Tìm hiểu Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
 


 

Câu 1. Hỏi: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đến nay nước ta có mấy bản Hiến pháp? Các bản Hiến pháp đó được Quốc hội thông qua ngày tháng năm nào?

Trả lời:
Kể từ 1945 đến nay nước ta đã có 05 bản Hiến pháp, cụ thể là:
- Hiến pháp 1946(QH khóa I thông qua ngày 09/11/1946).
- Hiến pháp 1959 (QH khóa I thông qua ngày 31/12/1959).
- Hiến pháp 1980 (QH khoá VI thông qua ngày 18/12/1980).
- Hiến pháp 1992 (QH khoá VIII thông qua ngày 15/4/1992).
- Hiến pháp 2013 (QH khóa XIII thông qua ngày 28/11/2013).

Câu 2. Hỏi: Bản Hiến pháp năm 2013 có hiệu thi hành từ ngày, tháng, năm nào? So với bản Hiến pháp năm 1992(sửa đổi bổ sung năm 2001) có bao nhiêu điều được giữ nguyên, có bao nhiêu điều được sửa đổi, bổ sung? Điều sửa đổi bổ sung nào bạn tâm đắc nhất? vì sao?

Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội khóa XIII kỳ họp thứ 6, thông qua ngày 28/11/2013, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2014.So với Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001) thì Hiến pháp năm 2013 có 07 điều giữ nguyên; sửa đổi bổ sung 101 điều; xây dựng mới 12 điều.

 

Điều sửa đổi, bổ sung tâm đắc nhất do mỗi người cảm nhận, có thể chọn một hoặc hai điềm sau:
+Điều 2. khoản 3: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”, trong đó kiểm soát quyền lực là điểm mới, là nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền….
+ Điều 4. bổ sung khoản 2 “ Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”, đây là điểm mới thể hiện trách nhiệm của Đảng với Nhân dân.
+ Điều 6: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”, trong đó dân chủ trực tiếp là điểm mới của Hiến pháp.
+ Điều 9. khoản 2 “Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức chính trị – xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”, đây là điểm mới bổ sung của Hiến pháp về vai trò trách nhiệm của một số tổ chức chính trị xã hội như Hội phụ nữ, Hội nông dân, Đoàn thanh niên, Hội cựu chiến binh(lần đầu Hiến pháp quy định).
Câu 3. 
Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân Dân” Bạn hãy nêu và phân tích ngắn gọn các quy định của Hiến pháp 2013 về cách thức để Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước.
Trả lời:
Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân..” đó là sự ghi nhận của Hiến pháp về vai trò của Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, Nhân dân thông qua quyền lập hiến giao quyền lực nhà nước của mình cho Quốc hội, cho Chính phủ. Theo Điều 69 Hiến pháp năm 2013, thì Nhân dân chỉ trao cho Quốc hội ba nhóm quyền hạn và nhiệm vụ đó là: quyền hạn và nhiệm vụ về lập hiến, lập pháp; quyền hạn và nhiệm vụ về giám sát tối cao; quyền hạn và nhiệm vụ về quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Đồng thời, Điều 6 của Hiến pháp quy định Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước không những bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước, mà còn bằng dân chủ trực tiếp thông qua việc thực hiện quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân(Điều 29), trưng cầu về Hiến pháp(Điều 120)... Điểm mới của Hiến pháp 2013 so với Hiến pháp 1992 về thực hiện quyền lực nhà nước đó là: Nhân dân trao một số quyền lực cho Quốc hội, Chính phủ thông qua dân chủ đại diện, Nhân dân giữ lại một số quyền để thực hiện dân chủ trực tiếp. Như vậy, nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mới đúng, mới bảo đảm được thực hiện đầy đủ, không rơi vào chung chung, hình thức. Và như vậy, sự thống nhất quyền lực nhà nước được hiểu là toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, tập trung thống nhất ở Nhân dân chứ không phải tập trung ở Quốc hội. Đây là vấn đề có ý nghĩa lý luận sâu sắc và thực tiễn thiết thực. Trước hết, điều đó chỉ ra rằng, quyền lực nhà nước dẫu là quyền lập pháp, hành pháp hay tư pháp đều có chung một nguồn gốc thống nhất là Nhân dân, đều do Nhân dân ủy quyền, giao quyền. Do vậy, nói quyền lực nhà nước là thống nhất trước tiên là sự thống nhất ở mục tiêu chính trị của Nhà nước. Cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tuy có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau nhưng đều thống nhất ở mục tiêu chính trị chung là xây dựng một “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Câu 4.
Hỏi: Những quy định nào của Hiến pháp năm 2013 thể hiện tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc?
Trả lời:

Hiến pháp năm 2013 đã hiến định sâu sắc hơn, toàn diện hơn về vấn đề dân tộc, góp phần xây dựng và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thể hiện trên một số quy định sau:
- Điều 5 Hiến pháp 2013 quy định:
+ Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
+ Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.
+ Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình.
+ Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước.
- Điều 9 Hiến pháp quy định:
+ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
+ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
+ Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức chính trị – xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- Điều 42 Hiến pháp quy định: 
+ Công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp.
- Điều 58 Hiến pháp quy định: 
+Nhà nước, xã hội đầu tư phát triển sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của Nhân dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân, có chính sách ưu tiên chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào ở miền núi, hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn.
- Điều 61 Hiến pháp quy định :
+ Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số….
Câu 5. Hỏi: Những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001) về quyền con người, quyền nghĩa vụ cơ bản của công dân? Điểm mới nào bạn tâm đắc nhất ? vì sao?
   Một trong những mục tiêu, quan điểm chỉ đạo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là để đảm bảo tốt hơn quyền con người, quyền nghĩa vụ cơ bản của công dân, chính vì vậy Hiến pháp năm 2013 đã có nhiều điểm mới so với Hiến pháp năm 1992 về quyền con người, quyền nghĩa vụ cơ bản của công dân, quyền công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân.

            Trước hết đó là sự thay đổi về bố cục, thứ tự sắp sếp của chương trong Hiến pháp, ở Hiến pháp năm 1992 thì chương “Quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân” là chương V, Hiến pháp 2013 thì chương này được bố cục lại và sếp vào vị trí chương II, đây là một điểm mới của Hiến pháp năm 2013, thể hiện vị trí, tầm quan trọng của quyền con người. Mặt khác về tên chương cũng có sự thay đổi, nếu như ở Hiến pháp năm 1992 tên chương là “Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”, đến Hiến pháp năm 2013 chương này được đổi thành “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Qua đó để khẳng định quyền con người được Nhà nước thừa nhận, tôn trọng và cam kết bảo vệ theo công ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia.
Nếu như Hiến pháp năm 1992, quyền con người được quy định tại Điều 50 “Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật”, thì tại điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ đảm bảo theo Hiến pháp và pháp luật; Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của pháp luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Như vậy so với Hiến pháp năm 1992 thì Hiến pháp năm 2013 quy định rõ quyền con người, bổ sung quyền công dân, các quyền này trước hết là được công nhận sau đó là được tôn trọng và bảo vệ, các quyền đó chỉ có thể bị hạn chế trong một số trường hợp nhất định, tránh tình trạng xâm phạm quyền con người, quyền công dân. Hiến pháp năm 2013 đã thay cụm từ “mọi công dân” trong Hiến pháp năm 1992 thành cụm từ “ mọi người”, cụ thể tại Điều 16 quy định: “ Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”. Đồng thời Hiến pháp năm 2013 còn bổ sung thêm quy định tại Điều 19: “ Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. không ai bị tước đoạt tính mạng trái pháp luật”. Tại khoản 3 Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác theo quy định của luật. Việc thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử nghiệm nào khác trên cơ thể người phải có sự đồng ý của người được thử nghiệm” đây là điểm mới so với Hiến pháp năm 1992, việc quy định được quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác của mọi người nhằm tạo thuận lợi để chữa bệnh cho người thân, mục đích nhân đạo, cũng như đề cao vai trò bộ phận cơ thể người phục vụ cho nghiên cứu và chữa bệnh trong y học hiện nay.
Về quyền tự do kinh doanh, tại Điều 57 Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân có quyền tự do kinh doanh” thì tại Điều 33 Hiến pháp năm 2013 quy định “ Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”, như vậy Hiến pháp đã mở rộng hơn đối tượng kinh doanh và ngành nghề được kinh doanh, không chỉ công dân Việt Nam mà kể cả người nước ngoài cũng được tạo điều kiện thuận lợi để kinh doanh làm giàu chính đáng, tạo động lực phát triển kinh tế xã hội. 
Ngoài một số nội dung cơ bản nêu trên, Hiến pháp năm 2013 còn quy định về quyền con người, quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân một cách rõ ràng, cụ thể, bổ sung đầy đủ hơn so với Hiến pháp năm 1992, như gộp các Điều 65,66,67 của Hiến pháp 1992 và bổ sung một số nội dung thành Điều 37 Hiến pháp 2013; tách Điều 53 Hiến pháp năm 1992 quy định về công dân có quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân thành Điều 29 Hiến pháp 2013: “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”

Về cách thức, bố cục, Hiến pháp năm 2013 có sự đổi mới quan trọng theo hướng ghi nhận mọi người có quyền, công dân có quyền và quyền con người là quyền tự nhiên, bất cứ ai cũng có quyền đó, quyền công dân là quyền của người có quốc tịch Việt Nam. Để tạo thuận lợi cho mọi người thực hiện quyền của mình, Hiến pháp năm 2013 quy định trách nhiệm của Nhà nước là phải ban hành các văn bản pháp luật để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho mọi người và công dân thực hiện đầy đủ các quyền của mình.
Có thể khẳng định Hiến pháp năm 2013 quy định về quyền con người, quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân là sự kế thừa tinh hoa tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh trong Hiến pháp năm 1946, đồng thời đã thể chế hóa chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về quyền con người, coi con người là chủ thể, là động lực quan trọng của sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhằm hướng đến mục tiêu “ Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Điểm mới tâm đắc tùy thuộc mỗi người….
 

 

Câu hỏi 6:
Hỏi: Những điểm mới quan trọng về vị trí, chức năng của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân trong Hiến pháp năm 2013. phân tích điểm mới về mối quan hệ giữa các cơ quan đó trong thực hiện quyền lực nhà nước?
Trả lời:
Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo đó, "Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước". Một số điểm mới quan trọng về vị trí, chức năng của QH trong Hiến pháp năm 2013 đó là:
Thứ nhất, về quyền lập hiến, Hiến pháp năm 2013 quy định QH thực hiện quyền lập hiến (Ðiều 69), so với Hiến pháp năm 1992, đã bỏ cụm từ "là cơ quan duy nhất". Tại khoản 4 Ðiều 120 đã bổ sung quy định: "Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu QH biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do QH quyết định"; quy định này nhằm thể chế hóa chủ trương của Ðảng về phát huy dân chủ XHCN; QH với vị trí là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam được trao thẩm quyền quyết định việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp phù hợp với điều kiện, tình hình thực tiễn cụ thể của đất nước.
Thứ hai Hiến pháp năm 2013 đã có các điều chỉnh tương ứng liên quan đến thẩm quyền của QH, như: trong việc thực hiện quyền giám sát tối cao, đã bổ sung quy định QH thực hiện việc "xét báo cáo công tác của Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước và các cơ quan khác do QH thành lập"; trong việc bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán Nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do QH thành lập; phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh, Hội đồng bầu cử quốc gia; QH bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do QH bầu hoặc phê chuẩn.
Ngoài ra Hiến pháp năm 2013 cũng quy định bổ sung theo hướng đầy đủ, chặt chẽ hơn về thẩm quyền của QH không chỉ giới hạn ở việc thành lập, giải thể đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, mà còn bổ sung cả việc nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính của đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; bổ sung quy định việc QH có thẩm quyền thành lập, bãi bỏ cơ quan khác theo quy định của Hiến pháp và luật (điểm 9 Ðiều 70).
Bên cạnh đó, Hiến pháp năm 2013 còn bổ sung quy định về thẩm quyền của QH trong việc phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (điểm 7 Ðiều 70). Có thể nói, quy định này thể hiện vị trí, vai trò quan trọng ngày càng tăng của chức danh Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao trong mối tương quan với các chức danh khác trong bộ máy nhà nước. Hiến pháp năm 2013 đã quy định rõ Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp (Ðiều 102); và Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam (Ðiều 104).
Thứ ba, quy định theo hướng rõ và hợp lý hơn về trách nhiệm, thẩm quyền của QH trong việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. QH có thẩm quyền "quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các loại thuế; quyết định phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương; quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ Chính phủ; quyết định dự toán ngân sách Nhà nước và phân bổ ngân sách Trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước".
Thứ tư, thẩm quyền của QH trong các vấn đề liên quan đến đối ngoại, chủ quyền quốc gia cũng đã được điều chỉnh lại theo hướng rõ hơn, chặt chẽ hơn. Bên cạnh việc tiếp tục quy định thẩm quyền của QH trong việc quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại, đã có sự điều chỉnh cụ thể, hợp lý hơn thông qua việc quy định thẩm quyền của QH trong việc phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia, tư cách thành viên của CHXHCN Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng, điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và điều ước quốc tế khác trái với luật, nghị quyết của QH.
Về vị trí, chức năng của chính phủ, đã được quy định trong Điều 109 Hiến pháp năm 1992 ( sửa đổi, bổ sung năm 2001), theo đó: “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Như vậy Hiến pháp năm 1992 mới chỉ đề cập đến Chính phủ với tư cách là cơ quan chấp hành, cơ quan hành chính Nhà nước còn Chính phủ với tư cách là cơ quan thực hiện quyền hành pháp chưa được làm rõ. Hiến pháp năm 2013 kế thừa đồng thời bổ sung để thể hiện một cách toàn diện tính chất, vị trí, chức năng của Chính phủ. Điều 109 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội”.
Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến VN, Hiến pháp chính thức khẳng định Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng giúp xác định cụ thể, rõ ràng, đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, vai trò của Chính phủ trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Bằng việc quy định "TAND là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp" (khoản 1 Điều 102), Hiến pháp năm 2013 xác định rõ ràng, cụ thể vị trí, vai trò của TAND trong bộ máy cơ quan nhà nước. Theo đó TAND là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp, thực hiện chức năng xét xử; TAND là cơ quan duy nhất có quyền ra phán quyết về các vi phạm pháp luật, các tranh chấp theo quy định của pháp luật và về các vấn đề pháp lý liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Xử lý các vi phạm pháp luật bằng chế tài nhà nước, giải quyết các tranh chấp bằng quyền lực nhà nước đều thuộc thẩm quyền của Tòa án. Vì vậy, quy định của Hiến pháp 2013 là cơ sở hiến định cho việc mở rộng thẩm quyền của Tòa án trong xét xử các loại án, thể hiện xu thế tất yếu của nhà nước pháp quyền.
Hiến pháp 2013 khẳng định vị trí trung tâm của Tòa án trong hệ thống tư pháp, vị trí trọng tâm của hoạt động xét xử trong các hoạt động tư pháp.
Cũng lần đầu thay cho thể hiện một cách chung chung, Hiến pháp 2013 quy định rõ ràng, cụ thể nhiệm vụ của TAND, đó là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Nhiệm vụ này được xác định xuất phát từ vị trí, vai trò và chức năng của TAND đã được xác định. Là cơ quan có chức năng ra phán quyết về các vi phạm pháp luật, các tranh chấp pháp lý, TAND có vai trò rất quan trọng trong bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Khi quyền, lợi ích của mình bị xâm phạm hoặc bị tranh chấp, người dân tìm đến Tòa án như là tìm đến công lý. Vì vậy, có thể nói, theo Hiến pháp 2013, Tòa án là biểu tượng của công lý và có nhiệm vụ bảo vệ công lý.
Theo Hiến pháp 2013, vị thế của TAND được nâng lên rõ rệt. Ngoài việc xác định là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp; quy định nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thể hiện vị trí trung tâm trong hệ thống tư pháp..., Hiến pháp 2013 có những quy định mới thể hiện vị thế quan trọng của Tòa án nhân dân trong bộ máy nhà nước ta. Bên cạnh quy định Chánh án TAND tối cao do QH bầu, Hiến pháp quy định Thẩm phán TAND tối cao do QH phê chuẩn tương xứng với các cán bộ cao cấp khác của cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp. Nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án được nhấn mạnh và ở tầm hiến định nghiêm cấm mọi tổ chức, cá nhân can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án; quy định mở về hệ thống Tòa án mở đường cho việc tổ chức Tòa án theo cấp xét xử, không theo đơn vị hành chính... là những quy định mới, không chỉ khẳng định vị thế của TAND trong Nhà nước pháp quyền mà còn là các cơ sở hiến định quan trọng để TAND thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của mình.
TAND là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, xử lý các vi phạm pháp luật, giải quyết các tranh chấp pháp lý. Để hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ đó, TAND được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc mang tính đặc thù. Và một điều đặc biệt, khác với QH, Chính phủ và chính quyền địa phương, các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, hoạt động của TAND được hiến định cụ thể tại Điều 103 Hiến pháp. Các nguyên tắc như xét xử có hội thẩm tham gia, nguyên tắc thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, nguyên tắc xét xử công khai, xét xử tập thể, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được tiếp tục ghi nhận và phát triển ở mức cao hơn, chính xác hơn. Quan trọng nhất, việc Hiến pháp quy định nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm là một bảo đảm hiến định quan trọng cho việc thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử. 
Đồng thời, Hiến pháp 2013 bổ sung một số nguyên tắc mới thể hiện tinh thần đổi mới trong Cải cách tư pháp ở nước ta, phù hợp với các công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử là một bảo đảm quan trọng giúp cho việc xét xử toàn diện, khách quan, bảo đảm quyền con người, quyền tố tụng của những người tham gia tố tụng, hạn chế thấp nhất các trường hợp oan sai trong hoạt động tố tụng tư pháp nói chung, trong xét xử của Tòa án nói riêng. Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được quy định trong Hiến pháp 2013 là việc nâng lên tầm hiến định nguyên tắc đã được quy định trong Luật Tổ chức TAND và các luật tố tụng tư pháp trước đây nhằm bảo đảm cho việc xét xử đúng đắn, khách quan, bảo vệ quyền con người, bảo vệ công lý.
Việc Hiến pháp 2013 quy định giao cho TAND tối cao thẩm quyền bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật (Điều 104) cũng là bảo đảm quan trọng trong hoạt động của Tòa án, phù hợp chức năng áp dụng pháp luật của cơ quan tư pháp. Điều này có nghĩa là ngoài tổng kết thực tiễn xét xử, hướng dẫn áp dụng pháp luật, TAND tối cao còn có thể bằng các hình thức khác nhau bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử như thực hiện giám đốc xét xử, ban hành án lệ...
Câu 7.
Hỏi: Cấp chính quyền địa phương quy định trong Hiến pháp năm 2013 gồm những cơ quan nào? Bạn hãy nêu nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của chính quyền địa phương đối với Nhân dân.
Trả lời:
Chương chính quyền địa phương của Hiến pháp năm 2013, được xây dựng trên cơ sở sửa đổi chương Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân của Hiến pháp năm 1992. Theo quy định tại Điều 110 của Hiến pháp 2013, thì các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau:
Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
Tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương;
Huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia thành phường.
Đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập. 
Theo quy định tại Điều 110 của Hiến pháp 2013,chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt do luật định. 
Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được quy định tại Điều 112 của Hiến pháp 2013:
+ Chính quyền địa phương tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên.
+ Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương.
+ Trong trường hợp cần thiết, chính quyền địa phương được giao thực hiện một số nhiệm vụ của cơ quan nhà nước cấp trên với các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đó.
+ Trong đó Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân.
+ Ủy ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên; Ủy ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao.
Câu 8.
Hỏi Hiến pháp 2013 quy định như thế nào về trách nhiệm của đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân với cử tri và Nhân dân?
Trả lời: 
Điều 79 Hiến pháp 2013 quy định trách nhiệm của đại biểu Quốc hội: 
+ Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình và của Nhân dân cả nước;
+ Đại biểu Quốc hội liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri; thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng của cử tri với Quốc hội, các cơ quan, tổ chức hữu quan; thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của đại biểu và của Quốc hội; trả lời yêu cầu và kiến nghị của cử tri; theo dõi, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và hướng dẫn, giúp đỡ việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo;
+ Đại biểu Quốc hội phổ biến và vận động Nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật.
Điều 115 của Hiến pháp 2013 quy định trách nhiệm của đại biểu HĐND :
+ Đại biểu Hội đồng nhân dân là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân địa phương; liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thực hiện chế độ tiếp xúc, báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Hội đồng nhân dân, trả lời những yêu cầu, kiến nghị của cử tri; xem xét, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo.

 

+ Đại biểu Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ vận động Nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật, chính sách của Nhà nước, nghị quyết của Hội đồng nhân dân, động viên Nhân dân tham gia quản lý nhà nước.


+ Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn Chủ tịch Ủy ban nhân dân, các thành viên khác của Ủy ban nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Thủ trưởng cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân. Người bị chất vấn phải trả lời trước Hội đồng nhân dân. Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền kiến nghị với các cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị ở địa phương. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị này có trách nhiệm tiếp đại biểu, xem xét, giải quyết kiến nghị của đại biểu.

Câu 9.
Hỏi: "Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”(trích lời nói đầu của Hiến pháp 2013)
Theo bạn, Nhà nước và mỗi người dân có trách nhiệm làm gì và làm như thế nào để thi hành và bảo vệ Hiến pháp?
Gợi ý Trả lời: 
Trách nhiệm của nhà nước:
Theo điều 3 Hiến pháp 2013: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân”. 
Theo điều 28 của Hiến pháp “Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân”.
Điều 52 Hiến pháp “Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, điều tiết nền kinh tế trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường; thực hiện phân công, phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước; thúc đẩy liên kết kinh tế vùng, bảo đảm tính thống nhất của nền kinh tế quốc dân”.
Điều 57 “ Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tạo việc làm cho người lao động. Nhà nước bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động và tạo điều kiện xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định”. 
Điều 63 “ Nhà nước có chính sách bảo vệ môi trường; quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên; bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu”.
Điều 64 “ Nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân mà nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới”.
Điều 68 “ Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của Nhân dân, giáo dục quốc phòng và an ninh cho toàn dân; xây dựng công nghiệp quốc phòng, an ninh; bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang nhân dân, kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh; thực hiện chính sách hậu phương quân đội; bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, chiến sỹ, công nhân, viên chức phù hợp với tính chất hoạt động của Quân đội nhân dân, Công an nhân dân; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ Tổ quốc”.
Trách nhiệm của mỗi người dân: 
Điều 15 “ Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội”.
Điều 44 “Công dân có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc”.
Điều 46 của Hiến pháp “Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật; tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng”. 
Điều 47 “Mọi người có nghĩa vụ nộp thuế theo luật định”…..

 

 

 

Tâm đắc với bổ sung điều 68

PN - Điều 68 (mới) có ba nội dung: “1. Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của Nhà nước, xã hội và là nghĩa vụ của mọi tổ chức, cá nhân. 2. Nhà nước có cơ chế, chính sách bảo vệ môi trường; quản lý, sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên; bảo tồn đa dạng sinh học; phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu.

Mọi hoạt động bảo vệ môi trường, phát triển năng lượng mới, năng lượng tái tạo, năng lượng sạch, sản xuất sạch và tiêu dùng sạch của tổ chức, cá nhân được Nhà nước khuyến khích. 3. Tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường, làm suy kiệt tài nguyên thiên nhiên và suy giảm đa dạng sinh học phải bị xử lý nghiêm và có trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại”. Tôi rất tâm đắc và thống nhất cao với việc dự thảo sửa đổi Hiến pháp lần này có bổ sung điều 68 quy định quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mọi người dân trong việc bảo vệ môi trường và các hình thức xử phạt đối với hành vi gây ô nhiễm môi trường vì thực tế hiện nay, ý thức của một số người dân còn quá kém. Chính từ ý thức kém nên việc tùy tiện vứt rác thải ra đường, xuống lòng sông; lấn chiếm sông rạch thu hẹp dòng chảy vẫn còn phổ biến. Nhiều công ty vẫn tùy tiện thải bỏ chất thải công nghiệp độc hại chưa được xử lý ra môi trường tự nhiên. Các loại khói bụi từ xe cộ, từ các cơ sở sản xuất vẫn từng ngày từng giờ thải vào môi trường. Hậu quả do môi trường ô nhiễm là hết sức lớn.

Ở khoản 3, điều 9 (sửa đổi bổ sung điều 9) chỉ rõ: Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động, tôi đề nghị cần thêm quy định về các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội khác như Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Cựu chiến binh… được quyền có ý kiến thêm.

Điều 27 (sửa đổi, bổ sung điều 63) có nội dung: 1. Công dân nam, nữ bình đẳng và có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình. 2. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền bình đẳng giữa công dân nữ và nam trên mọi lĩnh vực. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội. 3. Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử về giới. Theo tôi, điều 27 nhấn mạnh “công dân nam, nữ” dường như đã loại bỏ những công dân là người chuyển giới hoặc người lưỡng giới vì hiện nay có tình trạng lưỡng giới. Do đó, tôi đề xuất bỏ yếu tố giới, chỉ sử dụng từ “công dân” để đảm bảo quyền bình đẳng cho tất cả mọi người.

Tại khoản 2, điều 17 (sửa đổi, bổ sung điều 52) có nội dung: “Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”. Ý này chưa đầy đủ vì xã hội vẫn còn tình trạng phụ nữ bị bạo hành, bị đối xử không công bằng; hoặc vì thiếu hiểu biết, nhiều người lớn đã có hành vi ngược đãi, đánh đập trẻ em…Tôi đề nghị bổ sung như sau: “Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình”.

 

 

nguon VI OLET