QUAN HỆ MỸ-PHÁP TRONG GIAI ĐOẠN 1918-1939

MỤC LỤC

A. MỞ ĐU.............................................3

1. Lý do chọn đề tài.........................................3

2. Lịch sử nghiên cứu........................................3

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..............................4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..............................4

5. Các nguồn tài liệu........................................4

6. Phương pháp nghiên cứu....................................4

7. Bố cục tiểu luận..........................................5

B. NỘI DUNG............................................6

Chương 1: Khái quát quan hệ Mỹ - Pháp trước 1918.................6

1.1. Liên minh Pháp – Mỹ trong chiến tranh chống Anh.................6

1.1.1. Quá trình di dân đến Bắc Mỹ...............................6

1.1.2. Liên minh chống Anh giữa Mĩ – Pháp hình thành.................7

1.2. Mối quan hệ Mỹ - Pháp trong quá trình mở rộng lãnh thổ.............11

Chương 2: Quan hệ Mỹ - Pháp trước nguy cơ chiến tranh thế giới bùng nổ.17

2.1. Tình hình của nước Pháp trong những năm 20, 30 của thế kỷ XX.......17

2.2. Tình hình của nước Mỹ trong những năm 20, 30 của thế kỷ XX........18

2.3. Quan hệ Mỹ-Pháp từ 1918-1939.............................20

2.3.1. Chính sách đối ngoại của Pháp trước nguy cơ chiến tranh thế giới 2 bùng nổ.....20

2.3.2. Chính sách đối ngoại của Mỹ trước nguy cơ chiến tranh thế giới 2 bùng nổ.

.....................................................21

2.3.3. Pháp-Mĩ trong trục đế quốc Anh-Pháp-Mỹ.....................23

Chương 3: Tác động của quan hệ Mỹ Pháp đến tình hình thế giới 1918-1939 25

C. KẾT LUẬN...........................................28

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................29


A. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc với sự thất bại của phe Liên minh, nhiều vấn đề quan trọng đòi hỏi phải có sự giải quyết kịp thời. Và Hệ thống hòa ước Vécxai – Oasinhtơn được thiết lập để giải quyết những hậu quả của chiến tranh thế giới thứ nhất để lại. Tuy nhiên, bản thân Hệ thống hòa ước Vécxai – Oasinhtơn chứa đựng bên trong nó đầy rẫy mâu thuẫn, đó là mâu thuẫn giữa các nước Phát xít chiến bại do bị các nước thắng trận chèn ép nên quyết chí phục thù, ngoài ra thì mâu thuẫn giữa các nước đế quốc thắng trận với nhau cũng rất căng thẳng xoay quanh quyền lợi đạt được của quốc gia.

Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới bắt nguồn từ Mỹ cũng làm các nước tư bản suy yếu trầm trọng. Và để giải quyết hậu quả, giới cầm quyền các nước tư bản đã chọn cho mình những hướng đi riêng để giải quyết cuộc khủng hoảng: Một là đi theo con đường Phát xít hóa bộ máy nhà nước và con đường cải cách kinh tế, xã hội giữ nguyên trật tự Vécxai – Oasinhtơn. Hai xu hướng trên đã đưa đến sự ra đời của hai khối đế quốc đối kháng nhau: Khối đế quốc phát xít Đức-Ý-Nhật và khối các nước dân chủ Anh-Pháp-Mỹ. Cùng tồn tại với hai khối đó là sự xuất hiện của Liên Xô với chủ trương hòa bình, chống phát xít. Nhưng thiện chí của Liên Xô đã không được các nước ủng hộ vì sự đối lập về thể chế chính trị. Hai khối đế quốc muốn tiêu diệt Liên Xô nhưng chưa khối nào có đủ tiềm lực để thực hiện điều đó. Tình hình này đã tạo nên cục diện ba lực lượng chính trị với ba đường lối đối ngoại khác nhau, nó phản ánh những mâu thuẫn sâu sắc của quan hệ quốc tế trước khi thế chiến II bùng nổ. Chủ trương của Anh-Pháp-Mỹ mang tính hai mặt, muốn tiêu diệt phát xít nhưng cũng muốn mượn tay phát xít để tiêu diệt Liên Xô. Còn các nước Phát xít thì mong muốn gây ra chiến tranh để phân chia lại thế giới.

Với cục diện như thế thì 2 nước Mỹ và Pháp trong khối Anh-Pháp-Mỹ sẽ có những động thái như thế nào để giả quyết tình hình. Đó là điều mà tác giả thắc mác và muốn tìm hiểu. Vì thế mà tác giả chọn đề tài “Quan hệ Mỹ-Pháp trong giai đoạn 1918-1939 làm bài tiểu luận của mình

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Đối với vấn đề “Quan hệ Mỹ-Pháp trong giai đoạn 1918-1939thì đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này, tuy nhiên chỉ đề cập đến một số khía cạnh nhỏ của vấn đề, chứ chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hoàn chỉnh về quan hệ Mĩ-Pháp.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích: Trình bày quan hệ giữa Mỹ-Pháp trước khi chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ.

Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích nêu trên, đề tài phải thực hiện các nhiệm vụ cơ bản sau đây:

Trình bày khái quát về những nhân tố chủ yếu chi phối mối quan hệ giữa Anh - Pháp - Mỹ trước nguy cơ thế chiến bùng nổ.

 Làm rõ mối quan hệ Pháp – Mỹ trước khi chiến tranh thế giới lần thứ II nổ ra.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là “Quan hệ Mỹ-Pháp trong giai đoạn 1918-1939

Phạm vi nghiên cứu:

+ Về không gian: chủ yếu là nghiên cứu mối quan hệ giữa Pháp-Mỹ

+ Về thời gian: Quan hệ Mỹ-Pháp trong giai đoạn 1918-1939

5. Các nguồn tài liệu

Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ của đề tài, tác giả đã kế thừa những kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước, thể hiện qua việc khai thác các nguồn tư liệu sau:

Thứ nhất: Giáo trình do các tác giả viết như: Lịch sử thế giới hiện đại của Lê Văn Anh, Quan hệ quốc tế thời hiện đại của Lê Văn Anh – Hoàng Thị Minh Hoa, Lịch sử thế giới hiện đại của Nguyễn Anh Thái, Lịch sử quan hệ quốc tế từ đầu thời cận đại đến kết thúc thế chiến thứ 2 của Vũ Dương Ninh…

Thứ hai: Bài viết từ tạp chí châu Mỹ ngày nay…

6. Phương pháp nghiên cứu

Bài viết của tôi kết hợp giữa phương pháp lịch sử và logic. Ngoài ra tôi còn sử dụng các phương pháp phân tích, chọn lọc, phân loại, tổng hợp, so sánh…nhằm xử lý tài liệu.

7. Bố cục tiểu luận

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung tiểu luận chia làm 3 chương:

Chương 1: Khái quát quan hệ Mỹ - Pháp trước 1918

Chương 2: Quan hệ Mỹ - Pháp trước nguy cơ chiến tranh thế giới bùng nổ

Chương 3: Tác động của quan hệ Mỹ Pháp đến tình hình thế giới 1918-1939

 


B. PHẦN NỘI DUNG

Chương 1: Khái quát quan hệ Mỹ Pháp trước 1918

Nước Mỹ chính thức được thành lập vào ngày 4-7-1776 so với các nước trên thế giới thì vào loại khá muộn. Nước Mỹ trước kia là nơi sinh sống của các bộ lạc người Inndian cho đến khi bị người châu âu xâm nhập vào thế kỷ XV, XIV. Đầu thế kỷ XVII, Anh, Pháp, Tây Ban Nha đưa nô lệ da đen từ châu Phi tới Mỹ để khai thác tài nguyên. Đến giữa thế kỷ XVIII, Anh đã thiết lập được sự thống trị ở Đông Bắc Mỹ. Ngày 19-4-1775, những cuộc đấu tranh cách mạng đầu tiên nổ ra ở Boxton. Ngày 4-7-1776, 13 bang thuộc địa của Anh đã thống nhất lại thành Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (Mỹ) và tuyên bố độc lập. Cuộc nội chiến ở Mỹ (1861-1865) đã dẫn đến việc thủ tiêu chế độ nô lệ ở Mỹ. Sau đó, Mỹ trở thành nước TBCN phát triển nhất thế giới. Mỹ cũng là nước tham chiến trong hai cuộc chiến tranh thế giới và là nước giành thắng lợi.

1.1. Liên minh Pháp Mỹ trong chiến tranh chống Anh.

1.1.1. Quá trình di dân đến Bắc Mỹ

Sau khi C. Colombo tìm ra châu Mỹ vào năm 1492 thì sau đó nhiều nhà thám hiểm cùng di dân châu Âu đã đến đây để khai phá vùng đất mới này vào những năm đầu thế kỷ XVI. Người châu Âu chỉ biết đến châu Mỹ sau phát kiến địa lý, nhưng trước đó chủ nhân thực sự của miền đất này là cư dân bản địa người da đỏ, mà tên gọi đó là người Anh điêng.

Nhưng từ khi được tìm thấy thì quá trình xâm lược tàn bạo của cư dân châu Âu cũng bắt đầu từ thế kỷ XVI. Người Tây Ban Nha là người đầu tiên đặt chân lên đất Florida và đến giữa thế kỷ XVI, họ đi sâu vào lục địa châu Mỹ qua Carolina tiến đến bờ sông Mississipi rồi sau đó vào vùng Texas năm 1635. Vài năm sau người Tây Ban Nha tới miền New Mexico, Arizona, Kansas và California. Đầu thế kỷ XVI, người Pháp bắt đầu chú ý xâm lược vùng đất này. Họ xây dựng cơ sở ở Canada, năm 1540 đặt thương điếm của Pháp bên bờ sông Hutson, sau đó tiến vào tiểu bang Georgia thành lập vùng đất Louisiana thuộc Pháp vào thế kỷ XVII. Hà Lan cũng là nước mạnh, công ti Đông Ấn Hà Lan đã sang Bắc Mỹ và mở đầu công cuộc khai hóa. Năm 1614 Hà Lan thành lập đất New Amsterdam . “Việc phát hiện ra châu Mĩ đã mở ra một quá trình di dân ồ ạt từ châu Âu sang Bắc Mĩ trong suốt 3 thế kỷ (thế kỷ XVI – thế kỷ XVIII). Muộn hơn người Tây Ban Nha đến vùng Trung và Nam Mỹ, những di dân người Anh đặt chân lên Bắc Mĩ vào những thập niên đầu thế kỉ XVII, thiết lập vùng định cư đầu tiên ở Giêmxtao (Jamestown). Năm 1607 có khoảng 100 người, đến 1624 có 14000 người di trú ở vùng này. Số người đến ngày càng tăng và lan rộng ra nhiều vùng đất ven Đại Tây Dương. Ngoài người Anh, nơi đây cũng đã xuất hiện những cộng đồng người Hà Lan, người Thụy Điển, người Pháp…” [8, 20].

Tuy vậy công cuộc xâm lược của Anh là mạnh mẽ và có hiệu quả hơn cả. Cuộc đấu tranh gay gắt trong nước Anh trước cuộc cách mạng 1640 là nguyên nhân tạo sóng di cư rộng lớn ra nước ngoài tìm đất sống. Họ ra đi vì cuộc sống kinh tế như nông dân, dân nghèo thành thị. Có người ra đi vì tư tưởng bất đồng giữa tín dồ thanh giáo và Anh giáo. Có trường hợp vì muốn tìm một cuộc sống mới thỏa mãn niềm khao khát về một miền đất lạ. Nhưng nguồn di thực chủ yếu vẫn là nông dân mất đất, không còn cách sinh sống trên đất Anh.

Nguyên nhân làm Anh thắng lợi trong quá trình xâm thực là tính ưu thắng của nền kinh tế Anh bấy giờ vượt trội so với các nước; một yếu tố quan trọng khác là cuộc cách mạng ruộng đất ở Anh diễn ra tàn bạo và triệt để; nề chính trị Anh hồi thế kỷ XII cũng làm công cuộc di dân diễn ra mạnh mẽ. “Những di dân người Anh sang Bắc Mỹ thường do các nguyên nhân sau đây: 1. Việc rào đất nuôi cừu ở nước Anh đã làm cho đông đảo nông dân không có nơi nương thân, phải rời bỏ quê hương đi tìm kiếm việc làm, vượt biển sang miền “đất hứa”; 2. Để trốn chạy vì những biến động chính trị của thời cách mạng; 3. Để tránh những vụ xung đột tôn giáo giữa người theo Thanh giáo với Giáo hội Anh. Sau đó, khả năng làm giàu do khai phá đồn điền và phát triển thương mại ngày càng thu hút nhiều người sang Bắc Mỹ” [8, 20].

1.1.2. Liên minh chống Anh giữa Mĩ – Pháp hình thành

Sự kiện mở đầu cho cuộc chiến tranh giữa 13 bang thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ và đế quốc Anh đó là sự kiện chè Bôxtơn tháng 12/1773. Khi 3 chiếc tàu chở chè neo tại bến, thực dân Anh dỡ hàng nhưng bị nhân dân chống lại. Đến đêm 16/12, một nhóm người ngụy trang thành người da đỏ đã leo lên tàu lấy 343 thùng chè ném xuống biển. Nhân dân Bắc Mĩ coi đó là chiến thắng còn Anh thì nổi giận ra hàng loạt sắc luật nhằm trừng trị Bắc Mĩ và đòi nhân dân Bôxtơn bồi thường. Chiến tranh là khó có thể tránh khỏi.

Những người lãnh đạo phong trào cách mạng đã tổ chức Hội nghị để biểu lộ ý chí chung. Và rồi Hội nghị lục địa lần thứ nhất được triệu tập sau đó là Hội nghị lục địa lần hai họp ngày 10-5-1775 nhằm giải quyết những vấn đề cụ thể của chiến tranh. Hội nghị quyết định thành lập “Quân đội lục địa”, để bổ nhiệm Oasinhton làm chỉ huy. Hội nghị kêu gọi nhân dân tự nguyện tham gia đóng góp xây dựng quân đội.

Chính quyền Anh quyết tâm đàn áp thuộc địa, tăng cường quân đội. Chúng tuyên bố dùng chính sách vũ lực phong tỏa lục địa, thông qua ngân sách chiến tranh. Quân số tăng lên 55.000 được đưa sang ngay Bắc Mĩ. Quân Anh không tình nguyện sang đánh nhau ở Bắc Mĩ nên vua Anh phải dùng lính Hesse đánh thuê, điều này làm nhân dân Bắc Mĩ căm ghét lính Hesse và mâu thuẫn với vua Anh ngày càng gay gắt. Những người Bắc Mĩ ý thức được nền độc lập khẩn thiết của mình. Hội nghị lục địa lần thứ hai đi đến quyết nghị xác định quyền độc lập, tự do của Bắc Mĩ. Và sau đó bản Tuyên ngôn độc lập của Hợp chúng quốc Mĩ ra đời (1776) đánh dấu nền độc lập của Liên bang.

Cuộc chiến tranh của nhân Mĩ gặp rất nhiều bất lợi, quân đội trang bị thô sơ, thiếu lực lượng hải quân. Người chỉ huy chưa được đào tạo. Tuy nhiên đứng về nhân dân Mĩ thì đó là cuộc chiến tranh chính nghĩa được nhân dân ủng hộ lại tiến hành trên đất Mĩ. Nó huy động mọi tầng lớp nhân dân, có đến hàng chục ngàn nô lệ tham gia. Tuy vậy, số lượng quân khởi nghĩa ít, thêm vào đó là trang bị nghèo nàn, đến mùa đông 1776 chỉ có vỏn vẹn 3000 quân.

Cuộc chiến tranh giữa Anh và Mĩ diễn ra trong bối cảnh quan hệ quốc tế, mà đặc biệt là các nước châu Âu đang xảy ra mâu thuẫn. Nỗi bật đó là mâu thuẫn trong vấn đề tranh giành đất đai ở Bắc Mỹ của Anh và Pháp. Trong “một rừng” không thể nào “tồn tại mọt lúc hai con hổ” được, cho nên để giải quyết vấn đề đất đai ở Bắc Mỹ thì Anh và Pháp đã chọn chiến tranh để giải quyết. “Để giải quyết những vấn đề trên, hai bên tiến hành 4 cuộc chiến tranh trên phạm vi hai lục địa Âu-Mỹ: Chiến tranh Palatinate (1688-1697), Chiến tranh Thừa kế Tây Ban Nha (1701-1713), Chiến tranh Thừa kế Áo (1740-1748) và chiến tranh Bảy năm (1756-1763). Cả bốn cuộc chiến tranh này, nước Pháp đều thất bại, chấp nhận ký Hòa ước Paris (1763). Theo hòa ước này, Anh chiếm Canada, Nova Scotia, Cape Breton và Florida. Nước Pháp từ bỏ chủ quyền tại đây” [4, 61].

Khi mà cuộc chiến tranh giành độc lập của 13 bang thuộc địa Bắc Mỹ diễn ra thì nước Pháp đã hết sức vui mừng, và cho đây là cơ hội tốt nhất để Pháp đòi lại món nợ với Anh. Mọi việc làm của Pháp đều hướng sự giúp đỡ đến Mĩ, một liên minh sau đó đã được hình thành sau khi Anh thất bại ở Saratoga (10/1777). “Nước Pháp đón nhận tin tức về cuộc chiến tranh chống Anh ở Bắc Mĩ trong niềm hân hoan. Nhân dân và giới trí thức đánh giá đây là một sự kiện tiến bộ nhằm thiết lập chế độ xã hội mới dân chủ và công bằng [8, 25]. “Dư luận Pháp đã chăm chú theo dõi và đã bày tỏ tình cảm đối với nhân dân Mỹ. “Giới trí thức Pháp rất vui mừng khi được biết các thuộc địa Bắc Mỹ long trọng công bố những nguyên tắc chính trị mà họ hằng mong ước thực hiện”. Nhiều sĩ quan trẻ tuổi Pháp thuộc tầng lớp quý tộc, như quận công La Fayette, Hầu tước De Lauzun, Bá tước Ségur…tình nguyện sang Mỹ cùng tham gia chiến đấu với quân đội của G. Washington” [4, 61].

Mùa xuân năm 1777, Oasinhton bị thất bại ở Giecmantao. Quân đội Anh định nhân cơ hội này để quét sạch nghĩa quân bằng cuộc tấn công quy mô lớn, nhưng nghĩa quân của Oasinhton đã đánh tan quân Anh trong trận Saratôga vào ngày 17-10-1777. Đây là trận đánh mang ý nghĩa lớn lao, nó như bước ngoặt của lịch sử chiến tranh giành độc lập ở Bắc Mĩ. Chiến thắng đó chứng tỏ rằng lực lượng nghĩa quân đã lớn mạnh, có thể đương đầu với lực lượng mạnh hơn và giành chiến thắng. Thắng lợi này cũng đã tạo cơ hội cho Pháp nhảy vào cuộc chiến để trả thù Anh cướp  mất Canada. “Chính phủ Pháp dưới triều đại Buốcbông (Bourbon) cũng hưởng ứng cuộc đấu tranh này nhưng với động cơ khác. Họ coi đây là cơ hội để trả thù nước Anh do sự thất bại của Pháp trong cuộc chiến tranh giành giật đất đai ở Bắc Mĩ. Theo hòa ước năm 1763, Pháp phải trao cho Anh toàn bộ vùng đất đã chiếm gồm Canada, miền Hồ Lớn, thượng nguồn lưu vực sông Mitxixipi. Thất bại đó đã làm sụp đổ giấc mơ về một đế chế Pháp tại đây” [8, 25].

Tình hình ở trong nước cũng như ở Bắc Mỹ đang ủng hộ ý đồ trả thù của Pháp đối với Anh. Tuy vậy Pháp còn tỏ ra khá dè dặt trong việc đứng chung “trên một con thuyền” với Mỹ do trong nội các Louis XVI đang xảy ra những bất đồng quan điểm giữa Tổng trưởng tài chính – Turgot và Tổng trưởng ngoại giao – Vergennes. Cuối cùng phe Vergennes thắng thế với ý kiến tận dụng chiến tranh. Mỹ đã thấy được cơ hội của mình trong tình hình của Pháp và lên kế hoạch thiết lập một liên minh với Pháp.

Trong giai đoạn chiến tranh với Anh, Mĩ nhận thấy được ý đồ của Pháp nên cũng muốn liên minh với Pháp. Và điều đó được cụ thể hóa khi Benjamin Franklin được cử làm đại diện của Mĩ ở Paris. B. Franklin được kỳ vọng sẽ giúp nước Mĩ thiết lập được quan hệ ngoại giao với Pháp, và với tài trí của mình, Franklin đã làm được điều mà nước Mĩ mong muốn. “Để thiết lập và tăng cường mối liên hệ với chính phủ Pháp, Franklin được cử làm đại diện của Mĩ ở Pari. Bằng trí thông minh và tài ngoại giao khéo léo, Phranklin đã giành được cảm tình của nước Pháp và qua đó đóng góp tích cực cho liên minh Pháp Mĩ” [8, 25].

Pháp giúp đỡ Mĩ bằng cách cung cấp vũ khí và đạn dược trên những chuyến tàu sang Bắc Mĩ. Sau đó, hiệp định liên minh giữa Hoa Kì và Pháp được kí kết vào ngày 6-2-1778. Pháp tuyên bố chỉ ký hòa ước với Anh khi Anh thừa nhận nền độc lập của 13 bang thuộc địa. Đây là thắng lợi lớn về mặc ngoại giao của Mĩ sau khi tuyên bố độc lập, giờ đây Mĩ đã có đồng minh cho riêng mình. Liên minh này càng bền chặt hơn khi Hiệp định hữu nghị và thương mại được ký kết vào 2-1778, trong đó Pháp chính thức công nhận Mỹ là một quốc gia độc lập, có chủ quyền riêng. Tiếp đó là viện trợ về quân sự, với những giúp đỡ to lớn đó của Pháp, Mĩ đã giành được thắng lợi trong cuộc chiến tranh với Anh và buộc Anh phải công nhận nền độc lập của mình. “Tháng 7/1780, vua Pháp Lui XVI gửi tiếp một đội quân viễn chinh 6000 người sang chiến đấu cùng quân đội Mĩ. Đồng thời, hạm đội Pháp phối hợp với hạm đội Mĩ tuần tiểu trên biển ngăn cản lực lượng tăng viện và tiếp tế của Anh. Với 18000 quân của liên quân Pháp – Mĩ, cuộc chiến tranh cách mạng đạt được nhiều thắng lợi. Quân Anh sau khi bị thua trận ở Ioóctao (9/1781) đã mất hi vọng chiến thắng. Nhưng phải đến 2 năm sau, do kết quả đàm phán hòa bình ở Pari, nước Anh mới công nhận nền độc lập tự do và chủ quyền của 13 thuộc địa cũ, có ranh giới lãnh thổ từ bờ Đại Tây Dương, phía tây đến sông Mixixipi, phía bắc đến Canada và phía nam đến Phloriđa, trừ một vài vùng trao trả Tây Ban Nha. Nơi đây đã trở thành 13 tiểu bang tự do và độc lập, nền tảng ban đầu của nước Mĩ ngày nay” [8, 26].

Việc hình thành nên liên minh Pháp-Mỹ là một bước ngoặt trong cuộc chiến tranh giành độc lập của 13 bang thuộc địa Bắc Mỹ. Với tài ngoại giao khôn khéo của mình, chính quyền Mỹ, đứng đầu là Washington cùng với nhà ngoại giao B. Franklin đã thiết lập được liên minh với Pháp và đồng thời qua Pháp Mĩ đã kết bạn với nhiều nước châu Âu như Hà Lan, Đan Mạch, Tây Ban Nha, Nga và Thụy Điển từ đó đã đẩy Anh vào thế cô lập, tạo nên thời cơ chín mùi cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước.

1.2. Mối quan hệ Mỹ - Pháp trong quá trình mở rộng lãnh thổ.

Sau khi tách ra khỏi sự lệ thuộc vào nước Anh, nước Mỹ đã xây dựng chính quyền cho riêng mình. Dân cư nước Mỹ ngày càng đông lên nhưng với diện tích ban đầu khá là nhỏ cho nên nhân dân Mỹ đã tiến hành các cuộc di cư sang phía Tây để tìm những vùng đất mới để họ định cư ở đó. “Phong trào Tây tiến diễn ra vào thời kỳ trong và sau cách mạng. Đó là tình trạng cư dân vùng biên cương (Frontiers) kéo đến định cư ở các vùng đất phía Tây ngày càng đông. Họ không chỉ dừng lại các vùng đất nằm trong biên giới của Liên bang mà còn tiến sâu vào vùng nội địa nằm dưới sự quản lý của các cường quốc khác [3, 70].”

Nhằm ràng buộc các khu định cư của lãnh thổ mới với Liên bang, đồng thời khuyến khích cư dân tiếp tục khai phá những vùng đất mới, ngày 13-7-1787. Quốc hội Mỹ dưới thời “Các điều khoản hợp bang” đã thông qua Sắc lệnh Tây Bắc (Northwest Ordinance). Sắc lệnh đã đưa ra những điều kiện để dân Mỹ di cư có thể thành lập được chính quyền riêng.

Sắc lệnh Tây Bắc có ý nghĩa quan trọng đối với người Mỹ, đặc biệt là dân cư vùng biên giới. Sắc lệnh đã trao tự do cho công dân Mỹ, những khu vực hoang vu trước đây sẽ có người đến sinh sống, có chính quyền tự trị và sẽ có quyền lợi giống như những tiểu bang đầu tiên của nước Mỹ. Sắc lệnh này là cơ sở pháp lý để khuyến khích dân di cư đến những vùng đất mới, thậm chí là những vùng đất nằm dưới quyền quản lý của các quốc gia khác.

* Chính sách mở rộng lãnh thổ dưới thời tổng thống Jefferson.

Jefferson là vị tổng thống thứ 3 của nước Mỹ, ông có vai trò nổi bậc khi “nhân đôi lãnh thổ nước Mỹ” bằng việc mua lại vùng đất Louisiana của Pháp. Ông giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao dưới thời Tổng thống G. Washington. Vào thời điểm đó, Bộ Ngoại giao chịu trách nhiệm giải quyết các vấn đề quốc nội và hải ngoại, trừ những vấn đề thuộc phạm vi điều khiển của Bộ Tài chính và Bộ chiến tranh. Ông khẩn thiết kêu gọi Mỹ nên thiết lập quan hệ gần gũi với Pháp và tỏ ra thận trọng với nước Anh. Là người đứng đầu một trong 3 bộ quan trọng nhất của nước Mỹ khi đó, T. Jefferson đã tạo dựng cho Bộ Ngoại giao một nề móng hoạt động vững chắc với ngân sách hằng năm chưa đầy 10.000 đô la.

Với những uy tín tạo dựng được đồng thời biết nắm thời cơ, năm 1801, ông trúng cử chức vụ Tổng thống. Trong hai nhiệm kỳ đảm nhiệm cương vị (1801-1809) ông đã có những đóng góp to lớn đối với đất nước không chỉ trên lĩnh vực đối nội mà còn cả đối ngoại.

Về đối nội, vấn đề khám phá dãi đất rộng lớn chưa ai biết đến nằm giữa con sông Missouri và Thái Bình Dương luôn là mục tiêu của Jefferson. Sau khi thương vụ Louisiana hoàn tất, từ 1804-1806, ông cử hai thư ký riêng của mình là Meriwether Lewis và William Clack dẫn đầu đoàn thám hiểm băng qua nhiều con sông, đồi núi và tiến đến Thái Bình Dương. Những khám phá mới lạ của họ đã cung cấp cho các học giả thời bấy giờ những thông tin mới lạ.

Về đối ngoại, thành công rực rỡ của Jefferson trên lĩnh vực này chính là mua lại toàn bộ vùng Louisiana của háp và năm 1803. Thương vụ này thành công làm diện tích lãnh thổ Mỹ tăng lên gấp đôi.

Như vậy có thể thấy rằng, đóng góp của Jefferson trong quá trình mở rộng lãnh thổ Mỹ là rất lớn. Mặc dù lúc đầu việc mua lại Louisiana của Jefferson không một điều khoản nào trong Hiến pháp cho phép chính quyền Liên bang tiến hành. Đầu tiên Louisiana là khu vực chiếm đóng của Pháp. Do thất bại trong cuộc chiến tranh Bảy năm (1756-1763) với Anh, Pháp đã ký hiệp ước Paris (1763), trong đó Anh buộc Pháp chuyển nhượng Louisiana cho Tây Ban Nha. Bắt đầu từ thời điểm này, Louisiana nằm dưới sự cai quản của Vương triều Madrid.

Từ khi Louisiana rơi vào tay Tây Ban Nha, chính giới Pháp vẫn nuôi hy vọng giành lại lãnh thổ đã mất. Cụ thể là, trong thời gian đảm nhiệm cương vị công sứ Pháp tại Mỹ (1787-1789), Eléanore Francois Élie Moustier gửi tập tài liệu có độ dài 330 trang lên Cơ quan đối ngoại triều đình Versailles, phác thảo những giá trị lợi nhuận dành cho nước Pháp một khi tái chiếm vùng đất này. Tập tài liệu này chỉ rõ Louisiana tuy ít giá trị đối với Tây Ban Nha song đáp ứng một cách hữu ích đối với Pháp bằng việc cung cấp cho các quần đảo đường thuộc Pháp nguồn thực phẩm và gỗ, những thứ mà tại thời điểm này phải nhập khẩu từ Mỹ. Sau đó, năm 1790, Công sứ Pháp đầu tiên của nước Pháp cách mạng đến Mỹ, Edmund Genet, lôi kéo một binh đoàn cư dân Mỹ vùng biên cương xuôi dòng sông Mississippi, tấn công tập hậu vào vùng đất Louisiana, chiếm New Orleans của Tây Ban Nha, lúc bấy giờ là kẻ thù của Pháp, song ý định này bất thành. Dưới thời Đốc chính (1794-1799), Tổng trưởng  Ngoại giao Pháp, Talleyrand, cũng nhận thấy Louisana là vùng đất có giá trị chiến lược, là “vựa lúa tương lai” cung cấp lương thực cho các thuộc địa Pháp ở vùng biển Caribbean. Mặc khác do lo sợ trước sự bành trướng mạnh mẽ của cư dân Mỹ sinh sống ở vùng biên cương, nơi giáp ranh với Louisiana, nên Talleyrand muốn thúc ép Vương triều Madrid nhượng lại Louisiana cho Pháp. Dưới nhãn quan của Talleyrand, trong trường hợp Tây Ban Nha nhượng cho Pháp vùng đất Louisiana và Florida thì sức mạnh của Pháp sẽ là bức tường bằng đồng thau vĩnh cửu không thể xuyên thủng trước những nổ lực kết hợp của Anh và Mỹ”; đồng thời các nước thuộc địa của Tây Ban Nha ở khu vực này, trước hết là Mexico và California sẽ được giữ vững. Do vậy, Talleyrand nhiều lần chỉ thị cho công sứ Pháp ở Madrid thuyết phục chính giới Tây Ban Nha chấp nhận quan điểm nói trên.

Trong khi đó, kể từm 1795 trở đi, Vương triều Madrid nhận thấy Louisiana là “vùng đất không an toàn và mang lại giá trị lợi nhuận thấp”, luôn nằm trong tình trạng lộn xộn, được bảo về bởi hệ thống thành lũy kém kiên cố và đại bác lạc hậu. Vả lại, từ khi cai quản vùng đất này, số tiền mà Tây Ban Nha bỏ ra để quản lý nó là không hề nhỏ, nhưng ngược lại lợi nhuận thu vào không bao nhiêu nên Tây Ban Nha đã cân nhắc đến việc nhượng lại cho Pháp. “Theo ước tính năm 1797, số tiền mà Tây Ban Nha giành cho việc quản lý nó là 795.000 đô la, trong khi đó, nguồn thu nhập ở đây chỉ đạt 257.000 đô la” [3, 79].

Đối với Tây Ban Nha việc khai thác và sử dụng Louisiana là không có hiệu quả, khó khăn trong việc phòng thủ và tốn kém trong quản lý khiến Louisiana trở thành gánh nặng với vương triều Madrid. Nắm bắt được sự yếu kém đó đồng thời lợi dụng sự nhu nhược của vương triều Madrid, ngay sau khi lên cầm quyền sau cuộc đảo chính ngày 18 tháng Sương mù, Napoleon ép chính phủ Tây Ban Nha bí mật ký hiệp ước Ildefonso vào ngày 1-10-1800. Bản hiệp ước cho phép Pháp khôi phục lại quyền kiểm soát Louisiana mà quốc gia này bị mất vào tay Tây Ban Nha vào năm 1763”, Song Tây Ban Nha vẫn giữ được quyền kiểm soát con sông Mississipi và hải cảng New Orleans.

Chiếm đóng trở lại Louisiana trong ý đồ của Napoleon là muốn biến vùng đất này thành một đế quốc thuộc địa rộng lớn tại Tây bán cầu, nhằm ngăn chặn sự phát triển nền thương mại của tất cả các đô thị ở bờ Đông nước Mỹ, tạo ra một vành đai cản trở sự rộng mở lãnh thổ của cư dân vùng biên cương sang phía Tây, mặt khác chặn đứng sự bành trướng của thế lực Anh ở khu vực này.

Về phía Mỹ, thực hiện Sắc lệnh Tây Bắc (1787), cư dân vùng biên cương đã vượt dãy Appalachian sang định cư dọc theo thung lũng Mississipi. Dân cư mĩ di cư đến đây ngày càng tăng theo số liệu ước tính là rất lớn. Việc di cư tìm những vùng đất mới ngoài lãnh thổ nước Mỹ hiện tại là nhu cầu tất yếu, bởi lẽ dân số ngày càng đông lãnh thổ 13 bang lúc đầu không thể đáp ứng được nhu cầu của họ nên di cư là con đường có hiệu quả nhất. “Chỉ trong vòng 10 năm, số lượng các cư dân Mỹ ở các tiểu bang, như sau: ở Georgia tăng từ 82.548 người (1790) lên 161.414 người (1800); ở Kentucky với các con số tương ứng là 73.677 và 220.995; ở Tennessee là 35.691 và 105.602. Riêng ở tiểu bang Ohio là 45.365 (1800) [3, 81].

Lãnh thổ Bắc Mỹ có hệ thống giao thông đường thủy khá phát triển vì ở đây có hệ thống sông dày đặc nên dân cư thường di chuyển theo đường sông để đi lại và buôn bán. “Hằng năm có trên 150 thuyền buôn quốc tịch Mỹ xuôi ngược dòng sông Mississipi vận chuyển hơn 20.000 tấn hàng hóa như: bột mì, bông vải, đường, quặng sắt, thừng chão, chì, thuốc lá và lông thú. Chỉ riêng năm 1801, giá trị hàng hóa luân chuyển trên sông Mississipi ước tính 1.095.412 đô la” [3, 81]. Điều kiện tự nhiên vốn có đã đem lại những khoản lợi nhuận khổng lồ cho cư dân Mỹ. Nhưng trước âm thâm độc của Pháp dưới triều đại Napoleon muốn Tây Ban Nha chuyển nhượng lại vùng đất này đã tác động đến nước Mỹ trong bối cảnh chiến dịch vận động tranh cử Tổng thống năm 1796 giữa các đảng phái hết sức quyết liệt.

Trước việc Pháp định tái chiếm Louisiana và New Orleans, ngày 18-4-1802, trong công hàm gửi công sứ Mỹ ở Paris – Robert Livington, Tổng thống T. Jefferson cho rằng: “Trên quả địa cầu, có điểm duy nhất mà người sở hữu nó là kẻ thù tự nhiên và quen thuộc của chúng ta. Đó là New Orleans, nơi mà 3/8 sản phẩm trên toàn lãnh thổ của chúng ta phải thông qua để ra thị trường, và từ sự màu mỡ của nó, New Orleans sẽ mang lại cho chúng ta hơn một nữa sản phẩm trên cả nước và là nơi cư ngụ hơn một nữa dân số chúng ta…[Do đó], ngày mà nước Pháp chiếm giữ New Orleans…từ tình thế này chúng ta (nước Mỹ) phải liên minh với hạm đội Anh và dân tộc Anh” [3, 83]. T. Jefferson còn gửi một bức thư riêng đến Pierre Samuel du Pont de Nemours, một chính khách Pháp với tư tưởng tiến bộ, nhờ nhân vật này thuyết phục giới cầm quyền Pháp mà trước hết là Napoleon, từ bỏ ý định tái chiếm Louisiana.

Sự cố gắng của T. Jefferson chưa mang lại kết quả thì vào ngày 16-10-1802, Toàn quyền Tây Ban Nha ở New Orleans, Morales, ra lệnh thủ tiêu “quyền ký gửi” - một đặc quyền cho phép cư dân Mỹ lưu giữ hàng hóa ở hải cảng New Orleans để chờ thương thuyền vận chuyển ra nước ngoài. Điều này trái với các điều khoảng mà chính phủ Tây Ban Nha ký với Mỹ trong Hiệp ước Pinckney (1795). Sau đó một ngày, Hoàng đế Charles IV ban hành chiếu chỉ cuối cùng về việc chuyển giao chính thức Louisiana cho nước Pháp. Việc Pháp đã chiếm được Louisiana đem lại bất lợi cho cư dân Mỹ và cả nước Mỹ. Theo suy tính của cư dân miền Tây nước Mỹ, khi Napoleon chiếm Louisiana thì sẽ đóng cửa dòng sông Mississipi. Điều này được xem là một đòn giáng mạnh vào lợi ích kinh tế của Mỹ. Trước hết là cư dân miền Tây và gây ra những phản ứng dữ dội.

Với vị trí trung tâm giữa hai miền Đông và Tây nước Mỹ, Lousiana không chỉ là một vùng đất địa-kinh tế mà còn có ý nghĩa chiến lược hết sức to lớn về địa-chính trị, địa-quân sự.

Sự chiếm đóng của Pháp ở đây rõ ràng đe doạ nghiêm trọng đến độc lập và hoà bình của Mỹ.Với việc lấy lại lãnh thổ Louisiana, Napoleon muốn thâu tóm các thuộc địa của Tây Ban Nhaở phía Đông và phía Tây bang Florida. Việc chiếm lĩnh phần lục địa với hơn 400 dặm bờbiển, Pháp có thể thiết lập các căn cứ quân sự kiểm soát vịnh Caribe, vịnh Mexico, kiểm soát thung lũng Missisippi nhằm biến Mỹ trở thành một vệ tinh khác giống Bỉ, Hà Lan, Thụy Sĩ,Đức và Ý. Như vậy, quyền lực của Napoleon mở rộng không chỉ ở châu Âu mà còn ra cả BắcMỹ.

Trước sức ép của dư luận đặc biệc là sự công kích của Đảng Cộng hòa, T. Jefferson đang đứng trước lựa chọn khó khăn. Nếu ông không hành động ngay để xoa dịu cư dân miền Tây thì liêng bang có thể sụp đổ, nhưng nếu tiến hành chiến tranh với ngoại quốc thì hậu quả mang lại cho đất nước là không nhỏ. Sau khi được Thượng viện phê chuẩn yêu cầu và Hạ viện chi ngân sách 2 triệu đô cho việc đàm phán với Pháp nhằm “mở rộng và giành lấy tính hiệu quả hơn cho quyền và lợi ích của Mỹ ở dòng sông Mississipi và những vùng lãnh thổ bờ Đông”. J. Monroe và R. Livingston được giao trọng trách đàm phán việc mua bán với chính phủ Pháp, nhiều suy tính đã được Tổng thống Jefferson còng Monroe và Livingston đề cập đến trong đó có cả việc liên minh với Anh nếu Pháp có động thái thù địch.

Lần đầu, Công sứ Mỹ đề xuất mua New Orleans và Florida với giá 10 triệu đô, còn Louisiana thì không quá 25 triệu đô nhưng không đem lại kết quả. Tuy nhiên, tình hình ở châu Âu bất lợi cho Pháp khi Pháp chiếm Bỉ và Hà Lan làm mâu thuẫn giữa Anh và Pháp tăng lên. Chiến tranh xảy ra là điều không tránh khỏi và khi đó thì Mỹ sẽ đứng về phía Anh chống lại Pháp. Thêm vào đó, tình hình ở chiến trường diễn ra trái với mong muốn của Napoleon. “Na-pô-lê-ông đã có những chương trình nhằm tổ chức và bóc lt các nước thuộc địa. Nhưng việc tiếp diễn cuộc chiến tranh chống nước Anh vào mùa xuân năm 1803 đã buộc Na-pô-lê-ông phải từ bỏ đường lối chính sách lớn về thuộc địa. Vì không có khả năng giữ được những khoảng đất xa xôi trên triền sông Mít-xi-xi-pi, do đường giao thông trên mặt biển đã bị gián đoạn hoàn toàn, nên Na-pô-lê-ông đã phải bán lại cho Mỹ phần đất đai thuộc Pháp ở xứ Lu-i-di-an” [1, 194].

“Trước tình thế trên đây, Napoleon quyết định một cách bất ngờ rút khỏi vùng đất Louisiana, nhưng không nhường lại cho Tây Ban Nha như hiệp ước đã kí kết vào tháng 10-1800 giữa hai nước, mà quyết định bán vùng đất này cho Mỹ, dẫu rằng trong cách nhìn của Napoleon, Louisiana là địa bàn có chiến lược quan trọng, một “vựa lúa” cung cấp cho quân đội Pháp tại châu Mỹ. Chính Napoleon đã nói rõ ý đồ này trước bề tôi của mình: “Ta biết giá trị đích thực vùng đất (Louisiana) mà ta bán và cảm thấy hối tiếc vì phải từ bỏ nó. Nhưng ta không có đủ thực lực để nắm giữ nó. Nước Anh sẽ chiếm lấy vùng đất này. Hãy bán toàn bộ vùng đất Louisiana. Thực hiện công việc này ngay lập tức” [3, 89].

Ngày 11-4-1803, cuộc thương thuyết mua Louisiana diễn ra giữa Livingston và Moroe với Tổng trưởng ngoại giao Pháp Talleyrand. Ngày 30-4-1803, tại Paris, thương ước về vấn đề Louisiana đã được ký kết giữa Pháp và Mỹ. Tính từ thời điểm này, Louisiana chính thức thuộc sở hữu của Mỹ với giá 15 triệu đô la. “Với một chữ ký, Jefferson đã tăng gấp đôi lãnh thổ của Liên bang, thâu tóm một cách hòa bình những đồng bằng mênh mông lúc này còn vô số bò rừng và một số ít người da đỏ, nhưng sẽ sớm trở thành vựa lúa của thế giới. Qua việc mua lại vùng Louisiana này, Jefferson đã chỉ làm tăng thêm quyền bính của Liên bang và người Mỹ có thể vui mừng khi thấy đất nước của họ trở nên gần như huyền thoại như vậy” [2, 153].

Chương 2: Quan hệ Mỹ - Pháp trước nguy cơ chiến tranh thế giới hai bùng nổ

Sau khi chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc với sự thất bại hoàn toàn của phe Liên minh, nhiều vấn đề nảy sinh sau chiến tranh cần được giải quyết. Các nước thắng trận cũng như bại trận đều suy yếu nhiều, nhất là các nước châu Âu, nơi chiến trường chính diễn ra. Vì vậy, Hội nghị Vec xai và sau đó là hội nghị Oasinhton được triệu tập để giải quyết những vấn đề đó.

2.1 Tình hình của nước Pháp trong những năm 20, 30 của thế kỷ XX

Về kinh tế

Việc Đức bại trận trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất đã làm cho Pháp trở thành cường quốc bá chủ ở lục địa châu Âu. Theo hòa ước Vecxai, Pháp lấy lại được  2 tỉnh Andát và Loren, được quyền khai thác vùng lòng chảo hạt Xarơ và một bộ phận thuộc địa của Đức ở châu Phi, củng cố chế độ bảo hộ của Pháp ở Marốc, được nhận tiền bồi thường chiến phí của Đức…Đó là những điều kiện thuận lợi cho Pháp khôi phục lại nền kinh tế, phục hồi sản suất ở vùng Đông Bắc, xây dựng khu công nghiệp mới ở miền Trung, miền Nam và Tây Nam nước Pháp…Tuy nhiên, Pháp vẫn gặp nhiều khó khăn do nền kinh tế bị thiệt hại nặng nề do chiến tranh mang lại. Tổng thiệt hại nói chung đến 20 tỉ Ph.răng.

Cách mạng Nga thành công, Pháp đã mất nguồn nguyên liệu quan trọng do nước Nga cung cấp (55% đường sắt, 75% than), Pháp phải vay nợ Mỹ 4 tỷ USD. Trong nông nghiệp, ruộng đất tập trung vào tay địa chủ, tư sản rất nhiều nhưng vẫn còn hình thức sở hữu ruộng đất trung bình và nhỏ.

Trong những năm 1924-1929, nước Pháp có nhiều thay đổi lớn trong việc khôi phục, tái thiết nền công nghiệp, mở rộng thị trường, đẩy mạnh khai thác các nguồn nguyên liệu…Các nghành công nghiệp hàng không, hóa chất, ôtô…cũng phát triển. Pháp trở thành một nước công nghiệp thực sự, đứng hàng thứ 4 thế giới.

Từ cuối năm 1935, cuộc khủng hoảng diễn ra muộn ở Pháp và kéo dài đến 1935. Thoạt đầu là ngân hàng, tiếp theo là công nghiệp lâm vào khủng hoảng. Sản lượng công nghiệp giảm 1/3, trong đó nặng nề nhất là công nghiệp nhẹ: 130 xí nghiệp dệt bị phá sản, ngoại thương giảm 3/5. Trong nông nghiệp có 2 ngành chính là lúa mỳ và trồng nho đều bị giảm sút. Thu nhập nông phẩm của nông dân năm 1934 còn 17 tỉ Phrăng (so với 44,8 tỉ Phrăng năm 1929) tức là giảm 2,7 lần.

Thu nhập quốc dân giảm 1/3, khủng hoảng kinh tế là cho quá trình tập trung tư bản tăng lên. Trong khi 1 vạn chủ xí nghiệp nhỏ và 10 vạn tiểu thương phá sản thì 200 nhà tư bản tài chính chi phối hoàn toàn nền kinh tế, chính trị trong nước. Số lượng công nhân thất nghiệp rất đông: năm 1935 có 1/2 triệu người thất nghiệp toàn phần và 50% công nhân thất nghiệp một phần. Hơn vạn 10 vạn tiểu thương bị phá sản.

Về chính trị

Từ tháng 11/1919, phái hữu của “khối Quốc gia” lên nắm chính quyền, Cơlêmănsơ làm thủ tướng. Sau đó là Pôn Đêsamam, Minlơrăng. Chủ trương giải quyết các vấn đề Đức theo hướng có lợi cho mình. Thi hành chính sách chống Nga và đàn áp các phong trào đấu tranh của công nhân pháp cũng như nhân dân các nước thuộc địa.

Các tổ chức phát xít như Đảng “Đoàn kết nước Pháp”, “Thập tự lửa”,được thành lập và ráo riết hoạt động. Tổ chức “Thập tự lửa” với danh nghĩa hội cựu chiến binh lôi kéo quần chúng chưa giác ngộ với các khẩu hiệu “bảo vệ nền cộng hòa”, “bảo vệ dân tộc”. Tổ chức ám sát thủ tướng Pháp Pôn Đume, đổ tội cho gián điệp Liên Xô, làm cớ chống Liên Xô nhưng đã thất bại. Sau đó cuộc tuyển cử đã đưa “khối tả’’ lên nắm chính quyền do Eriô đứng đầu nhưng đã sụp đổ sau 3 tháng cầm quyền.

Trong những năm 1933-1934, các chính phủ liên tiếp bị sụp đổ. Thừa vụ bê bối Savitski bọn phát xít Pháp, được sự hỗ trợ của Hitle tìm cách cướp chính quyền.. Đảng Xã hội Pháp chấp nhận lời đề nghị của Đảng Cộng sản tổ chức cuộc bãi công chung vào ngày 12-2-1934 để chống lại chủ nghĩa phát xít. Tháng 5-1934 mặt trận nhân dân chống phát xít và nguy cơ chiến tranh được thành lập. Ngày 2-5-1935, hiệp định tương trợ Pháp – Liên Xô được ký kết.

Đến thắng 5/1936, chính phủ của Mặt trận lên nắm chính quyền do Lêông Blum đứng đầu. Dưới áp lực của quần chúng nhân dân chính phủ này đã thi hành 1 số chính sách tiến bộ: quốc hữu hóa một bộ phận công nghiệp chiến tranh, ổn định ngân hàng, xuất tín dụng để giải quyết các vấn đề xã hội….Đối với Đông Dương, chính phủ Pháp rút bớt quân, ban hành Luật Xã hội, cải cách chế độ lao động, cử phái đoàn Gôđa sang đều tra tình hình thuộc địa.

Về xã hội

Do khủng hoảng của cuộc kinh tế, đời sống của nhân dân lao động khó khăn hơn trước. Công nhân nhiều lần đứng dậy bãi công đòi quyền sống, ủng hộ cách mạng tháng Mười Nga. Xã hội Pháp trở nên rối ren, giai cấp tư bản lũng đoạn ngày càng gia tăng các hoạt động chống phá chính phủ.

2.2. Tình hình của nước Mỹ trong những năm 20, 30 của thế kỷ XX

Về kinh tế

Sau chiến tranh thế giới thứ nhất với những chính sách khôn ngoan có lợi cho mình, Mỹ trở thành nước tư bản giàu mạnh nhất. Năm 1919, hàng hóa Mỹ xuất sang châu Âu đạt 8 tỉ USD. Chỉ trong 6 năm (1923-1929), sản lượng công nghiệp tăng 69%. Năm 1928, Mỹ chiếm 48% sản lượng công nghiệp thế giới, vượt sản lượng các cường quốc Anh, Pháp, Nhật, Đức, Ý cộng lại. Vốn đầu tư Mỹ ra nước ngoài đạt 6,4 triệu USD. Dự trử vàng chiếm tới 1/3 thế giới. Mỹ trở thành trung tâm công nghiệp, thương mại tài chính quốc tế.

Tháng 10/1929, cuộc khủng hoảng kinh tế chưa từng thấy bùng nổ ở nước Mỹ. Cuộc khủng hoảng gây ra những hậu quả hết sức trầm trọng bắt đầu từ lĩnh vực tín dụng sau đó lan ra các lĩnh vực khác. Trong những năm này, 13 vạn công ty bị phá sản, 1 vạn ngân hàng bị đóng cửa, sản lượng thép giảm 76%, sắt giảm  gần 80%, ô tô cũng gần 80%. Tổng sản lượng công nghiệp chỉ đạt 53,8% so với năm 1929. Trong nông nghiệp, diện tích deo trồng bị thu hẹp, nông sản năm 1932 chỉ bằng ½ năm 1929. Tính chung vào năm 1932, thu nhập người dân Mỹ giảm ½ , nạn thất nghiệp lên đến hàng chục triệu người. Để đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng tổng thống F.Rudơven đã thực hiện đề án “chính sách mới”của mình. Chính sách mới của F.Rudơven đã đưa tình hình kinh tế của nước Mỹ khỏi cơn nguy kịch của cuộc khủng hoảng, góp phần cho phép nước Mỹ duy trì chế độ dân chủ tư sản, tạo ra 1 sự bảo vệ nhất định đối với người lao động. Tuy nhiên chính sách này cũng gây ra sự phẫn nộ cho giới đại tư bản tài chính, đại kinh doanh và một số mục tiêu tham vọng của các giai cấp này.

Về chính trị

Dưới thời của Tổng thống Uynsơn tăng cường bóc lột công nhân và dân trại, khuyến khích công nghiệp chiến tranh để chạy đua vũ trang, chính sách phân biệt chủng tộc, đàn áp phong trào công nhân, mở các phiên tòa xét xử những người cộng sản. Nhiều vụ tàn sát người da đen đã diễn ra ở Omaha, Elaine và nhất là ở Chicagô. Ngày 27/7/1919, tại Chicagô, bọn phân biệt chủng tộc đã giết chết 38 người, làm bị thương 520 người da đen khác nhằm ngăn chặn gia đình của họ gia nhập các nghiệp đoàn.

Đến năm 1928, Hoover ứng cử viên của Đảng Cộng hòa trúng cử Tổng thống, nhiều người Mỹ tin rằng ông ta sẽ làm được đều mà ông ta nói: “Chúng ta sẽ đi đến chỗ xóa sách nạn nghèo đói hơn bất cứ nước nào trên thế giới. Nhưng khi Hoover cầm quyền được mấy tháng thì cuộc khủng hoảng nổ ra gây cho nước Mỹ những hậu quả vô cùng to lớn.

Đến cuộc bầu cử Tổng thống năm 1932, Đảng Cộng hòa đưa Hoover ra ứng cử còn Đảng Dân chủ đưa F.Rudơven ra ứng cử. Khi ứng cử F.Rudơven đưa ra đề án “Chính sách mới” đã đánh bại Tổng thống Hoover_người của Đảng Cộng hòa. Từ năm 1933, khi trở thành người đứng đầu Nhà Trắng, F.Rudơven bắt đầu thực hiện chính sách của mình. Tích cực can thiệp vào cuộc chiến, biến đạo luật “trung lập” thành một danh từ trống rỗng. Tuy nhiên, Quốc hội Mỹ đã chính thức tuyên chiến  sau sự kiện Trân Châu cảng (7/12/1941).

Về xã hội

Sau chiến tranh thế giới thứ nhất nước Mỹ có những đều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế, cải thiện đời sống cho người dân. Tuy nhiên, vào giữa năm 1920 những đều kiện ấy đã chấm dứt vì nhu cầu hàng hóa và sức mua của người dân Mỹ giảm sút. Tình trạng khủng hoảng này đã làm cho đời sống nhân dân lao động Mỹ ngày càng khổ cực, số người thất nghiệp ngày càng gia tăng, phong trào đấu tranh của công nhân diễn ra mạnh mẽ. Năm 1919, ở Mỹ đã có hơn 4 triệu công nhân bãi công.

Đến năm 1929, cuộc khủng hoảng kinh tế nổ ra ở nước Mỹ đã làm cho tình hình xã hội nước Mỹ trở nên rối ren, đời sống của người dân lao động khổ cực vô cùng, nạn thất nghiệp ngày một gia tăng. Đứng trước nạn thất nghiệp và nghèo đói lan tràn, phong trào của công nhân Mỹ bùng nổ và phát triển. Những năm 1929 – 1934, số người tham gia bãi công lên tới 3,5 triệu người. “Các cuộc đi bộ vì đói” đầu tiên có tính chất toàn quốc đã diễn ra của hàng chục vạn công nhân thất nghiệp ở  Oashinhton. Để xoa diệu người dân chính quyền của F.Rudơven đã ban hành đạo luật về cứu tế xã hội. Đạo luật này phần nào đã giải quyết được việc làm cho người lao động, góp phần duy trì chế độ dân chủ và bảo vệ quyền lợi cho người lao động.

2.3. Quan hệ Mỹ-Pháp từ 1918-1939

2.3.1. Chính sách đối ngoại của Pháp trước nguy cơ thế chiến II bùng nổ

Tháng 11/1919 Cơlêmăngxô lên làm thủ tướng, chính phủ Pháp tìm mọi cách để giải quyết vấn đề Đức theo hướng có lợi nhất cho mình. Thù hằn với Đức trong thất bại của cuộc chiến tranh Pháp-Phổ làm Pháp có dã tâm rất lớn là muốn “bóp cho Đức lè lưới ra”, làm suy yếu lâu dài nước Đức. Mục đích của chính sách này không chỉ để đảm bảo an ninh cho Pháp” [6, 67]. Nhưng tham vọng đó của Pháp không dễ gì thực hiện do Anh và Mỹ vấn chủ trương duy trì một nước Đức tương đối mạnh ở châu Âu để ngăn làn “sóng đỏ” từ Liên Xô có nguy cơ lan rộng ra các nước châu Âu. “Quan điểm của Anh và cả Mỹ vẫn chủ trương duy trì một nước Đức tương đối mạnh ở trung tâm châu Âu, vừa để ngăn chặn “nguy cơ Cộng sản” từ nước Nga Xô Viết và ở châu Âu, vùa để chống lại âm mưu bá chủ châu Âu của Pháp. Chính sách “cân bằng lực lượng” của Anh ở châu Âu được Mỹ rất ủng hộ” [6, 67-68].

Trong Hội nghị Vecxai, nước Pháp là nước được Đức bồi thường nhiều nhất, lợi ích mang lại cho Pháp là rất lớn. Trong 132 tỉ mác vàng mà Đức phải bồi thường cho các nước thắng trận thì Pháp được 52% số đó. Một con số không hề nhỏ. Nhưng vào tháng 1/1923, lấy cớ Đức không trả nợ, chính Phủ Pháp đã liên kết với Bỉ đưa quân chiếm đóng vùng Rua của Đức. Việc làm này đã mang lại nhiều rắc rối cho Pháp làm tài chính Pháp trở nên khó khăn hơn. “Cuộc phiêu lưu này đã mang lại hậu quả tai hại cho Pháp; công nhân Đức bãi công, các chủ tư bản Đức thi hành “chính sách phản kháng tiêu cực” đình chỉ việc chuyển hàng cho Pháp. Phong trào công nhân Pháp cũng bùng nổ chống lại chính sách của chính phủ. Chính phủ Mĩ, Anh cũng chống lại việc chiếm đóng vùng Rua. Cuối cùng quân đội Pháp phải rút khỏi vùng Rua và nền tài chính của Pháp ngày càng trở nên khó khăn hơn, buộc phải trông chờ vào sự giúp đỡ của Mĩ” [7, 90-91].

Năm 1924, Liên minh cánh tả do Đảng Xã hội là nòng cốt lên cầm quyền. Chính phủ này ban bố lệnh ân xá…rút quân khỏi vùng Rua, chấp nhận kế hoạch Đaoxơ, đặt quan hệ ngoại giao với Liên Xô…Tuy nhiên, những hành động thiên hữu (ký hiệp ước Lôcácnô với Đức) đã làm suy giảm uy tín của nước Pháp trên trường quốc tế.

2.3.2. Chính sách đối ngoại của Mỹ trước nguy cơ thế chiến II bùng nổ

Ngày 8/1/1919 tại hội nghị Vecxai, Tổng thống Mĩ Wilson đã đưa ra chương trình 14 điểm dưới hình thức một thông điệp gửi cho Quốc hội Liên bang nhằm lập lại hòa bình và tổ chức lại thế giới sau chiến tranh. Với văn bản này, giới cầm quyền Mĩ đã công khai ý đồ muốn vươn lên làm bá chủ thế giới sau chiến tranh nhân lúc các nước tư bản châu Âu đã suy yếu và kiệt quệ. Ngoài ra, kế hoạch này cũng đặt ra nhiều điều kiện tiên quyết với Đức để bắt đầu đàm phán, các dân tộc bị Áo – Hung và Thổ Nhĩ Kỳ thống trị có quyền tự quyết nếu họ muốn tách ra thành các quốc gia độc lập. Về sau, trong ngày độc lập 4/7/1918, Uynxơn nói rõ và gọn hơn mục tiêu của Mỹ trong chiến tranh. Tiếp đó, Tổng thống Uynxơn vượt Đại Tây Dương sang dự Hội nghị Pari.

Trong cuộc tuyển cử cuối năm 1920, Đảng Cộng hòa đã giành được thắng lợi và từ đó trãi qua nhiệm kỳ các Tổng thống: Hácđinh (1921-1923), Culítgiơ (1923-1929) và Huvơ (1929-1933). Chính quyền Đảng Cộng hòa thi hành chính sách thiên hữu nhằm bảo vệ quyền lợi của giới chủ kinh doanh Mỹ ở trong nước và trên trường quốc tế. Mỹ theo đuổi lập trường chống Nga Xô viết, cự tuyệt đề nghị của Liên Xô về việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Mỹ. Sau đó Mỹ đã ký các hiệp ước trong Hệ thống hòa ước Oasinhton, đó là khuôn khổ mới mà Mỹ thiết lập.

Sau khi Hácđinh chết thì Culítgiơ với châm ngôn đã trở thành đường lối của Đảng cộng hòa: “Ở Mĩ, kinh doanh là kinh doanh”. Trong 4 năm cầm quyền, Culítgiơ đã thi hành đường lối bảo thủ chặt chẽ.

Đến thời của Tổng thống F.Rudơven thì chính sách đối ngoại của Mỹ cũng có những thay đổi lớn. Mối quan hệ với Liên Xô được thiết lập, đây là bước tiến đặc biệt dưới thời Rudơven. “Mặc dù chính phủ Rudơven cải thiện quan hệ với Liên Xô là xuất phát từ quyền lợi của Mĩ, song đây cũng là thắng lợi của nền ngoại giao Xô viết và chính nó đem lại những kết quả tốt trong thời gian chiến tranh chống chủ nghĩa phát xít sau này” [7, 114].

Khi F.Rudơven lên nhận chức Tổng thống Mĩ thì ông đã thực hiện chính sách ngoại giao với Mĩ Latinh mềm dẻo hơn. Mối quan hệ mà trước đó vốn rất cangư thẳng do chính sách “Cây gậy và củ cà rốt” đã tồn tại từ lâu đời. F.Rudơven đã tuyên bố một chính sách mới mang tên “Chính sách láng giềng thân thiện” với các nước Mĩ Latinh vào năm 1934. “Chính sách láng giềng thân thiện phần nào đã xoa dịu được cuộc đấu tranh chống Mĩ của nhân dân Mĩ latinh trong khi vẫn đảm bảo được sự bành trướng của tư bản Mĩ ở khu vực này” [7, 114]. Cũng trong năm này, chính phủ Mĩ cũng tuyên bố bãi bỏ “Điều bổ sung Pơlát) vốn bị người Cuba cực lực phản đối. Tiếp theo Mĩ chấm dứt những cuộc can thiệp cuối cùng của mình ở Trung Mĩ: ở Haiti và cộng hòa Đôminica. Cùng năm đó, Tổn thống Rudơven hứa trao trả độc lập cho Philippin.

Một ví dụ điển hình của là chính sách với Mêxicô. Theo Hiến pháp Mêxicô, chính phủ này quốc hữu hóa các công ty dầu lửa của Mỹ. Thay vì đưa quân can thiệp trước đây, F.Rudơven chỉ đề nghị Mêxicô một khoảng bồi thường tượng trưng. Tuy Mỹ có thiệt thòi về tài chính, song đổi lại họ được sự ủng hộ quý báu của láng giềng trong tương lai. Thực chất của “Chính sách láng giềng thân thiện”  là một biểu hiện sớm của chủ nghĩa thực dân kiểu mới mà Mỹ sẽ sử dụng phổ biến trong tương lai, nhằm đối phó lại với các cuộc đấu tranh chống Mỹ và củng cố địa vị của nước Mỹ ở khu vực Mỹ La Tinh. Thậm chí tại Hội nghị ở Bêunốt, Tổng thống Mỹ kêu gọi các nước Tây bán cầu cùng đoàn kết chống lại nguy cơ xâm lược từ bên ngoài. Trước sau, chính sách này nhằm duy trì sự bốc lột của Mỹ, thu lợi nhuận cho các tập đoàn tư bản lũng đoạn.

Để thực hiện mưu đồ làm bá chủ thế giới sau này, F.Rudơven đưa ra“Chính sách nhằm đứng từ xa”. Sau 15 năm theo đuổi chính sách chống nước Nga Xô Viết, rồi Liên Xô, chính phủ Mỹ do F.Rudơven đứng đầu đã công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô. Tiếp đó Mỹ ký kết các hiệp định thương mại với Liên Xô, thúc đẩy thương mại giữa hai nước. Những động thái này cho thấy mặt tích cực của chính sách đối ngoại của Mỹ trong những năm 30. Mặt khác nó xuất phát từ quyền lợi của Mỹ, nhưng về thực chất thì chính phủ Mỹ vẫn theo đuổi chính sách “chống cộng” truyền thống của mình.

Đối với các vấn đề nóng bỏng quốc tế nửa sau thập niên 30, chính phủ Mỹ vừa muốn dùng bàn tay các nước phát xít Đức, Ý, Nhật để chống Liên Xô, đồng thời lại liên minh với Anh, Pháp chống khối đế quốc phátxit. Mục đích của Mỹ là cho các nước đánh nhau, bán vũ khí cho cả hai bên, Mỹ ở giữa hưởng lợi. Đó là chính sách 2 mặt có phần thiếu trách nhiệm trước nguy cơ chủ nghĩa phát xít và chiến tranh đang đe dọa nền hòa bình và an ninh thế giới. Hàng loạt các đạo luật (1935 và 1934) được ban bố để Mỹ giữ vai trò trung lập: cấm bán vật liệu chiến tranh và cấm cho các nước tham chiến vay tiền, cấm công dân Mỹ đi du lịch trên tàu của các nước tham chiến. Các nước muốn mua hàng không bị cấm của Mỹ thì phải trả tiền mặt và tự chở lấy (Luật Cash và Carry). Đối với cuộc giao tranh ngoài biên giới Mỹ: làm ngơ trước hành động xâm lược của phát xít Ý ở Bắc Phi, của Nhật ở Trung Quốc, từ chối lời đề nghị của Liên Xô lập liên minh chống Phát xít. Do đó, chính phủ Mỹ phải chịu một phần trách nhiệm trong việc kí kết hiệp ước Muynich (9/1938), khuyến khích đến dung túng cho chủ nghĩa phátxít phát động chiến tranh thế giới.

2.3.3. Pháp-Mĩ trong trục đế quốc Anh-Pháp-Mỹ.

Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 đã làm cho các nước tư bản kiệt quệ về mọi mặt. Đứng trước tình hình đó thì các nước tư bản đã có những biện pháp để khắc phục, từ đó, đã có hai con đường hình thành. Một là, con đường phát xít hóa bộ máy nhà nước, tiến hành chiến tranh xâm lược để giải quyết khủng hoảng, con đường này được các nước đế quốc trẻ Đức, Ý, Nhật chọn. Sau chiến tranh thứ nhất, Đức, Ý bị thất bại nên phải chấp nhận những điều khoản nặng nề của Hiệp ước Vecxai-Oasinhton. Chính điều đó đã tạo nên mâu thuẫn sâu sắc giữa các nước thua trận với các nước đế quốc thắng trận, mong muốn phục thù luôn luôn hiện hữu. Cuộc khủng hoảng đã làm các nước Đức, Ý, Nhật kiệt quệ hơn và con đường phát xít hoá đã được chọn. Hai là con đường giữ nguyên trật tự thế giới hiện có của các nước đế quốc Anh-Pháp-Mỹ.

Nguy cơ một cuộc chiến tranh xảy ra là khó tránh khỏi, nó được cụ thể hóa bằng sự ra đời của 3 “Lò lửa chiến tranh” nguy hiểm. Mặc dù giới cầm quyền các nước tư bản phương tây cố tình xoa dịu mâu thuẫn với các nước phát xít để hòng đẩy bọn phát xít tấn công Liên Xô, nhưng mâu thuẫn giữa họ và các nước phát xít không thể hòa hoãn nổi. Chính quy luật phát triển không đều giữa các nước tư bản đã làm cuộc đấu tranh giành thị trường, nguyên liệu trở nên gay gắt. Đó là mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với các nước phát xít, sự mâu thuẫn đó làm các nước đế quốc xích lại gần nhau hơn trong mặt trận chung để chống lại phát xít. “Những mâu thuẫn giữa Đức và Mĩ, giữa Đức và Pháp cũng trở nên gay gắt. Mâu thuẫn Mĩ-Đức bắt nguồn từ cố gắng của cả hai nước muốn giành bá chủ thế giới. Các nước phát xít tấn công vào các vị trí kinh tế của Mĩ ở Thái Bình Dương, ở Viễn Đông và Mĩ latinh. Điều đó không tránh khỏi thúc đẩy Mĩ xích lại gần với Anh và Pháp, đi tới một liên minh chính trị, quân sự tạm thời giữa các nước đó dưới sự điều khiển của Mĩ” [7, 177]. Mâu thuẫn giữa Pháp và Đức là do ý muốn thanh toán hệ thống hòa ước Vécxai Oashinhton, thống trị lục địa châu Âu. Ở Rumani, Tiệp Khắc, Thổ, Balan cuộc đấu tranh ngầm giữa các công ty độc quyền Pháp và Đức không ngừng diễn ra. Các liên minh của Pháp ở châu Âu có nguy cơ bị sụp đổ. Những kế hoạch thuộc địa của Đức đe dọa các thuộc địa của Pháp ở châu Phi cũng gây trở ngại cho giới cầm quyền Pháp. Mâu thẫu giữa Anh, Mỹ với Nhật cũng ngày càng gây gắt do âm mưu của Nhật muốn độc chiếm Trung Quốc, gạt bỏ quyền lợi của Anh, Mỹ ở Trung Quốc và Đông Nam Á. Hòng thiết lập quyền bá chủ của Nhật ở Thái Bình Dương và Viễn Đông. Đồng thời mâu thuẫn Pháp, Anh với Italia càng thêm căng thẳng do tham vọng của Italia muốn biến Địa Trung Hải thành  “biển riêng của Italia”. Chiếm các tỉnh của Pháp như Nixơ, Xavoa và đất đai của Pháp ở Bắc Phi và những thuộc địa của Anh ở Trung Đông và châu Phi.

Những mâu thuẫn sẵn có xuất phát từ trật tự Vecxai-Oasinhton đã làm cho cục diện thế giới phân là hai khối đối địch rõ rệt: Khối phát xít và khối đồng minh chống phát xít. “Ngày 25-11-1936, Đức đã ký với Nhật “Hiệp định chống Quốc tế cộng sản”, trong đó hai nước cam kết sẽ trao đổi với nhau về tình hình hoạt động của  của Quốc tế cộng sản và hợp tác chặt chẽ với nhau để chống Quốc tế cộng sản” [7, 177]. Italia sau đó cũng đã tham gia vào Hiệp định chống Quốc tế cộng sản vào năm 1937. Như thế là trục tam giác Béclin-Rôma-Tôkyô đã hình thành. Trước sự hình thành “Trục tam giác Béclin – Rôma – Tôkyô” thì giới thống trị của ba nước Anh - Pháp - Mỹ cũng phải đưa ra những lời tuyên bố chống chủ nghĩa Phát xít và cam kết ủng hộ lẫn nhau khi bị tấn công. Trục đế quốc Anh – Pháp – Mỹ đã được hình thành.

Về thái độ thì Pháp và Mỹ đều nhân nhượng cho chủ nghĩa phát xít có điều kiện phát triển, mục đích đó là đẩy chiến tranh về phía Liên Xô. Mặc dù sợ phát xít nhưng Pháp và Mỹ thù ghét chế độ cộng sản hơn cả, vì vậy khi chủ nghĩa phát xít hình thành họ muốn đẩy chiến tranh về phía Liên Xô, mượn bàn tay của phát xít để tấn công Liên Xô. Tuy  mâu thuẫn gay gắt với nhau về quyền lợi nhưng vấn đề tiêu diệt Liên Xô đó là mục tiêu chung của các nước tư bản. Chính thái độ làm ngơ này của Anh, Pháp, Mỹ đã khiến cho chủ nghĩa phátxít càng mạnh tay hơn trong việc chuẩn bị cho cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Khi trục tam giác Béclin – Rôma – Tôkyô hình thành thì ba nước Anh, Pháp, Mỹ mới có những động thái để chống lại chủ nghĩa phát xít. Giới cầm quyền của các nước này đã xích lại gần nhau hơn và tuyên bố chống lại chủ nghĩa phát xít. Tuy nhiên, lúc đầu những lời tuyên bố của giới cầm quyền Anh, Pháp, Mỹ chỉ là trên chót lưỡi. Họ không thực sự thực hiện triệt để những gì mà mình đã tuyên bố cũng như không thực hiện triệt để những gì mà ba nước này đã ký kết với Liên Xô.  Với ảo tưởng là có thể lợi dụng được chủ nghĩa phát xít tấn công Liên Xô nên các nhà cầm quyền Anh, Pháp, Mỹ đã thi hành “chính sách không can thiệp” hay “trung lập” và sau này là “chính sách hai mặt”.

Như vậy, trước sự hình thành trục tam giác Béclin-Rôma-Tôkyô thì Pháp và Mỹ đã cùng với Anh buộc lòng phải có những cam kết với nhau và ủng hộ nhau khi một trong ba nước bị tấn công. Mục đích của Pháp và Mỹ là như nhau là muốn giữ nguyên trật tự thế giới. Pháp, Anh thì nhân nhượng cho chủ nghĩa phát xít còn Mỹ thì đứng trung lập. Sự thờ ơ đó của họ đã làm cho chủ nghĩa phát xít ngày càng lớn mạnh, thủ đoạn của các nước tư bản nhằm đẩy chiến tranh về phía Liên Xô để xem “cò ngao đánh nhau, ngư ông thủ lợi” là rất thâm độc. Sự tính toán đó của họ đã dẫn đến cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai

Chương 3: Tác động của quan hệ Mỹ Pháp đến tình hình thế giới 1918-1939

Kể từ sau khi chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc thì quan hệ quốc tế đã trở nên phức tạp hơn bao giờ hết. Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc thắng trận và các nước bại trận ngày càng gay gắt với những điều khoản mà các nước thắng trận áp đặt lên cho các nước bại trận trong Hệ thống hòa ước Vecxai-Oasinhton. Đó là một nước Pháp đầy tham vọng muốn triệt tiêu nước Đức và một nước Mĩ mưu mô với những toan tính cho riêng mình muốn làm bá chủ thế giới. Nước Pháp đăng cai hội nghị, có lực lượng lục quân mạnh nhất châu Âu, mối thâm thù với Đức vẫn còn hiện hữu nên nhân cơ hội này Pháp muốn làm suy yếu lâu dài nước Đức, bảo đảm an ninh cho Pháp nhằm thiết lập quyền bá chủ của Pháp ở lục địa châu Âu, đòi chuyển biên giới nước Đức đến tận sông Ranh, bắt Đức bồi thường thật nhiều, hạn chế lực lượng của Đức đến mức tối đa, tán thành mở rộng lãnh thổ của một số nước như Ba Lan, Tiệp Khắc, Xéc bi, Rumani và muốn biến các nước này thành công cụ chính trị của Pháp ở Đông Âu để kiềm chế Đức và xây dựng các nước này thành “một vành đai vệ tinh” chống chủ nghĩa bônsevích” [7, 68]. Pháp muốn chiếm tất cả các thuộc địa của Đức nhưng vì lực lượng bị suy yếu nhiều do chiến tranh, kinh tế thì khó khăn, tài chính khủng hoảng thêm vào đó là nợ nần chồng chất mà Pháp vay mượn của Anh và Mĩ nên trong hội nghị Vecxai, Pháp buộc phải chấp nhận những thỏa thuận mà bản thân họ không hề muốn chút nào. Tham vọng lớn đó càng được thể hiện qua câu nói của Clêmăngxô: “Chiến tranh ta đã thắng lợi rồi. Giờ hòa bình, ta cũng phải thắng lợi, không chừng còn khó khăn hơn” [7, 68].

Mĩ cũng là nước đầy tham vọng khi tham gia hội nghị với Chương trình 14 điểm với mục đích đem lại hòa bình cho thế giới. Nhưng mục đích đó chỉ là “chiếc áo khoát” bên ngoài cho những thủ đoạn dơ bẩn của Mĩ. Mà tham vọng làm bá chủ thế giới được thể hiện rõ ràng nhất. “Chương trình 14 điểm của Uynxơn được che đậy bằng những lời lẽ bóng bẩy, bề ngoài đề cao hòa bình, dân chủ, có vẻ thỏa mãn quyền lợi của nhân dân. Cũng vì thế ngày 11-11-1918, các bên tham chiến đã nhận đình chiến theo chủ trương của Mĩ và Chương trình 14 điểm của Uynxơn được coi là nguyên tắc để thảo luận tại Hội nghị Vecxai” [7, 68].

Những thỏa thuận của các nước đế quốc thắng trận là “khúc dạo đầu” cho sự thay đổi của trật tự thế giới. Tất cả các nước lớn như Anh, Pháp, Mỹ và kể cả các nước khác đầu muốn đạt nhiều quyền lợi về mình. Mở đầu là sự kiện thành lập Hội Quốc liên (do sáng kiến của Uyn xơn và được Anh – Pháp tán thành) để giữ trật tự thế giới do các nước thắng trận xếp đặt lại trong hội nghị Vecxai. Thực chất Hội Quốc liên là công cụ để các nước đế quốc bảo vệ quyền lợi với nhau, nhưng lại được che đậy bằng những từ ngữ hào nhoáng, đẹp đẽ bên ngoài. Thâu tóm Hội Quốc liên là 5 nước Anh, Pháp, Mỹ, Ý, Nhật nhưng sau đó còn 4 do Mỹ rút khỏi. Việc Mỹ rút khỏi Hội Quốc liên đã làm cho tình hình Hội trở nên yếu kém do không có sức mạnh về kinh tế, không có thực lực…“Hoa Kỳ không tham gia Hội Quốc liên nên tổ chức này không có sức mạnh về kinh tế, thực lực thì lỏng lẻo, chỉ thông qua các văn bản ký kết, sức mạnh quân sự cũng không có những tiềm lực riêng và cũng không đủ uy lực để tập hợp lực lượng quân sự, thực thi những quyết định của mình, những sự kiện xảy ra trong quan hệ quốc tế giai đoạn này đã minh chứng rõ điều đó” [6, 72].

Về những tác động của mối quan hệ này, đầu tiên phải kể đến việc các nước đế quốc tiến hành hòa ước Vecxai với Đức. Ngoài việc trả đất và bồi thường cho Pháp thì Đức còn bị Anh, Pháp dã tâm chiếm đoạt. Sau khi thất bại, với chế độ ủy trị, mọi thuộc địa của Đức đều được Hội Quốc liên giao cho các nước Anh, Pháp, Nhật, Bỉ quản lý. Mĩ chủ trương thực hiện chế độ ủy trị ở các thuộc địa của Đức để Mỹ dễ bề thao túng và ngăn chặn tham vọng của Anh, Pháp về đất đại. Sau những cuộc cãi vả kịch liệt, Anh và Pháp buộc phải nhượng bộ. Cuối cùng ba nước Mỹ, Anh và Pháp đã đi đến quyết định không sáp nhập các thuộc địa của Đức và Thổ Nhĩ Kỳ vào bất cứ một nước nào, mà sẽ lấy danh nghĩa Hội Quốc liên để quản lý các vùng đất thuộc địa này” [6, 73]. Nối tiếp hòa ước Vecxai ký với Đức là một loạt các hòa ước khác, chính những hòa ước này đã tạo nên Hệ thống hòa ước Vecxai “không đếm xỉa gì đến quyền lợi của nhiều dân tộc, nó xâm phạm nghiêm trọng đến lãnh thổ, chủ quyền, sự thống nhất toàn vẹn của nhiều lãnh thổ ở châu Âu, gây ra sự chia rẽ, thù hằn dân tộc để phục vụ cho quyền lợi của các nước thắng trận” [6, 77].

Mặc dù đã được ký kết nhưng Hệ thống hòa ước Vecxai – Oasinhton vẫn còn nhiều thiếu sót nên các vấn đề đã được thảo luận và giải quyết theo đường lối của Mỹ. Đó là vấn đề an ninh ở châu Âu và vấn đề bồi thường chiến phí của Đức. An ninh châu Âu thì các nước Anh, Pháp, Mỹ thống nhất theo cách giải quyết của Mỹ nhờ đó mà “bầu không khí châu Âu trở nên hòa dịu và quan hệ Pháp – Đức bớt căng thẳng hơn trước” [6, 84]. Về bồi thường chiến tranh thì liên quan đến tất cả các nước Âu-Mỹ, mà trong đó Mỹ là chủ nợ của tất cả các nước châu Âu, trong chiến tranh thì Mỹ đã bán vũ khí cho các bên tham chiến và cho các nước vay để có kinh phí phục vụ cho chiến tranh. Nhưng chiến tranh đã kết thúc và kỳ hạn cũng đến nhưng các nước chưa thể trả được và vin vào cớ chờ Đức bồi thường chiến phí rồi mới trả cho Mĩ. Trước tình hình đó, Mỹ phải đề ra kế hoạch Dawes (1924). Kế hoạch này đã cho Đức vay những khoản tiền mặt rất lớn để khôi phục kinh tế, tài chính. Nhờ đó, việc bồi thường chiến phí được thực hiện” [6, 85]. Sau đó Mỹ lại đề ra kế hoạch Young để dứt điểm việc bồi thường chiến phí. Và Đức đã ngang nhiên xóa bỏ việc bồi thường chiến tranh khi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới xảy ra. Nhưng nhờ những chính sách của các nước tư bản đặc biệc là Mỹ mà kinh tế Đức đã được phục hồi và tham vọng phục thù trỗi dậy ngày càng mạnh.

Tình hình thế giới trở nên tồi tệ hơn bao giờ hết khi mà cuộc đại khủng hoảng bắt nguồn từ Mỹ nhanh chóng lan rộng ra trên toàn thế giới. Và để cứu vãn tình thế các nước tư bản đã chọn hai con đường khác nhau đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng. Một là con đường phát xít hóa bộ máy nhà nước của Đức, Ý, Nhật; hai là, giữ nguyên trật tự thế giới, tình cách khắc phục bằng những cải cách. Như vậy, cục diện thế giới đã hình thành nên 3 lực lượng đối lập nhau: Mỹ, Anh, Pháp – Đức, Ý, Nhật – Liên Xô với đường lối đối ngoại khác nhau. Đặc biệt sự hình thành của ba “lò lửa chiến tranh” Đức, Ý, Nhật là nguy cơ cho một cuộc chiến tranh thế giới mới.


C. KẾT LUẬN

1. Mối quan hệ tốt đẹp giữa Mỹ và Pháp đã có từ lúc cuộc Chiến tranh giành độc lập của 13 bang thuộc địa Mỹ chống lại chính quyền Anh. Trong thời gian đó, Pháp với mong muốn trả thù Anh nên đã bắt tay với Mỹ. Sự giúp đỡ của Pháp giành cho Mỹ là rất lớn, ngoài vũ khí trang bị thì Pháp đã mang cả quân sang giúp đỡ cho nhân dân Mỹ thoát khỏi sự kìm kẹp, bóc lột của thực dân anh, đó là việc làm thiện chí mà Pháp đã làm cho đất nước Mỹ. Những đoàn quân tình nguyện của Pháp với những người lính trẻ tuổi như “quận công La Fayette, Hầu tước De Lauzun, Bá tước Ségur…tình nguyện sang Mỹ cùng tham gia chiến đấu với quân đội của G. Washington” . Đó có thể coi là món nợ xương máu mà Pháp đã giúp đỡ để Mỹ có thể giành được độc lập từ tay Anh. Co thể nói rằng, Liên minh chống Anh là mối quan hệ đẹp đẽ mà Pháp và Mỹ đã giành cho nhau.

Sau Liên minh chống Anh, một lần nữa nước Mỹ lại nhận ơn huệ từ Pháp. Đó là việc Napoleon đã đồng ý bán lại vùng đất Louisiana cho Mỹ. Với sự kiện này, đất nước Mỹ đã được mở rộng hơn trước. Nhờ Pháp mà Mỹ có thể tiếp tục “quá trình Tây tiến” của mình.

2. Sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, các cường quốc thắng trận đã tiến hành ký Hiệp ước Vecxai-Oasinhton. Việc làm này của các nước đã chi phối đến cục diện thế giới sau này. Pháp và Mỹ là một trong 5 cường quốc có tiếng nói trong các hội nghị, chính sự thỏa thuận của những “ông lớn” này đã làm cho tình hình thế giới trở nên căng thẳng, phức tạp hơn bao giờ hết. Và nguy cơ một cuộc chiến tranh thế giới mới đang hiện hữu trước mắt do những thỏa thuận của các nước đế quốc thắng trận với nhau, thêm vào đó là sự chèn ép của các nước này đối với các nước đế quốc bại trận.

Những Hiệp ước mà các nước đế quốc thắng trận ký kết với các nước bại trận đã dấy lên mâu thuẫn khó hòa giải được. Sự chèn ép không giới hạn đó đã làm cho lòng thù hận của các nước bại trận như Đức dâng cao và mong muốn phục thù. Thêm vào đó là sự nhân nhượng thỏa hiệp của các nước tư bản với Đức đã tạo cho Đức điều kiện không thể nào tốt hơn để tiến hành cuộc chiến tranh thế giới mới.

Vì quyền lợi của mình mà Anh-Pháp-Mỹ đã góp phần làm cho chủ nghĩa Phát xít thắng thế và gây ra cho thế giới những đau thương mất mát rất lớn.


D. TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ê. Tacle (1999), Napoleon Bônapác, NXB QĐND, H.

2. Lê Minh Đức - Nguyễn Nghị (1994), Lịch sử nước Mỹ, NXB Văn hóa thông tin.

3. Lê Thành Nam (2016), Nước Mỹ với quá trình tây tiến – chính sách ngoại giao mở rộng lãnh thổ (1787-1861), NXB Tổng hợp TPHCM.

4. Lê Thành Nam (2007), Ngoại giao Hoa Kỳ trong cuộc chiến tranh giành độc lập (1773-1783), Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, (3), tr.60-63.

5. Lê Văn Anh (2013), Lịch sử thế giới hiện đại, NXB Đại học Huế.

6. Lê Văn Anh – Hoàng Thị Minh Hoa (2016), Quan hệ quốc tế thời hiện đại, NXB Đại học Huế.

7. Nguyễn Anh Thái (1998), Lịch sử thế giới hiện đại, NXB Giáo dục.

8. Vũ Dương Ninh (2012), Lịch sử quan hệ quốc tế từ đầu thời cận đại đến kết thúc thế chiến thứ 2, NXB Đại học Sư phạm, H.

9. Vũ Dương Ninh – Nguyễn Văn Hồng (2006), Lịch sử thế giới cận đại, NXB Giáo dục

 

1

 

nguon VI OLET