời gian mà người chạy đầu tiên trong một đội tiếp sức đạt được không được coi như một kỷ lục.

25.  Đối với các kỷ lục thế giới về đi bộ thể thao.

Ít nhất phải có 2 trọng tài giám định của ban trọng tài giám định đi bộ thể thao quốc tế của IAAF hoặc cấp khu vực tham gia trong quá trình thi và ký vào văn bản.

26.  Kỷ lục trong các môn nhảy và ném đẩy:

a. Các mức thành tích phải được đo hoặc bởi 3 trọng tài giám định khi sử dụng thước thép hoặc thước thẳng có chia đơn vị được công nhận hoặc bởi một thiết bị đo chuyên dụng mà độ chính xác của chúng được một trọng tài giám định đo lường khẳng định.

(b) Trong nhảy xa và nhảy tam cấp, thông tin về tốc độ gió được đo theo chỉ dẫn của Điều luật 184.4,5 và 6 phải được đệ trình. Nếu tốc độ gió được đo theo hướng nhảy của vận động viên trung bình lớn 2m/giây, kỷ lục đó sẽ không được công nhận.

(c) Trong các cuộc .thi đấu nhảy và ném đẩy, số lượt các kỷ lục thế giới có thể được ghi nhận nhiều hơn 1 thành tích trong một cuộc thi, miễn là mỗi một kỷ lục được ghi nhận như vậy phải bằng hoặc hơn thành tích tốt nhất trước đó tại thời điểm đó.

27. .  Đối với các kỷ lục thế giới trong nhiều môn phối hợp.

Các điều kiện bắt buộc để thừa nhận một kỷ lục nhiều môn phối hợp phải theo trong từng môn riêng, ngoại trừ việc trong các môn mà ở đó tốc độ gió được đo thì ít nhất một trong những điều kiện sau đây phải được thoả mãn.

  1. Tốc độ gió trong bất kỳ môn riêng nào không được vượt quá 4m/giây.
  2. Tốc độ trung bình ( dựa vào tổng tốc độ gió khi đo đối với từng môn riêng, chia cho số môn đó phải không được vượt quá 2m/giây).

28. Đối với các kỷ lục thế giới về các môn thi đấu trên đường bộ.

a. Quãng đường đua phải được một trọng tài quốc tế hạng A hoặc B C

b. Khoảng cách được đo theo đường thẳng giữa điểm xuất phát và đích phải không được cách xa nhau quá 50% của cự ly thi đấu.

c. Việc giảm độ cao giữa vị trí xuất phát và về đích không được vượt quá 1/1000, nghĩa là 1m/km.

d. Phải là trọng tài đo lường-người đã xác nhận quãng đường hoặc là một trọng tài đo lường khác có chứng chỉ “A” hoặc “B” đang có bản đồ và các số liệu đo lường hoàn chỉnh xác nhận quãng đường đã được đo chính là quãng đường  đã chạy qua khi ngồi trên phương tiện dẫn đường.

e. Quãng đường đua phải được xác nhận tại chỗ ( nghĩa là, trong vòng 2 tuần trước, trong ngày thi đấu , hoặc ngay sau cuộc đua), tốt nhất là do một người trọng tài đo đường có chứng chỉ “A” hoặc “B” khác chứ không phải người đã đo đạc ban đầu xác nhận.

f. Các kỷ lục thế giới về các môn thi đấu trên đường bộ được lập ở các cự ly giữa trong một cuộc đua phải hoàn toàn phù hợp với các quy định tại Điều 260 và được đo thời gian theo đúng luật của IAAF. Các cự ly giữa phải chính thức được đo và đánh dấu trong khi tiến hành đo quãng đường đua.

g. Đối với các môn tiếp sức trên đường bộ, cuộc đua nên phân theo các chặng đường 5km, 10km, 5km, 7,195km.

29. . Đối với các kỷ lục về đi bộ thể thao trên đường bộ.

a. Quãng đường phải được một trọng tài quốc tế ( hạng A hoặc B) về đo lường của IAAF/ÁIM đo đạc theo quy định tai Điều 117 của luật này.

b. Chu vi của vòng đua không được ngắn hơn 2km và không được dài hơn 2,5km, có phần xuất phát và về đích ở trong sân vận động.

c. Phải có trọng tài đo lường-người đã xác nhận quãng đường hoặc là trọng tài đo lường khác có cjứng chỉ A hoặc B đang giữ các bản đồ và các số liệu đo lường hoàn chỉnh xác nhận chính quãng đường được đo là quãng đường họ đã đi hết từ đầu đến cuối.

d. Quãng đường đua phải được xác nhận tại chỗ ( tức là, trong vòng 2 tuần trước, trong ngày thi đấu, hoặc ngay sau cuộc đua) tốt nhất là do một trọng tài đo lường có chứng chỉ A hoặc b khác chứ không phải trọng tài đã đo đạc ban đầu xác nhận.

Ghi chú : Các tổ chức điều hành quốc gia và các Hiệp hội khu vực nên sử dụng các Điều luật tương tự ở trên đối với việc thừa nhận các kỷ lục riêng của mình.

 

ĐIỀU 261

CÁC MÔN THI ĐƯỢC CÔNG NHẬN CÓ KỶ LỤC THẾ GIỚI CHÍNH THỨC

-Thành tích được xác định thời gian bằng đồng hồ điện tử hoàn toàn tự động (E.T).

-Thành tích được xác định thời gian bằng đồng hồ bấm tay (H.T).

Nam 

E.T chỉ với các cự ly : 100m; 200m; 400m; 110m rào; 400m rào;

Tiếp sức: 4 x 100m

E.T hoặc H.T với các cự ly : 800m; 1000m: 1500m; 1 dặm; 2000m ; 3000m ; 5000m ;10.000m ; 20.000m ; 1 giờ ; 25.000m ; 30.000m; 3000m vượt chướng ngại vật.

 

Tiếp sức: 4x200m: 4x400m; 4x800m; 4x1500m

Các môn đua trên đường bộ : 10km, 15km, 20km, bán marathon, 25km, 30km, Marathon, 100km, tiếp sức trên đường bộ ( chỉ ở cự ly Marathon).

Đi bộ thể thao ( trong sân vận động) 20.000m, 30.000m, 50.000m

Các môn nhảy: Nhảy cao; nhảy sào; nhảy xa; nhảy ba bước.

Các môn ném đẩy: Đẩy tạ; ném đĩa; ném tạ xích; ném lao.

Nhiều môn phối hợp: 10 môn phối hợp.

Nữ

E.T chỉ với các cự ly: 100m; 200m; 400m; 100m rào; 400m rào.

Tiếp sức: 4x100m

E.T hoặc H.T                      800m; 1000m; 1500m; 1 dặm

với các cự ly:                     2000m; 3000m; 5000m; 10.000m; 20.000m; 1 giờ:

25.000m; 30.000m; 3000m vượt chướng ngại vật

Tiếp sức:                              4x200m; 4x400m; 4x800m;

Các môn đua trên đường bộ : 10km, 15km, 20km, bán Marathon, 25km, 30km, Marathon, 100km, tiếp sức trên đường bộ ( chỉ có cự ly Marathon)

Đi bộ thể thao (trong sân vận động) :

10.000m, 20.000m

( trên đường bộ) : 20km.

Các môn nhảy: Nhảy cao; nhảy sào; nhảy xa; nhảy ba bước.

Các môn ném đẩy: Đẩy tạ; ném đĩa; ném tạ xích; ném lao.

Nhiều môn phối hợp: 7 môn phối hợp ; 10 môn phối hợp* ( chỉ được công nhận khi vượt qua trên 8000 điểm).

ĐIỀU 262

CÁC MÔN THI ĐƯỢC CÔNG NHẬN

CÓ KỶ LỤC TRẺ THẾ GIỚI CHÍNH THỨC

Thành tích được xác định thời gian bằng đồng hồ điện tử hoàn toàn tự động (E.T).

Thành tích được xác định bằng đồng hồ bấm tay (H.T)

Nam trẻ

E.T chỉ với các cự ly: 100m; 200m; 400m; 110m rào; 400m rào;

Tiếp sức:                    4x100m

E.T hoặc H.T với các cự ly: 800m; 1000m ; 1500m; 1 dặm; 3000m; 5.000m; 10.000m; 3000m vượt chướng ngại vật.

Tiếp sức:                               4x400m;

Đi bộ thể thao :

10.000m (trong sân vận động), 10km (trên đường bộ).

Các môn nhảy: Nhảy cao; nhảy sào; nhảy xa; nhảy ba bước.

Các môn ném đẩy: Đẩy tạ; ném đĩa: ném tạ xích; ném lao.

Nhiều môn phối hợp: 7môn phối hợp, 10 môn phối hợp (chỉ được công nhận nếu vượt qua trên 7300 điểm).

Nữ trẻ

E.T chỉ với các cự ly: 100m; 200m; 400m; 100m rào; 400m rào

Tiếp sức:                   4x100m

E.T hoặc H.T với các cự ly :  800m; 1000m; 1500m; 1 dặm; 3000m; 5000m; 10.000m; 3000m vượt chướng ngại vật.

Tiếp sức:                                4x400m;

 Đi bộ thể thao :

5000m ( trong sân vận động), 10km (trên đường bộ).

Các môn nhảy : Nhảy cao; nhảy sào; nhảy xa; nhảy ba bước

Các môn ném đẩy: Đẩy tạ; ném đĩa; ném tạ xích; ném lao .

Nhiều môn phối hợp: 7 môn phối hợp , 10 môn phối hợp*.

*Chỉ công nhận nếu vượt qua 7.000 điểm.

 

ĐIỀU 263

CÁC KỶ LỤC THẾ GIỚI Ở SÂN TRONG NHÀ

 

1. Cùng với những ngoại lệ sau, Điều 260 phải được áp đụng đối với các kỷ lục thế giới ở sân vận động trong nhà .

2. Kỷ lục phải được lập sân vận động tuân theo Điều 219.

Đối với các cuộc đua 200m và dài hơn,  đường chạy hình ô van không được có độ dài quá 220 yards.

 

 

Điều 264

C MÔN THI ĐƯỢC CÔNG NHẬN CÓ KỶ LỤC THẾ GIỚI Ở SÂN TRONG NHÀ

 

Thành tích được xác định thời gian bằng đồng hồ điện tử hoàn toàn tự động (E.T).

Thành tích được xác định bằng đồng hồ bấm tay (H.T).

Nam 

E.T chỉ với các cự ly:  50m, 60m, 200m, 400m, 50m rào, 60m rào

 

E.T hoặc H.T:             800m, 1000m, 1500m, 1 dặm, 3000m ; 5000m, đi bộ 5000m.

 

Tiếp sức :                    4x200m, 4x400m, 4x800m

Các môn nhảy: Nhảy cao; nhảy sào; nhảy xa; nhảy ba bước.

Các môn ném đẩy: Đẩy tạ

Các môn phối hợp: 7 môn phối hợp

 

Nữ

E.T Chỉ với các cự ly:            50m, 60m, 200m, 400m, 50m rào, 60m rào.

E.T hoặc H.T:                      800m, 1000m, 1500m, 1 dặm, 3000m, 5000m, đi bộ 3000m

Tiếp sức:                               4x200m; 4x400m; 4x800m.

Các môn nhảy: Nhảy cao, nhảy sào, nhảy xa, nhảy ba bước

Các môn ném đẩy: Đẩy tạ

Nhiều môn phối hợp: 5 môn phối hợp.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

nguon VI OLET