Mục lục

Trang

Phần mở đầu

1. Lí do chọn đề tài................................2

2. Tổng quan vấn đề cần nghiên cứu.....................3

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.....................3

4. Đối tượng nghiên cứu.............................4

5. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu......................4

6. Phương pháp nghiên cứu...........................4

7. Đóng góp của đề tài..............................4

B. Phần nội dung

1. Cơ sở lí luận...................................5

1.1 Các khái niệm có liên quan........................5

1.2 Vị trí, tính chất và nhiệm vụ của dạy Tập đọc............5

1.3 Mục đích, yêu cầu của phân môn Tập đọc ở lớp 1..........6

1.4 Ý nghĩa của việc đọc.............................6

1.5 Một số cơ sở của việc đọc......................7

2. Cơ sở thực tiễn.................................8

2.1 Những trường hợp phát âm sai của người Quảng Nam ......8

2.2 Thực trạng dạy đọc..............................9

3. Một số biện pháp luyện đọc đúng .....................11

3.1 Chú ý công tác chuẩn bị trước khi đọc.................11

3.2 Yêu cầu đối với bài đọc mẫu.......................12

3.3 Hướng dẫn học sinh đọc..........................14

3.4 Áp dụng có hiệu quả các phương pháp dạy học...........16

4. Một số đề xuất.................................18

4.1 Đối với tỉnh Quảng Nam..........................18

4.2 Đối với Sở Giáo Dục...........................19

4.3 Đối với nhà trường……………………………...........19

4.4 Đối với giáo viên...............................19

4.5 Đối với phụ huynh.............................20

4.6 Đối với học sinh..............................20

C. Phần kết luận.................................21

D. Tài liệu nghiên cứu.............................22

 

PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TIẾNG VIỆT

ÑEÀ TAØI : NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC CHÍNH TẢ

TRONG DẠY HỌC TIỂU HỌC

 

 

A/  PHẦN MỞ ĐẦU

I/  Lý do chọn đề tài:

 Chữ viết hiện nay của người Việt là chữ viết ghi lại theo phát âm. Do đó việc viết đúng phải dựa trên đọc đúng, đọc đúng là cơ sở viết đúng. Tuy nhiên do yếu tố vùng miền, cách phát âm mỗi nơi có khác nhau. Mặc dù những qui tắc, qui ước về Chính tả đã được thống nhất theo ngữ pháp chung. Nhưng việc “viết đúng Chính tả” trong học sinh hiện nay nói chung vẫn còn nhiều khó khăn, tồn tại.

 Vấn đề là: Cũng như tất cả các nước dùng hệ thống chữ cái Latin khác trên thế giới, “ghi giọng nói” là thao tác hiển thị cơ bản của ngôn ngữ viết. Trong khi trong thực tế ở nước ta, hiện tượng không đồng nhất trong phát âm là khá phổ biến. Do tình hình kinh tế xã hội chung, hầu như bất kỳ địa phương nào trong cả nước cũng có sự pha trộn, giao thoa của nhiều vùng miền. Từ giáo viên đến học sinh, “Cô Bắc - trò Nam; Cô Trung - trò Bắc...”. “Nghe và hiểu” được tiếng nói của nhau quả là không đơn giản. Trong khi “chuẩn chính tả” của Ngữ pháp Việt Nam căn cứ vào phát âm của khu vực Hà Nội thì với các vùng miền khác việc “nhại giọng nói” theo phát âm tiêu chuẩn không hề đơn giản. Một số ví dụ tiêu biểu như: Phát âm của một số vùng Bắc Bộ (Hải Dương) thì “nói và làm” thành ra “lói và nàm”, khu vực Trung Bộ (khu vực Bình Trị Thiên, Nghệ Tỉnh) hầu như không phân biệt nỗi các dấu thanh “sắc- nặng-hỏi - ngã” như “nói” lại thành “nọi”; phát âm khu vực các Tỉnh “xứ Quãng” thì càng gay gắt hơn với những nguyên âm chính như “ ăn” thành “eng”, “nói” thì nghe thành “núa”, đi “làm” thì nói thành đi “lồm”, xe “đạp” thành xe “độp”…. các tỉnh Miền Nam thì “về” thành ra “dề” hay “lan” và “lang” nghe...như nhau, đặc biệt vùng Đồng bằng Nam bộ còn có phát âm như ngọng “Con cá rô bỏ vô rổ giãy rột rột” thành “ Con cá gô bỏ vô gổ dảy gột gột”... “Ông Nội” thành “Ông Nậu”, “Con người, số mười” lại nghe thành “con ngừ, số mừ”, “bên ngoài” thành “bên quài”, “đàng hoàng” thành “đàng quàng”...

Nhưng “vùng nào hiểu theo vùng nấy” nên thật ra trong từng địa phương có kiểu phát âm như vậy đã thành “quen tai” nên không có gì đáng nói. Có điều là hiện nay, sự sống chung pha trộn trong các vùng cả nước hiện nay là phổ biến nên khó khăn trong việc “nghe và viết” sao cho đúng là một vấn đề lớn đối với Chính tả Việt Nam  là rất rõ nét.

 Chính vì vậy, học sinh hiện nay mắc lỗi chính tả rất nhiều. Điều này ảnh hưởng tới kết quả học tập của các em ở môn Tiếng Việt nói chung cũng như các môn học khác. Vì vậy, trong quá trình còn ngồi trên ghế nhà trường sư phạm  tôi đã tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra đề tài : “Nâng cao chất lượng dạy học chính tả trong dạy học tiểu học”  

B/   NỘI DUNG

 

I.CƠ SỞ LÝ LUẬN

I.1   Cơ sở về ngữ âm học.

  1. Mối quan hệ giữa âm chữ và nghĩa.

- Chữ viết của Tiếng Việt là chữ viết ghi âm nên nguyên tắc chính tả chủ yếu của Tiếng Việt là nguyên tắc ngữ âm học, nghĩa là mỗi âm vị được thể hiện bằng một tổ hợp chữ cái, mỗi âm tiết, mỗi từ có một cách viết nhất định. Do đó việc viết đúng phải dựa trên đọc đúng, đọc đúng là cơ sở viết đúng. Để phát huy một cách có ý thức. đặc biệt là những vùng phương ngữ, việc dạy chính tả phải theo sát nguyên tắc này. Nghĩa là phải tôn trọng việc phát âm, lấy phát âm để điều chỉnh chữ viết

b.  Những bất hợp lý của chữ quốc ngữ.

 Ở Tiếng Việt, nguyên tắc cơ bản là nguyên tắc ngữ âm học, ngoài ra chính tả Tiếng Việt còn được xây dựng trên một số nguyên tắc như: Nguyên tắc truyền thống lịch sử, nguyên tắc khu biệt… Khi viết chính tả phát âm thế nào thì viết thế ấy. Hiện tượng cách phát âm ở những vùng miền khác nhau (phương ngữ), trong khi đó hệ thống ghi âm tiêu chuẩn của Tiếng Việt lại chưa được xác định một cách chính thức. Do đó khó có thể phổ biến rộng rãi hệ thống ấy được. Hơn nữa trong Tiếng Việt việc phát âm không phù hợp với tiêu chuẩn lại có trường hợp trong đó một từ đồng thời mang hai biến thể phát âm, khó có thể nói biến âm nào là chuẩn.

 Ví dụ:  chong chóng – trong tróng

 Hoặc có khi cùng một cách phát âm nhưng lại có hai cách viết.

 

 Ví dụ:     /z/      

    

 

         

   /i/ 

 

Bản thân hệ thống âm vị Tiếng Việt còn một số vị âm không ghi thống nhất, một âm có thể ghi bằng nhiều con chữ.

 

 

                                /k/  

 

 Hoặc trong bộ chữ cái Tiếng Việt còn chữ “h” là một hiện tượng đặc biệt. Nó vừa sử dụng độc lập làm đại diện cho phụ âm /h/ thể hiện bằng con chữ “h”, vừa được sử dụng theo cách ghép với các con chữ khác làm đại diện cho 7 âm nữa đó là: ch, gh. kh, nh, ngh, ph, th. Do vậy khi sử dụng cần chú ý không nên lầm tưởng là trong Tiếng Việt có phụ âm kép. Dù “h” đứng một mình hay “h” đứng sau các chữ khác (c, g, k, n, ng, p, t) thì ch, gh, kh, nh, ngh, ph, th đều có giá trị như nhau. Mỗi hình thức trong 7 hình thức đó đều chỉ thay thế cho 1 âm mà thôi. Do vậy có quan niệm g đơn, g kép, ng đơn, ng kép là bất hợp lý. Cách nhận biết tốt nhất về “ng” và “ngh” là dựa vào khả năng kết hợp chung với nguyên âm.

 Trước những bất hợp lý trên, việc xác định những trọng điểm chính tả cần dạy cho học sinh vùng phương ngữ, một mặt phải coi trọng những biến thể phát âm địa phương, đồng thời phải giải nghĩa để sử dụng dựa vào các văn cảnh cụ thể để ghi nhớ cho học sinh cách phân biệt chính tả.

 Do vậy hai nhiệm vụ chủ yếu của việc đề cao nguyên tắc dạy học chính tả có ý thức là: giải quyết những vấn đề tồn tại của chữ quốc ngữ. Tôn trọng nguyên tắc dạy chính tả theo khu vực, phải chú ý cách phát âm của địa phương.

I.2   Nguyên tắc dạy Chính tả.

 a/  Nguyên tắc dạy Chính tả gắn với sự phát triển tư duy

- Vận dụng các phương pháp thích hợp, rèn luyện các thao tác tư duy giúp cho HS chủ động tích cực lĩnh hội tri thức và rèn luyện kĩ năng chính tả tự động học.

- Hướng dẫn HS hoạt động trí tuệ để hiểu chữ viết và chức năng của chữ viết trong hệ thống các phương tiện biểu hiện ngôn ngữ, hiểu tác dụng của chữ viết trong quá trình giao tiếp và tư duy bằng ngôn ngữ viết.

- Luyện tập, thực hành các hình thức chính tả để củng cố  kĩ năng viết và kĩ năng thao tác tư duy khoa học cho HS.

b/  Nguyên tắc dạy Chính tả hướng về dạng thức viết của hoạt động lời nói

Dạy Chính tả hướng về dạng thức viết của hoạt động lời nói yêu cầu sự phát triển phong phú và đa dạng các kiểu bài tập thực hành giao tiếp. Học chữ và học viết chính tả là để viết thạo tiếng nói, để có công cụ học tập và giao tiếp, để phát triển ngôn ngữ. Hướng về dạng thức viết của hoạt động ngôn ngữ, sẽ kích thích hứng thú và hình thành động cơ học tập đúng đắn của học sinh đem lại hiệu quả thiết thực và vững chắc cho phân môn Chính tả.

c/  Nguyên tắc dạy Chính tả chú ý đến trình độ phát triển ngôn ngữ của học sinh

Tức là chúng ta dựa trên cơ sở trình độ trẻ em nắm và sử dụng dạng thức nói. Ở độ tuổi khác nhau, nguồn gốc địa bàn cư trú và dân tộc khác nhau, với những ảnh hưởng tiếp xúc văn hóa trong cộng đồng có nét riêng, trình độ nắm và sử dụng dạng thức nói của HS ở từng lớp và từng cấp không đồng đều. Do đó, nội dung, hình thức và yêu cầu dạy học chính tả đề ra phải sát hợp với từng loạt đối tượng.

d/  Nguyên tắc phát triển song song dạng thức nói và dạng thức viết của ngôn ngữ

Dạy học chính tả hướng tới đồng thời cả dạng thức nói và dạng thức viết trên cơ sở mối liên hệ âm – chữ, chữ và nghĩa, nhằm hoàn thiện kĩ năng đọc viết, viết đọc, viết đọc và hiểu. Học sinh được đối chiếu, so sánh, phân biệt dạng thức nói và dạng thức viết trong các trường hợp đồng âm, khác nghĩa, đồng tự (khác âm hay khác nghĩa), những trường hợp đồng âm không đồng tự (phát âm như nhau viết khác nhau) hoặc đồng tự không đồng âm (viết như nhau đọc khác nhau), những biến thể ngữ âm trong lời nói, biến thể ngữ âm trong phương ngữ và chuẩn chữ viết, chuẩn chính tả thống nhất…

     I.3   Cơ sở thực tế.

 Trẻ em ở lứa tuổi Tiểu học nhận thức hiện thực khách quan mang đậm màu sắc cảm tính. Các giác quan như tai, mắt được sử dụng nhiều trong nhận thức sự vật, cho nên trực quan cụ thể là những yếu tố đặc biệt quan trọng góp phần tạo nên nhận thức và tư duy của học sinh Tiểu học. “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng” Khi dạy chính tả cho học sinh Tiểu học cần vận dụng triệt để đặc điểm, nhận thức của trẻ em ở lứa tuổi này.

 VD: Nghe và quan sát cách phát âm đúng để phát âm đúng. Quan sát cách viết đúng để viết đúng , dần dần học sinh sẽ tích luỹ được những kinh nghiệm, làm giàu thêm tri thức chính tả cho bản thân. Kết quả là các em nhận thức được những vốn kinh nghiệm một cách có ý thức, tạo nên kĩ năng kĩ xảo cho các em. Từ đó giúp các em dễ dàng trong việc tiếp thu các tri thức của các môn học, nhất là trong phân môn Tập làm văn.

 

II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:

 1. Một số tồn tại trong thực tế:

 Qua quá trình học tập ở nhà trường sư phạm và nghiên cứu tài liệu, sách báo, giáo trình phương pháp dạy học Tiếng Việt, và những quan sát tìm hiểu trên thực tế tôi thấy học sinh tiểu học thường hay mắc phải một số lỗi sau đây:

a. Lỗi về dấu thanh:

 Tiếng Việt có 6 thanh (ngang, huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng) thì nhiều học sinh không phân biệt được 2 thanh hỏi, ngã. Số lượng tiếng mang 2 thanh này không ít và rất phổ biến - kể cả những người có trình độ văn hoá cao.

 Ví dụ:  Sữa xe đạp, hướng dẩn, giử gìn, dổ dành, lẩn lộn,…

 b. Lỗi phụ âm đầu:

 - Học sinh viết lẫn lộn một số chữ cái ghi các âm đầu sau đây:

+ c/k: Céo co…   

+ng/qu: ông quại (ngoại), bên quài(ngoài)

+ g/gh: Con ghà , gê gớm… 

+h/qu: quảng hốt (hoảng hốt), phá quại (phá hoại)

+ ng/ngh: Ngỉ ngơi, nge nhạc, nghành nghề…

+ ch/tr: Cây che, chiến chanh…

+ s/x: Cây xả , xa mạc…

 c.Lỗi âm cuối, vần:

 - Học sinh thường viết lẫn lộn chữ ghi âm cuối trong các vần sau đây:

+ at/ac- ăt/ăc - ât/âc: mác mẻ, lường gạc, gặc lúa, nổi bậc, lấc phấc…

+ an/ang- ân/âng: cây bàn, bàng bạc, khoai lan, hụt hẫn, tần lầu...

+ âu/ôi : ông Nậu (nội), cái gấu (gối)...

+ ên/ênh: bấp bên, nhẹ tên, ghập ghền, khấp khển…

+ ư/ươi: con ngừ , hai mư...

+ êt/êch: trắng bệt…

+ iêt/iêc: mải miếc, tiêu diệc…

+ ut/uc: chim cúc, bão lục…

+ uôn/uông: khuôn nhạc, buồn tắm…

+ uôt/uôc: rét buốc, chải chuốc…

+ ươn/ương: lươn bổng, sung sướn

2. Nguyên nhân chủ yếu:

 a/ Lỗi về dấu thanh:

 Thực tế qua ngôn ngữ nói, Nghệ An trở vào không phát âm phân biệt được những thanh hỏi, ngã. Nói cách khác trong phương ngữ khu vực miền Trung và miền Nam không có thanh ngã. Trong khi số lượng từ mang 2 thanh này khá lớn. Do đó đây là lỗi rất phổ biến trong học sinh.

 b/ Lỗi khi viết âm đầu:

  Trong phương ngữ Bắc và Nam có sự lẫn lộn giữa các chữ ghi âm đầu ch/tr, d/gi, s/x . Mặt khác, trong khi một số vùng miền Bắc thường lẫn lộn các âm đầu l/n thì người Miền Nam thường lẫn lộn v/d, r/g. Ngoài ra, trong quy ước về chữ quốc ngữ, một âm ghi bằng 2 hoặc 3 dạng (ví dụ: âm “cờ” ghi bằng 3 chữ cái  c / k /qu , âm “ngờ” ghi bằng ng/ngh, âm “gờ” ghi bằng g/gh…) dù có những quy định riêng cho mỗi dạng khi ghép chữ, nhưng đối với học sinh tiểu học thì rất dễ lẫn lộn.

 c/. Lỗi khi viết âm cuối:

 Đối với người Miền Nam, có thể nói việc phát âm hoàn toàn không phân biệt các vần có âm cuối n/ngt/c. Mà số từ mang các vần này không nhỏ. Mặt khác hai bán âm cuối i,u/ lại được ghi bằng 4 con chữ  i/y (trong: lai/lây), u/o (trong: sau/sao), ư/ươi (trong : tư/tươi) do đó lỗi về âm cuối là lỗi khó khắc phục đối với học sinh các tỉnh phía Nam nói chung và tại địa phương nói riêng

3.Một số biện pháp khắc phục lỗi:

 a. Tích cực luyện phát âm đúng:

 Muốn học sinh viết đúng chính tả, giáo viên phải là người phát âm rõ tiếng, đúng chuẩn, đồng thời chú ý luyện phát âm cho học sinh để phân biệt các thanh, các âm đầu, âm cuối. Việc rèn phát âm bắt đầu phải được thực hiện trong tiết Tập đọc và được thực hiện thường xuyên, liên tục, lâu dài trong tất cả các tiết học như Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn…

 b Phân biệt chính tả bằng phân tích, so sánh:

 Song song với việc phát âm, giáo viên có thể áp dụng biện pháp phân tích cấu tạo tiếng, so sánh với những tiếng dễ lẫn lộn, phát hiện những điểm khác nhau để học sinh lưu ý và ghi nhớ.

 Ví dụ: Khi viết tiếng “làng” học sinh dễ lẫn lộn với tiếng “làn”, giáo viên yêu cầu học sinh phân tích cấu tạo hai tiếng này:

    - làng = l + ang + thanh huyền

    - làn = l + an + thanh huyền.

 So sánh để thấy sự khác nhau: Tiếng “làng” có âm cuối là “ng”, tiếng “làn” có âm cuối là “n”. Học sinh ghi nhớ điều này, khi viết, các em sẽ không viết sai.

 c.Phân biệt bằng nghĩa từ:

 Một biện pháp khác để khắc phục lỗi chính tả cho học sinh là giúp học sinh hiểu nghĩa chính xác của từ. Việc giải nghĩa từ thường được thực hiện trong tiết Tập đọc, Luyện từ và câu…nhưng trong tiết Chính tả cũng là một biện pháp tích cực, khi học sinh không thể phân biệt từ khó dựa vào phát âm hoặc phân tích cấu tạo tiếng.

  Ví dụ: *Phân biệt  bànbàng (trong từ đơn): Bàn= cái bàn , bàng =cây bàng hoặc phân biệt Bácbát : bác=anh của ba, Bác Hồ , bát = đồ dùng ăn cơm (bát đũa)

*Phân biệt chiêngchiên

 

+ Giải nghĩa từ chiêng: Giáo viên có thể cho học sinh quan sát tranh ảnh cái chiêng hoặc miêu tả đặc điểm (chiêng là nhạc cụ bằng đồng, hình tròn, đánh bằng dùi, âm thanh vang dội).
+ Giải nghĩa từ chiên: Giáo viên có thể cho học sinh đặt câu với từ chiên hoặc giải thích bằng định nghĩa (chiên là làm chín thức ăn bằng cách cho thức ăn vào chảo dầu, mỡ, đun trực tiếp trên bếp lửa).

Với những từ nhiều tiếng, từ nhiều nghĩa giáo viên phải đặt từ đó trong văn cảnh cụ thể để gợi lại nghĩa từ hoặc giúp học sinh giải nghĩa từ.

 d. Ghi nhớ một số mẹo luật chính tả:

 Một số hiện tượng chính tả mang tính quy luật đối với hàng loạt từ có thể giúp cho học sinh khắc phục lỗi chính tả một cách rất hữu hiệu. Ngay từ lớp 1, các em đã được làm quen với luật chính tả đơn giản như: các âm đầu k, gh, ngh chỉ kết hợp với các nguyên âm i, e, ê, iê, ie.

Để phân biệt dấu thanh hỏi/ngã: Các từ gộp âm chỉ mang thanh hỏi không mang thanh ngã:
- Trong + ấy = trỏng.
- Trên + ấy = trển
- Cô + ấy = cổ
- Chị + ấy = chỉ
- Anh + ấy = ảnh
- Ông + ấy = ổng
- Hôm + ấy = hổm
- Bên + ấy = bển
 

Luật bổng - trầm: Qui luật về dấu hỏi, ngã trong các từ láy (mát mẻ, vui vẽ, sạch sẽ...) Trong các từ láy điệp âm đầu, thanh (hay dấu) của 2 yếu tố ở cùng một hệ bổng (ngang/sắc/hỏi) hoặc trầm (huyền/ngã/nặng). Để nhớ được 2 nhóm này, giáo viên chỉ cần dạy cho học sinh thuộc nguyên tắc : Ngang- sắc = hỏi/ Huyền- nặng = ngã

“Chị huyền ngã nặng đớn đau, hỏi không sắc thuốc biết bao giờ lành“

 Nghĩa là đa số các từ láy âm đầu, nếu yếu tố đứng trước mang thanh huyền, nặng, ngã thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh ngã, nếu yếu tố đứng trước mang thanh ngang, sắc, hỏi thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh hỏi (hoặc ngược lại).

 Ví dụ: 

  •                 Ngang + hỏi: Nhỏ nhoi, trẻ trung, vui vẻ…
  •                 Sắc + hỏi: Mát mẻ,  sắc sảo, vắng vẻ…
  •                 Hỏi + hỏi: Thỏ thẻ, hổn hển,  rủ rỉ…
  •                 Huyền + ngã: Mỡ màng, lững lờ, vồn vã
  •                 Nặng + ngã: Đẹp đẽ, mạnh mẽ, vật vã…
  •                 Ngã + ngã: Dễ dãi, nghễnh ngãng, nhõng nhẽo…

 Ngoài ra, giáo viên có thể cung cấp thêm cho học sinh một số mẹo luật khác như:

 + Để phân biệt âm đầu tr/ch: Đa số các từ chỉ đồ vật trong nhà và tên con vật đều bắt đầu bằng ch, ví dụ: chăn, chiếu, chảo, chổi, chai, chày, chén, chum, chạn, chõ, chĩnh, chuông, chiêng, choé,… chồn, chí, chuột, chó, chuồn chuồn, châu chấu, chào mào, chiền chiện, chẫu chàng, chèo bẻo, chìa vôi…

 + Để phân biệt âm đầu s/x: Đa số các từ chỉ tên cây và tên con vật đều bắt đầu bằng s: Sả, si, sồi, sứ, sung, sắn, sim, sao, su su, sầu đâu, sa nhân, sơn trà, sặt, sậy, sấu, sến, săng lẻ, sầu riêng, so đũa… sam, sán, sáo, sâu, sên, sếu, sò, sóc, sói, sứa, sáo sậu, săn sắt, sư tử, sơn dương, san hô…

 + Để phân biệt các vần dễ lẫn lộn:

 Đa số từ chỉ trạng thái bấp bênh, không vững chắc có vần ênh: Gập ghềnh, khấp khểnh, chông chênh, lênh đênh, bập bềnh, chếnh choáng, chệnh choạng, lênh khênh, bấp bênh, công kênh…

 Hầu hết các từ tận cùng là ng hoặc nh là từ tượng thanh: oang oang, đùng đoàng, loảng xoảng, đoàng đoàng, sang sảng, rổn rảng, ùng oàng, quang quác,  pằng pằng, eng éc, beng beng, chập cheng, leng keng,  lẻng kẻng, đùng đùng, thùng thùng, bình bịch, thình thịch, rập rình, xập xình, huỳnh huỵch…

 Vần uyu chỉ xuất hiện trong các từ tượng hình: khuỷu tay, khúc khuỷu, ngã khuỵu, khuỵu chân; vần oeo chỉ xuất hiện trong các từ ngoằn ngoèo, khoèo chân

 e. Vận dụng củng cố bằng các bài tập chính tả:

 Giáo viên tiểu học nên cho học sinh thực hiện các dạng bài tập chính tả khác nhau để giúp học sinh tập vận dụng các kiến thức đã học, làm quen với việc sử dụng từ trong văn cảnh cụ thể. Sau mỗi bài tập, giáo viên giúp học sinh rút ra các quy tắc chính tả để các em ghi nhớ.

- Bài tập trắc nghiệm:
* Khoanh tròn vào chữ cái trước những chữ viết đúng chính tả:
a. Hướng dẩn

b. Hướng dẫn

c. Giải lụa

d. Dải lụa

e. Oan uổng

f. Oan uổn

* Điền chữ Đ vào ô trống trước những chữ viết đúng chính tả và chữ S vào ô trống trước những chữ viết sai chính tả:
Rau muốn

Rau muống

Chải chuốc

Chải chuốt

Giặc quần áo

Giặt quần áo

* Nối các tiếng ở cột A với các tiếng ở cột B để tạo thành những từ viết đúng chính tả:
A

B

bênh

trái

bên

vực

bện

tật

bệnh

tóc

-Bài tập chọn lựa:

* Chọn từ thích hợp trong ngoặc điền vào chỗ trống trong câu sau:

• Cháu bé đang uống ……… (sửa, sữa)
• Học sinh …...........mũ chào thầy giáo. (ngả, ngã).
• Đôi …… này đế rất …….. (giày, dày)
• Sau khi ……. con, chị ấy trông thật …… (xinh, sinh)
* Chọn từ thích hợp trong ngoặc điền vào chỗ trống trong câu sau:
• Học sinh …. đèn học bài….. đêm khuya. (trong, chong)
• Lan thích nghe kể……….hơn đọc……….. (truyện, chuyện)
• Trời nhiều …….., gió heo ………lại về. (mây, may)
- Bài tập phát hiện:
* Tìm từ sai chính tả trong câu sau và sửa lại cho đúng:
• Xuân diệu là một nhà thơ trử tình nổi tiếng.
• Cả phòng khéc lẹc mùi thuốc lá.
• Lá vàng bay liệng trong gió chiều.
• Bức tườn bị nức ngang nức dọc.


- Bài tập điền khuyết:
* Điền vào chỗ trống:
• l/n: lành…. ặn, nao…úng,…anh lảnh
• s/x: chim…ẻ, san…ẻ, …ẻ gỗ. …uất khẩu, năng….uất.
• ươn/ương: bay l…..., b…. chải, bốn ph….. , chán ch…\…
• iêt/ iêc: đi biền b…....., thấy tiêng t…/.., xanh biêng b…/..
* Điền tiếng láy thích hợp vào chỗ trống:
• Hắn bỡ…….. trước cuộc sống mới lạ.
• Buổi trưa hè, trời nắng chói …….
• Dây leo chằng………, chắn cả lối đi.
• Tiếng gà kêu quang ………
- Bài tập tìm từ:
Học sinh tìm từ ngữ chứa âm, vần dễ lẫn qua gợi ý nghĩa của từ, qua gợi ý từ đồng âm, từ trái nghĩa….
* Tìm các từ chứa tiếng bắt đầu bằng ươt hoặc ươc có nghĩa như sau:
• Dụng cụ để đo, vẽ, kẻ:
• Thi không đỗ:
• Người chuyên nghiên cứu, bào chế thuốc chữa bệnh:
* Tìm các từ chỉ hoạt động:
• Chứa tiếng bắt đầu bằng r:
• Chứa tiếng bắt đầu bằng d:
• Chứa tiếng bắt đầu bằng gi:
• Chứa tiếng có vần ươt:
• Chứa tiếng có vần ươc:
* Tìm từ ngữ có thanh hỏi hoặc thanh ngã có ý nghĩa như sau:
• Trái nghĩa với từ thật thà:
• Đoạn đường nhỏ hẹp trong thành phố:
• Cây trồng để làm đẹp:
• Khung gỗ để dệt vải:
- Bài tập phân biệt:
Đặt câu để phân biệt từng cặp từ sau:
• nồi - lồi
• no - lo
• chúc - chút
• lụt - lục
• ngả - ngã
- Bài tập giải câu đố
* Em chọn tr hay ch để điền vào chỗ trống rồi giải câu đố sau:
Mặt….. òn, mặt lại đỏ gay
Ai nhìn cũng phải nhíu mày vì sao
Suốt ngày lơ lửng… ên cao
Đêm về đi ngủ, ….ui vào nơi đâu?
(là gì?)

 

 Ngoài ra, việc kiểm tra “viết đúng chính tả” của giáo viên đối với học sinh không chỉ ở môn Chính tả mà cũng cần lưu ý nhắc nhở học sinh trong tất cả các môn học khác trong chương trình, đặc biệt là môn Tập làm văn. Việc này phải được tiến hành kiên trì và liên tục để giúp học sinh dần có ý thức rèn kỹ năng “viết đúng” trong mọi tình huống.

C/   KẾT LUẬN

 Việc phát hiện lỗi chính tả, thống kê, tìm nguyên nhân gây lỗi, từ đó đưa ra các biện pháp khắc phục là rất cần thiết, không thể thiếu trong quá trình dạy - học Tiếng Việt. Nhưng không phải chỉ đưa ra các biện pháp khắc phục là có thể “Nâng cao chất lượng dạy học chính tả trong dạy học tiểu học”  một cách có hiệu quả. Sửa chữa, khắc phục lỗi chính tả là cả một quá trình lâu dài, đòi hỏi người giáo viên phải kiên trì, bền bỉ, không được nóng vội.

Ngay từ khi các em mới bắt đầu “làm quen” với Tiếng Việt, chúng ta nên hướng dẫn các em thật tỉ mỉ về các quy tắc chính tả, quy tắc kết hợp từ, quy tắc ghi âm chữ quốc ngữ… tránh trường hợp học sinh vì thiếu hiểu biết dẫn đến sai sót.

Trong quá trình giảng dạy, chúng ta luôn quan sát, kiểm tra, … từ đó phát hiện ra những khó khăn, vướng mắc, hoặc những lỗi mà học sinh hay mắc phải để kịp thời sửa chữa, uốn nắn. “Ở đâu có thầy giỏi, ở đó có trò giỏi”. Vì vậy người giáo viên, sinh viên sư phạm cần phải không ngừng học hỏi, tự tìm hiểu, nghiên cứu để nâng cao trình độ, tay nghề. Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường sư phạm sinh viên cần cố gắn học tập và rèn luyện để nắm chắc kiến thức, như thế mới có thể giúp học sinh chữa lỗi và khắc phục lỗi một cách có hiệu quả trong thực tế giảng dạy ở trường tiểu học sau này.


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

nguon VI OLET