MỞ ĐẦU

                                                                                                                                          1. Lý do chọn đề tài.

Đất nước ta đang bước vào thế kỷ XXI, thế kỷ của khoa học công nghệ, sự bùng nổ thông tin, nền kinh tế tri thức và xu thế toàn cầu hóa. Đại hội Đảng IX đã khẳng định “Đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp hoá theo hướng hiện đại hóa”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã khẳng định rõ vị trí, vai trò của Giáo dục và Đào tạo, coi giáo dục là quốc sách hàng đầu: “Phát triển giáo dục - đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát triển nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”. Ngày 15 tháng 4 năm 2009, Bộ Chính trị đã ra thông báo số 242-TB/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII) và phương hướng phát triển giáo dục và đào tạo đến năm 2020 trong đó nêu rõ: “phấn đấu đến năm 2020 nước ta có một nền giáo dục tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế”. Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng, đánh giá cao vai trò của giáo dục. Muốn hoàn thành sự nghiệp CNH, HĐH phải lấy giáo dục làm gốc, giáo dục phải đi trước một bước. Giáo dục là động lực của sự nghiệp đổi mới và tiến bộ xã hội, là con đường căn bản để nâng cao tri thức, thúc đẩy sự phát triển toàn diện của con người. Giáo dục phải cung cấp được nguồn nhân lực có chất lượng cho xã hội. Điều 58 của Luật Giáo dục 2005 quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của nhà trường đã ghi “Tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục khác theo mục tiêu, chương trình giáo dục” Như vậy, thực hiện đổi mới quá trình giáo dục nói chung và đổi mới quá trình dạy học nói riêng là nhiệm vụ trung tâm của mỗi nhà trường để đáp ứng kỳ vọng ngày càng cao của xã hội đối với giáo dục. Ngành giáo dục - đào tạo cần tập trung sức lực, trí tuệ nhằm tìm ra biện pháp nâng cao chất lượng dạy học, phát huy tối đa năng lực sáng tạo của người học.

 1                                                                                                  


MỞ ĐẦU

                                                                                                                                          1. Lý do chọn đề tài.

Đất nước ta đang bước vào thế kỷ XXI, thế kỷ của khoa học công nghệ, sự bùng nổ thông tin, nền kinh tế tri thức và xu thế toàn cầu hóa. Đại hội Đảng IX đã khẳng định “Đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp hoá theo hướng hiện đại hóa”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã khẳng định rõ vị trí, vai trò của Giáo dục và Đào tạo, coi giáo dục là quốc sách hàng đầu: “Phát triển giáo dục - đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát triển nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”. Ngày 15 tháng 4 năm 2009, Bộ Chính trị đã ra thông báo số 242-TB/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII) và phương hướng phát triển giáo dục và đào tạo đến năm 2020 trong đó nêu rõ: “phấn đấu đến năm 2020 nước ta có một nền giáo dục tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế”. Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng, đánh giá cao vai trò của giáo dục. Muốn hoàn thành sự nghiệp CNH, HĐH phải lấy giáo dục làm gốc, giáo dục phải đi trước một bước. Giáo dục là động lực của sự nghiệp đổi mới và tiến bộ xã hội, là con đường căn bản để nâng cao tri thức, thúc đẩy sự phát triển toàn diện của con người. Giáo dục phải cung cấp được nguồn nhân lực có chất lượng cho xã hội. Điều 58 của Luật Giáo dục 2005 quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của nhà trường đã ghi “Tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục khác theo mục tiêu, chương trình giáo dục” Như vậy, thực hiện đổi mới quá trình giáo dục nói chung và đổi mới quá trình dạy học nói riêng là nhiệm vụ trung tâm của mỗi nhà trường để đáp ứng kỳ vọng ngày càng cao của xã hội đối với giáo dục. Ngành giáo dục - đào tạo cần tập trung sức lực, trí tuệ nhằm tìm ra biện pháp nâng cao chất lượng dạy học, phát huy tối đa năng lực sáng tạo của người học.

 1                                                                                                  


Trong thời gian vừa qua các cấp quản lý giáo dục chưa quan tâm đúng mức đến việc tạo lập những điều kiện đảm bảo nâng cao chất lượng dạy học. Cán bộ quản lý ở các cơ sở giáo dục chưa thực sự chú trọng đến việc nâng cao chất lượng dạy học, khiến cho chất lượng giáo dục toàn diện nói chung và chất lượng dạy học nói riêng còn nhiều hạn chế.

Ở trường THCS, Hiệu trưởng là người đứng đầu và chịu trách nhiệm trước Nhà nước về quản lý nhà trường nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục của cấp học. Quản lý HĐDH là một nội dung chủ yếu của công tác quản lý nhà trường phổ thông nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục, đáp ứng yêu cầu của xã hội đối với giáo dục. Vì vậy quản lý hoạt động giáo dục cũng như quản lý HĐDH là nhiệm vụ trung tâm trong công tác quản lý trường phổ thông của người Hiệu trưởng. Để nâng cao chất lượng và hiệu quả HĐDH, người Hiệu trưởng phải có những biện pháp quản lý hợp lý, hiệu quả, khẳng định thương hiệu của nhà trường. Thực tế những năm qua, ở huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên phong trào giáo dục đã có những bước tiến đáng kể; công tác quản lý nhà trường THCS nói chung và quản lý HĐDH nói riêng ngày càng được đổi mới đem lại hiệu quả ngày càng cao về chất lượng dạy học. Tuy nhiên kết quả giáo dục THCS của huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên trong thời gian qua chưa tương xứng với chất lượng và hiệu quả của ngành giáo dục và đào tạo trong toàn tỉnh và tiềm năng vốn có của địa phương về các điều kiện đảm bảo cho giáo dục. Việc tìm kiếm biện pháp, giải pháp trong công tác quản lý HĐDH của Hiệu trưởng nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục và đào tạo là vấn đề cấp thiết vừa có tầm chiến lược trong quá trình phát triển nhà trường tương lai lại vừa đáp ứng mục tiêu văn hoá xã hội của địa phương. Qua nhiều năm công tác ở trường THCS, bản thân tôi nhận thấy việc nâng cao chất lượng

 1                                                                                                  


HĐDH cũng như việc đổi mới công tác quản lý HĐDH của CBQL ở trường THCS là một yêu cầu cấp thiết hiện nay. Đó là những lý do thúc đẩy tôi chọn, nghiên cứu đề tài “Quản lý hoạt động dạy học của Hiệu trưởng trường THCS huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên”.

      2. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng hoạt động quản lý dạy học của Hiệu trưởng các trường THCS huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, đề xuất một số biện pháp quản lý HĐDH của Hiệu trưởng nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở trường THCS.

 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

3.1. Khách thể nghiên cứu: Công tác quản lý HĐDH ở trường THCS.

3.2. Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp quản lý HĐDH của Hiệu trưởng các trường THCS nhằm nâng cao chất lượng dạy học và giáo dục.

 4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu

Chỉ nghiên cứu các biện pháp quản lý HĐDH của Hiệu trưởng ở 4 trường THCS: Chu Mạnh Trinh, Phụng Công, Tân Tiến và Thắng Lợi thuộc huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.

 5. Nhiệm vụ nghiên cứu

5.1. Xây dựng cơ sở lý luận về quản lý HĐDH của Hiệu trưởng các trường THCS.

5.2. Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý HĐDH của Hiệu trưởng các trường THCS huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.

5.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý HĐDH của Hiệu trưởng trường THCS áp dụng cho tất cả các trường có điều kiện tương tự.

6. Giả thuyết khoa học

Công tác quản lý HĐDH của Hiệu trưởng các trường THCS ở huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên trong thời gian qua đã thu được một số kết quả nhất định, góp phần nâng cao chất lượng dạy học ở các nhà trường, nâng cao chất lượng giáo dục của ngành giáo dục - đào tạo huyện Văn Giang và tỉnh Hưng Yên. Tuy nhiên vấn đề quản lý

 1                                                                                                  


HĐDH ở nhiều trường THCS thuộc huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên chưa thực sự phát huy hết khả năng vốn có. Nếu áp dụng hợp lý các biện pháp quản lý HĐDH do tác giả đề xuất thì sẽ nâng cao được chất lượng HĐDH trong nhà trường, đáp ứng mục tiêu phát triển giáo dục của địa phương.

 7. Phương pháp nghiên cứu

7.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận: nghiên cứu tài liệu liên quan đến nhà trường phổ thông: Luật giáo dục, Điều lệ nhà trường, văn bản pháp qui, qui chế về lĩnh vực giáo dục phổ thông, các tài liệu khoa học có liên quan đến đề tài để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.

7.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: quan sát, điều tra, phỏng vấn, tổng kết kinh nghiệm, phương pháp chuyên gia, phương pháp khảo nghiệm để thu thập thông tin, tìm hiểu thực trạng HĐDH, thực trạng quản lý hoạt động dạy của Hiệu trưởng các trường  THCS.

7.3. Nhóm các phương pháp thống kê toán học: xử lý các số liệu để phân tích rút ra nhận xét.

8. Cấu trúc đề tài.

Ngoài phần: Mở đầu, Kết luận, Kiến nghị, Danh mục tài liệu tham khảo, Các phụ lục, nội dung chính gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý HĐDH ở trường phổ thông.

Chương 2: Thực trạng quản lý HĐDH của Hiệu trưởng các trường THCS huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.

Chương 3: Biện pháp quản lý HĐDH của Hiệu trưởng các trường THCS huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.

 1                                                                                                  


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG

1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu

Trong bất kỳ thời đại nào, quốc gia nào, giáo dục luôn được coi là một lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội có liên quan trực tiếp đến lợi ích, nghĩa vụ, quyền lợi của mọi người dân, có tác động mạnh mẽ đến tiến trình phát triển của mỗi quốc gia. Từ những năm cuối thế kỷ 20 và nhất là hiện nay, cuộc cách mạng khoa học - công  nghệ đang phát triển với những bước tiến nhảy vọt. Thế giới đã và đang chuyển từ kỷ nguyên công nghiệp sang kỷ nguyên thông tin để hình thành nền kinh tế tri thức. Giáo dục không còn chỉ là kiến trúc thượng tầng mà thực sự đã là cơ sở hạ tầng xã hội giữ vai trò quyết định trong việc phát triển con người và đưa con người vào quá trình phát triển nhanh nền kinh tế xã hội.Giáo dục được thực hiện bằng nhiều con đường trong đó có dạy học.

 HĐDH là hoạt động đặc trưng căn bản nhất của nhà trường. Trong nhà trường, hiệu trưởng là người đại diện cho quyền lực nhà nước điều hành và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động mà trọng tâm là hoạt động giáo dục - dạy học. Công tác quản lý trường học của Hiệu trưởng chủ yếu là quản lý HĐDH với mục tiêu cuối cùng là nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục của nhà trường.

Chính vì giáo dục có tầm quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc như vậy nên từ xa xưa đến nay luôn dành được sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học để thúc đẩy sự phát triển của giáo dục. Ở phương Đông, từ thời cổ đại, Khổng Tử (551- 479, TCN) - nhà chính trị, triết gia nổi tiếng, nhà giáo dục lỗi lạc của Trung Hoa cổ đại, người đã khai sinh ra ngôi trường đầu tiên của nhân loại, người được xếp là một trong 10 vĩ nhân của thế giới cho rằng: Đất nước muốn phồn vinh, vững mạnh thì phải chú trọng đến 3 yếu tố: Thứ (làm cho dân đông), Phú (làm cho dân giàu), Giáo (làm cho dân có giáo dục, được học hành).

 1                                                                                                  


Ở nước ta, Đảng và Nhà nước đã đề cao vai trò giáo dục đối với sự phát triển của đất nước. Giáo dục được xác định là quốc sách hàng đầu, toàn xã hội phải chăm lo cho sự nghiệp giáo dục. Để nâng cao chất lượng, phát triển sự nghiệp giáo dục một trong những yếu tố quan trọng có tính chất định hướng là vấn đề quản lý nâng cao chất lượng dạy học. Điều này, được Đảng ta tiếp tục khẳng định tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI: "Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học ở các cấp học, bậc học” [22, 133]

Vì thế, việc nghiên cứu về lý luận dạy học và quản lý HĐDH phục vụ mục đích nâng cao chất lượng dạy học là một vấn đề dành được sự quan tâm chú ý của nhiều nhà nghiên cứu giáo dục. Tuy nhiên, nó mới chỉ được nghiên cứu ở những cấp độ nhất định, đáp ứng được phần nào nhu cầu của những người làm công tác quản lý giáo dục ở cấp cơ sở và vẫn cần được tiếp tục nghiên cứu nhằm đưa ra những mô hình tổng thể cho việc quản lý chất lượng dạy học. Bên cạnh một số giáo trình của trường ĐHSP Hà Nội, Viện Chiến lược và Chương trình giáo dục (nay là Viện Khoa học giáo dục Việt Nam) đã trình bày những vấn đề cơ bản của quản lý HĐDH. Nhiều đề tài nghiên cứu đã ra đời, đóng góp vào kho tàng tri thức về khoa học quản lý giáo dục. Có thể kể đến các nhà khoa học: Đặng Quốc Bảo, Trần Kiểm, Nguyễn Quốc Chí, Phạm Đỗ Nhật Tiến, Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Phạm Viết Vượng, Trần Quốc Thành, Nguyễn Văn Lê, Nguyễn Ngọc Quang, Hà Sĩ Hồ, Lê Tuấn, Nguyễn Phúc Châu Trong những năm gần đây, hướng nghiên cứu về quản lý HĐDH cũng được rất nhiều  học viên Cao học quản lý giáo dục quan tâm. Có thể kể đến một số luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Quản lý giáo dục nghiên cứu về vấn đề này như: Nguyễn Thị Thanh Hương với đề tài: "Biện pháp quản lý

 1                                                                                                  


HĐDH của hiệu trưởng các trường THCS thành phố Hải Dương” (2006); Nguyễn Thị Kim Oanh với đề tài "Biện pháp quản lý HĐDH của hiệu trưởng các trường THCS thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ”( 2007). Luận văn của các tác giả trên đã nêu lên các biện pháp quản lý HĐDH của Hiệu trưởng trường THCS. Đó là những công trình có giá trị về lý luận và thực tiễn, phù hợp với công việc của các tác giả trong thực hiện chức trách Hiệu trưởng trường THCS, đồng thời cũng giúp cho các CBQL nhà trường nói chung và các Hiệu trưởng trường THCS khác tham khảo để vận dụng trong công tác quản lý của mình.

1.2. Những khái niệm cơ bản của đề tài.

1.2.1. Quản lý.

Quản lý hình thành và phát triển cùng với sự xuất hiện, phát triển của xã hội loài người. Quản lý là một phạm trù tồn tại khách quan, được ra đời một cách tất yếu do nhu cầu của mọi chế độ xã hội, mọi tổ chức, mọi quốc gia, mọi thời đại. Lao động quản lý là một lĩnh vực lao động trí tuệ và thực tiễn phức tạp nhất của con người, nhằm điều khiển lao động thúc đẩy xã hội phát triển trên tất cả các bình diện. Khoa học quản lý cũng như nhiều khoa học xã hội - nhân văn khác gắn với tiến trình phát triển của xã hội loài người, nó luôn mang tính lịch sử, tính giai cấp, tính dân tộc, tính thời đại. Ngày nay quản lý đã trở thành một khoa học, một nghệ thuật, một nghề phức tạp nhất trong xã hội hiện đại. có nhiều cách giải thích thuật ngữ quản lý tuỳ thuộc vào cách tiếp cận khác nhau. Có quan niệm cho rằng quản lý là điều hành, điều khiển, chỉ huy. Có quan niệm lại cho rằng quản lý là một nghệ thuật, một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được mục đích của nhóm. Mục tiêu của nhà quản lý là hình thành một môi trường mà con người có thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất. Ở góc độ thực hành thì quản lý là một nghệ thuật, còn ở góc độ kiến thức thì quản lý lại là một khoa học.

 1                                                                                                  


Theo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin thì quản lý xã hội một cách khoa học là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý đối với toàn bộ những hệ thống khác nhau của xã hội trên cơ sở vận dụng đúng đắn những quy luật và xu hướng khách quan vốn có, nhằm đảm bảo hoạt động và phát triển tối ưu theo mục đích đặt ra.

Tác giả Nguyễn Đức Trí cho rằng: "Quản lý là một quá trình tác động có định hướng (có chủ định), có tổ chức, có lựa chọn trong số các tác động có thể có dựa trên các thông tin về tình trạng và môi trường, nhằm giữ cho sự vận hành của đối tượng ổn định và làm cho nó phát triển tới mục tiêu đã định". [47,14]

Tác giả Nguyễn Phúc Châu lại cho rằng: “Quản lý là sự tác động liên tục, có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý (người quản lý) lên khách thể quản lý (những người bị quản lý) bằng việc sử dụng các phương tiện quản lý nhằm làm cho tổ chức vận hành đạt tới mục tiêu quản lý” [17, 20]

Các nhà nghiên cứu đề cập đến quản lý tuy có nhiều cách tiếp cận khác nhau nhưng chủ yếu thường theo một trong hai góc độ quản lý xã hội một cách chung nhất và quản lý mang tính cụ thể cho một lĩnh vực hoặc một tổ chức nhất định.

- Ở góc độ chung nhất: Nền văn minh hiện đại của chúng ta có được sự phát triển và kết hợp giữa hai yếu tố quản lý với tri thức và lao động, sự kết hợp biểu hiện ở cơ chế quản lý, chế độ chính sách, biện pháp quản lý...Các nhân tố này do chính chủ thể quản lý tác động lên đối tượng quản lý. Nếu quản lý thể hiện sự kết hợp giữa khoa học và nghệ thuật thì xã hội sẽ phát triển, ngược lại xã hội sẽ trì trệ. Xã hội càng phát triển thì vai trò quản lý càng lớn và nội dung quản lý càng phức tạp. Ta có thể hiểu quản lý xã hội là sự điều khiển, tác động các quá trình của xã hội, hướng dẫn hành vi hoạt động của con người theo hướng phù hợp với quy luật phát triển của xã hội, sự phù hợp này chính là mục đích mà người quản lý hướng tới.

 1                                                                                                  


- Ở góc độ cụ thể: Cấu trúc quản lý bao gồm hai yếu tố chủ thể quản lý và khách thể quản lý. Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng, của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (những người bị quản lý) bằng việc sử dụng các phương tiện quản lí nhằm làm cho tổ chức vận hành đạt tới mục tiêu quản lý.

 Về cấu trúc quản lý tồn tại với tư cách là một hệ thống có cấu trúc và vận hành trong môi trường xác định. Bản chất của hoạt động quản lý là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm thực hiện mục tiêu quản lý.

Sơ đồ 1.1: Cấu trúc hệ thống quản lý

 

 

 

 

Chức năng quản lý.

Có nhiều quan điểm phân định các chức năng cơ bản của quản lý.Cho đến nay đa số các nhà quản lý cho rằng quản lý có bốn chức năng cơ bản là: Kế hoạch hoá; Tổ chức; Chỉ đạo; Kiểm tra. Bốn chức năng đó quan hệ mật thiết với nhau tạo thành một chu trình quản lý.

 1) Chức năng kế hoạch hoá.

Đây là chức năng khởi đầu, là bản thiết kế, là tiên đề, là điều kiện của mọi quá trình quản lý được tổ chức một cách hợp lý.

Chức năng kế hoạch hoá là quá trình xác định mục tiêu và những giải pháp tốt nhất để thực hiện mục tiêu đó. Như vậy, thực chất của kế hoạch hoá là đưa toàn bộ những hoạt động vào công tác kế hoạch hoá với mục đích, giải pháp rõ ràng, bước đi cụ thể và ấn định tường minh các điều kiện cung ứng cho việc thực hiện mục tiêu.

 1                                                                                                  


2) Chức năng tổ chức.

Tổ chức là hoạt động hướng tới hình thành cấu trúc tối ưu của hệ thống quản lý và phối hợp tốt nhất giữa các hệ thống lãnh đạo và bị lãnh đạo (chấp hành).

Đây là giai đoạn thực hiện những ý tưởng đã được kế hoạch hoá để đưa nhà trường từng bước đi lên. Việc tổ chức thực hiện là sự sắp đặt những con người, những công việc một cách hợp lý để mỗi người đều thấy hài lòng và hào hứng, công việc diễn ra trôi chảy.

Như vậy chức năng tổ chức là sự sắp xếp và phân phối các nguồn lực để hiện thực hoá các mục tiêu đã đặt ra. Thực hiện tốt chức năng này sẽ có khả năng tạo ra sức mạnh mới cho tổ chức. Chức năng tổ chức có ba nhiệm vụ sau:

- Xác định cơ cấu tổ chức bộ máy.

- Tuyển chọn và sắp xếp các thành viên trong tổ chức.

- Xác định các mối quan hệ và cơ chế hoạt động của tổ chức.

3) Chức năng chỉ đạo.

Chỉ đạo là quá trình tác động ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến hành vi và thái độ của đối tượng quản lý nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. Chỉ đạo thể hiện quá trình ảnh hưởng qua lại giữa chủ thể quản lý và mọi thành viên trong tổ chức nhằm góp phần thực hiện các mục tiêu đã đề ra.

Chức năng chỉ đạo có 3 nhiệm vụ chính :

- Xác định quyền chỉ huy và giao việc cho các thành viên.

- Hướng dẫn thực hiện, động viên và đôn đốc hoàn thành nhiệm vụ.

- Giám sát, uốn nắn và sửa chữa.

Chức năng chỉ đạo, xét cho cùng là sự tác động lên con người, khơi dậy động lực của nhân tố con người trong hệ thống quản lý, thể hiện mối quan hệ giữa con người với con người và quá trình giải quyết những mối quan hệ đó do họ tự nguyện và nhiệt tình phấn đấu.

4) Chức năng kiểm tra.

Kiểm tra là chức năng của người quản lý nhằm đánh giá, phát hiện và điều chỉnh kịp thời giúp cho hệ thống quản lý vận hành tối ưu, đạt mục đích đề ra. Kiểm tra là nhằm xác định kết quả thực hiện kế hoạch trên thực tế, phát hiện những sai lệch, đề ra những biện pháp uốn nắn điều chỉnh kịp thời. Kiểm tra không hẳn là giai đoạn cuối của chu trình quản lý, bởi kiểm tra không chỉ diễn ra khi công việc đã hoàn thành có kết quả mà nó diễn ra trong suốt quá trình từ đầu đến cuối, từ lúc chuẩn bị xây dựng kế hoạch.

 1                                                                                                  

nguon VI OLET