Thể loại Giáo án bài giảng Lịch sử 9
Số trang 1
Ngày tạo 1/11/2012 6:56:20 AM +00:00
Loại tệp doc
Kích thước 0.22 M
Tên tệp su dung he thong cau hoi de phat huy tinh tich cuc cua hoc sinh trong day hoc m
SỬ DỤNG HỆ THỐNG CÂU HỎI ĐỂ PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG DẠY HỌC M ÔN LỊCH SỬ
Phần I
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài:
Dạy học như thế nào, học như thế nào để đạt được hiệu quả học tập tốt nhất là điều mong muốn của tất cả thầy cô giáo chúng ta. Muốn thế phải đổi mới phương pháp, biện pháp dạy và học. Người giáo viên phải tổ chức một cách linh hoạt các hoạt động của học sinh từ khâu đầu tiên đến khâu kết thúc giờ học( tức là từ cách ổn định lớp, kiểm tra bài cũ đến cách học bài mới, củng cố, dặn dò). Những hoạt động đó giúp học sinh lĩnh hội kiến thức một cách tự giác, chủ động, tích cực, sáng tạo và ngày càng yêu thích, say mê môn học.
Vậy làm thế nào để phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học môn lịch sử? Có rất nhiều biện pháp, ví dụ như: Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan, phương pháp hướng dẫn học sinh ghi nhớ sự kiện lịch sử, nắm vững và sử dụng sách giáo khoa, vở bài tập, tiến hành công tác ngoại khoá, … Nhưng việc sử dụng hệ thống câu hỏi trong dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng là một trong những biện pháp rất quan trọng, rất có ưu thế để phát triển tư duy học sinh. Quá trình hoạt động chung, thống nhất giữa thầy và trò nhịp nhàng sẽ làm cho học sinh nắm vững hơn những tri thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo và bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, hình thành nhân cách cho các em.
Mặt khác, nhằm giảm bớt số lượng học sinh yếu kém trong nhà trường và phát huy hết năng lực của các em khá giỏi nắm chắc được kiến thức bài học và hiểu sâu hơn các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử, …
Để góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng, bản thân tôi đã có nhiều năm tham gia công tác giảng dạy, tôi xin mạnh dạn trình bày một số vấn đề về: “Sử dụng hệ thống câu hỏi để phát huy tính tích cực cho học sinh trong dạy học môn lịch sử”.
Với việc nghiên cứu đề tài này, tôi mong muốn sẽ góp phần vào việc giúp người giáo viên tiến hành một giờ dạy học có hiệu quả tốt hơn, học sinh tích cực chủ động trong việc tiếp thu lĩnh hội kiến thức của bài học. Đây cũng là lí do tôi chọn đề tài này.
2. Thực trạng dạy và học môn lịch sử ở Trường THCS:
2.1. Thuận lợi:
- Về giáo viên:
+ Đại đa số giáo viên để cố gắng thay đổi phương pháp giảng dạy của mình theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh thông qua các phương pháp dạy học như phương pháp trực quan, phương pháp giải quyết vấn đề, phương pháp nêu tình huống, phương pháp vấn đáp thông qua sự trình bày sinh động giàu hình ảnh của giáo viên trong tường thuật, miêu tả, kể chuyện, hoặc nêu đặc điểm của nhân vật lịch sử …
+ Giáo viên đã tích cực hướng dẫn học sinh thảo luận nhóm, bổ trợ kiến thức cho nhau và thông qua hoạt động này những học sinh yếu kém được hoạt động một cách tích cực dưới sự hướng dẫn của giáo viên và các bạn học sinh khá giỏi; qua đó học sinh nắm chắc kiến thức và hiểu sâu hơn về bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử…
+ Trong quá trình giảng dạy đã kết hợp nhuần nhuyễn các đồ dùng dạy học, khai thác một cách triệt để các đồ dùng và phương tiện dạy học như tranh ảnh, lược đồ…
- Về học sinh:
+ Học sinh đa số chú ý nghe giảng, tập trung suy nghĩ trả lời các câu hỏi mà giáo viên đặt ra như các em đã chuẩn bị bài mới ở nhà, trả lời các câu hỏi cuối mục trong bài cho nên khi học các em luôn chú ý để nắm chắc bài hơn.
+ Đa số học sinh đều tích cực thảo luận nhóm và đã đưa lại hiệu quả khá cao trong quá trình lĩnh hội kiến thức.
+ Học sinh yếu kém đã và đang cố gắng nắm bắt các kiến thức trọng tâm cơ bản thông qua các hoạt động học như thảo luận nhóm, vấn đáp, đọc sách giáo khoa, … Các em đã mạnh dạn khi trả lời các câu hỏi hay ghi nhớ các sự kiện, nhân vật, một quá trình cách mạng trong việc chiếm lĩnh kiến thức của mình.
2.2. Khó khăn:
- Về phía giáo viên:
+ Vẫn còn một số ít giáo viên chưa thực sự thay đổi hoàn toàn phương pháp dạy học cho phù hợp với từng tiết dạy, chưa tích cực hoá các hoạt động của học sinh để tạo điều kiện cho các em suy nghĩ, chiếm lĩnh và nắm vững kiến thức như vẫn còn phương pháp dạy học “thầy nói, trò nghe”, “thầy đọc, trò chép”. Do đó nhiều học sinh chưa nắm vững được kiến thức mà chỉ học thuộc một cách máy móc, trả lời câu hỏi thì nhìn vào sách giáo khoa hoàn toàn …
+ Đa số giáo viên chưa nêu câu hỏi nhận thức đầu giờ học, tức là sau khi kiểm tra bài cũ giáo viên vào bài luôn mà không giới thiệu bài qua việc nêu câu hỏi nhận thức, điều này làm giảm bớt sự tập trung, chú ý bài học của học sinh ngay từ hoạt động đầu tiên.
+ Một số câu hỏi giáo viên đặt ra hơi khó, học sinh không trả lời được nhưng lại không có hệ thống câu hỏi gợi mở nên nhiều khi phải trả lời thay cho học sinh. Vấn đề này được thể hiện rất rõ trong hoạt động thảo luận nhóm, giáo viên chỉ biết nêu ra câu hỏi nhưng lại không hướng dẫn học sinh trả lời câu hỏi đó như thế nào.
+ Một số tiết học giáo viên chỉ nêu vài ba câu hỏi và huy động một số học sinh khá, giỏi trả lời, chưa có câu hỏi giành cho đối tượng học sinh yếu kém. Cho nên đối tượng học sinh yếu kém ít được chú ý và không được tham gia hoạt động, điều này làm cho các em thêm tự ti về năng lực của mình và các em cảm thấy chán nản môn học đó.
+ Hiện nay trong nhà trường đã được cấp rất nhiều các thết bị dạy học. Tuy nhiên đối với môn lịch sử thì các đồ dùng thiết bị còn ít hoặc hư hỏng xuống cấp (đặc biệt là các lược đồ - nhiều hình giáo viên phải tự làm để dạy).
- Về phía học sinh:
+ Học sinh thường trả lời câu hỏi giáo viên đặt ra thông qua việc nhìn sách giáo khoa và nhắc lại, chưa có sự độc lập tư duy. Một số học sinh còn đọc y nguyên sách giáo khoa để trả lời câu hỏi.
+ Học sinh còn lười học và chưa có sự say mê môn học, một số bộ phận học sinh không chuẩn bị bài mới ở nhà, không làm bài tập đầy đủ, trên lớp các em thiếu tập trung suy nghĩ. Cho nên việc ghi nhớ các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử còn yếu.
+ Học sinh chỉ có trả lời được những câu hỏi dễ, đơn giản (dạng trình bày), còn một số câu hỏi tổng hợp, phân tích, giải thích, so sánh … thì học sinh còn rất lúng túng khi trả lời hoặc trả lời mang tính chất chung chung.
2.3. Điều tra cụ thể:
Bản thân tôi năm học 2009-2010 giảng dạy môn lịch sử lớp 9A1, 9A2, 9A3, năm học 2010-2011 đảm nhận việc giảng dạy môn lịch sử lớp 9A1, 9A2, 9A3, 9A4. Trong quá trình giảng dạy với ý thức vừa nghiên cứu đặc điểm tình hình học tập bộ môn của học sinh vừa tiến hành rút kinh nghiệm qua mỗi tiết dạy. Việc điều tra được thực hiện thông qua việc hỏi đáp với những câu hỏi phát triển tư duy học sinh ở trên lớp, kiểm tra 15 phút, kiểm tra 45 phút, kiểm tra học kì.
Kết quả điều tra tôi nhận thấyđa số học sinh chỉ trả lời được những câu hỏi mang tính chất trình bày, còn những câu hỏi giải thích tại sao, so sánh, đánh giá nhận thức thì các em còn rất lúng túng khi trả lời. Do đó kết quả điều tra cũng không cao. Cụ thể là:
Khảo sát đầu năm học 2009-20010
Lớp |
Sĩ số |
Giỏi |
Khá |
TB |
|
Yếu |
Kém |
||||
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
||
9A1 |
37 |
1 |
2,7 |
5 |
13,5 |
16 |
43,3 |
13 |
35,1 |
2 |
5,4 |
9A2 |
38 |
2 |
5,3 |
6 |
15,8 |
17 |
44,7 |
12 |
31,6 |
1 |
2,6 |
9A3 |
36 |
1 |
2,8 |
6 |
16,7 |
17 |
47,2 |
11 |
30,5 |
1 |
2,8 |
Khảo sát đầu năm học 2010-2011
Lớp |
Sĩ số |
Giỏi |
Khá |
TB |
|
Yếu |
Kém |
||||
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
||
9A1 |
35 |
2 |
5,7 |
5 |
14,3 |
14 |
40,0 |
12 |
34,3 |
2 |
5,7 |
9A2 |
38 |
2 |
5,3 |
4 |
10,5 |
19 |
50,0 |
11 |
28,9 |
2 |
5,3 |
9A3 |
38 |
1 |
2,6 |
6 |
15,8 |
17 |
44,7 |
11 |
28,9 |
3 |
8,0 |
9A4 |
36 |
1 |
2,8 |
5 |
13,9 |
15 |
41,7 |
13 |
36,1 |
2 |
5,5 |
Phần II
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Mục đích của việc dạy học lịch sử là người giáo viên không chỉ giúp cho học sinh hình dung được những kết quả của quá khứ biết và ghi nhớ các sự kiện, hiện tượng của lịch sử mà quan trọng hơn là hiểu được lịch sử tức là phải nắm được bản chất của sự kiện. Trong phát triển tư duy của học sinh việc sử dụng các thao tác lôgic có ý nghĩa rất quan trọng. thông thường giáo viên sử dụng các thao tác chủ yếu như so sánh để tìm ra sự giống nhau và khác nhau về bản chất của sự kiện, phân tích và tổng hợp, qui nạp, … Để thực hiện những thao tác như vậy có thể dùng nhiều cách, nhiều phương tiện khác nhau (đồ dùng trực quan, tài liệu giải thích,…) song việc hỏi và trả lời phù hợp với trình độ yêu cầu của học sinh, đưa lại kết quả tốt. Hỏi và trả lời chính là đặt tình huống có vấn đề rồi tìm cách giải quyết vấn đề. Hỏi và trả lời không phải là sự đánh đố mà là sự giúp nhau hiểu sâu sắc về lịch sử hơn. Việc hỏi và trả lời câu hỏi có ý nghĩa giáo dưỡng giáo dục và phát triển lớn. Vì vậy việc đặt câu hỏi có vai trò rất quan trọng trong giờ dạy học lịch sử nói riêng và các môn học khác nói chung giúp phát huy được tính tích cực của học sinh.
Nhằm giảm bớt số lượng học sinh yếu kém và nâng cao chất lượng dạy và học của nhà trường, bản thân tôi đã thấy được điều đó và đưa ra các phương pháp học tập tích cực mà cụ thể là việc“Sử dụng hệ thống câu hỏi để phát huy tính tích cực của học sinh trong môn dạy học lịch sử”. Sau đây tôi xin trình bày một số giải pháp thực tế trong việc sử dụng hệ thống câu hỏi để phát huy tính tích cực cho học sinh trong việc dạy học lịch sử ở THCS.
1. Nêu câu hỏi đặt vấn đề:
1.1. Đối với giáo viên:
- Trước khi bước vào bài mới, giáo viên nên nêu ngay câu hỏi định hướng nhận thức cho học sinh. Các câu hỏi nêu vấn đề đưa ra vào đầu giờ nhằm động viên sự chú ý, huy động các năng lực nhận thức của học sinh mà học sinh phải nắm. Đương nhiên, khi đặt câu hỏi không yêu cầu học sinh trả lời ngay mà chỉ sau khi giáo viên đã cung cấp đầy đủ sự kiện thì học sinh mới trả lời được.
Ví dụ:
* Khi dạy bài 5 “Công xã pa-ri 1871” (sách giáo khoa lịch sử 8, trang 35). Giáo viên nêu câu hỏi đầu giờ: Vì sao nói “Công xã Pa-ri là một hình ảnh thu nhỏ của nhà nước kiểu mới - nhà nước của dân, do dân, vì dân”? Để hiểu rõ vấn đề đó các em cần phải tự mình tìm hiểu kĩ vấn đề này, cách tốt nhất là tìm hiểu nguyên nhân, diễn biến rồi từ đó rút ra ý nghĩa của Công xã Pa-ri.
* Hoặc khi dạy bài 7 “Các nước Mĩ La-tinh” (lịch sử lớp 9 sấch giáo khoa, trang 29) để phần chuyển ý sang mục II gây được sự chú ý cho học sinh chúng ta có thể nói: Trong cơn bão táp của cách mạng Mĩ La-tinh thì hình ảnh đất nước Cu-ba như một dãi lụa đào, đang bay lên giữa màu xanh của trời biển Ca-ri-bê với nắng vàng rực rỡ, đó chính là Cu-ba hòn đảo của tự do - hòn đảo anh hùng. Vậy hòn đảo anh hùng này đã tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc như thế nào và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Cu-ba đạt được kết quả gì? Chúng ta chuyển sang mục II “Cu-ba - Hòn đảo anh hùng”.
- Trong quá trình dạy học, chúng ta vẫn tuân thủ trình tự cấu tạo của sách giáo khoa, song cần khai thác nhấn mạnh, giúp học sinh trả lời câu hỏi nêu trên. Học sinh trả lời được câu hỏi này tức là đã nắm và hiểu được kiến thức chủ yếu của bài.
1.2. Đối với học sinh:
Câu hỏi này là câu hỏi thường có tính chất bài tập, muốn trả lời phải huy động kiến thức cơ bản của toàn bài. Chính vì vậy học sinh phải chuẩn bị bài và trả lời trước các câu hỏi cuối mục ở nhà, chú ý tập trung cao độ theo dõi bài giảng, chọn lọc sự kiện được trình bày trên lớp.
2. Xác định mối liên hệ, xâu chuỗi giữa câu hỏi với các sự kiện, hiện tượng trong bài học:
- Một trong những biện pháp sư phạm là xác lập mối liên hệ giữa câu hỏi các sự kiện, hiện tượng lịch sử trong bài.
Ví dụ:
* Sau khi học xong bài 27 “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc (1953 – 1954)” (lịch sử 9, trang 119), chúng ta có thể tổ chức trò chơi ô chữ để cho các em xâu chuỗi các sự kiện, hiện tượng lịch sử lại với nhau để các em khắc sâu hơn kiến thức và có hứng thú học tập thông qua các câu hỏi gợi ý.
Hệ thống câu hỏi trò chơi như sau (Giáo viên dùng bảng phụ để trình bày):
Câu 1. Tham dự Hội nghị (8/5/1954) phái đoàn Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà do ai làm trưởng đoàn?
Câu 2. Đợt 1 của chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, ta tấn công tiêu diệt toàn bộ phân khu Bắc và căn cứ nào của Pháp?
Câu 3. Pháp xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất ở đâu?
Câu 4. 9/1953 với quyết tâm gữ vững quyền chủ động đánh địch, ta đã đề ra kế hoạch tác chiến nào?
Câu 5. Kế hoạch nào của Pháp bị phá sản sau chiến dịch biên giới phía Bắc (1950)? Trang111- sách giáo khoa.
Câu 6. Nhằm xoay chuyển cục diện chiến tranh, Pháp – Mĩ đã cử ai làm Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương?
Câu 7. Tên của một tướng Pháp đầu hàng cùng toàn bộ Ban tham mưu của mình vào 17 giờ 30 phút ngày 7/5/1954?
Câu 8. Từ Khoá: Đây là tên của một hiệp định kí kết vào ngày lập lại hoà bình ở Đông Dương?
Đáp án các ô chữ:
P |
H |
Ạ |
M |
V |
Ă |
N |
Đ |
Ồ |
N |
G |
|
|
||||||||||||
|
|
H |
I |
M |
L |
A |
M |
|||||||||||||||||
Đ |
Ô |
N |
G |
D |
Ư |
Ơ |
N |
G |
|
|||||||||||||||
|
Đ |
Ô |
N |
G |
X |
U |
 |
N |
|
|||||||||||||||
|
R |
Ơ |
V |
E |
||||||||||||||||||||
|
N |
A |
V |
A |
||||||||||||||||||||
Đ |
Ờ |
C |
A |
X |
T |
Ơ |
R |
I |
||||||||||||||||
Từ hàng dọc là : GIƠ-NE-VƠ
Từ những kiến thức này được sắp xếp trình diễn trên bảng phụ để các em có thể quan sát được câu hỏi và hệ thống kiến thức, học sinh tự tìm ra câu trả lời, tìm ra mối liên hệ giữa chúng. Trong học sinh sẽ có cuộc tranh luận đâu là từ chìa khoá của ô chữ và học sinh sẽ phát hiện ra chìa khoá là “Giơ-ne-vơ”. Cách lập bảng như vậy hợp với cách sử dụng câu hỏi sẽ có hiệu quả không chỉ về kiến thức mà còn có tác dụng giáo dục, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo, phát triển tư duy cho học sinh và giúp các em tránh nhàm chán trong tiết học.
- Việc xây dựng bảng các sự kiện qua các câu hỏi trò chơi và mối liên hệ giữa chúng là một trong những biện pháp giúp học sinh nhớ ngay sự kiện cơ bản ở trên lớp, đồng thời kích thích tính tích cực học tập của các em.
3. Xây dựng hệ thống câu hỏi trên lớp:
- Trong quá trình giảng dạy ở trên lớp, giáo viên còn phải biết đặt ra và giúp học sinh giải quyết các câu hỏi có tính chất nhận thức kiến thức. Một hệ thống câu hỏi tốt nêu ra trong quá trình giảng dạy phải phù hợp với khả năng của các em, kích thích tư duy phát triển. Đồng thời tạo ra mối liên hệ bên trong của học sinh và giữa học sinh với giáo viên. Tức là mỗi câu hỏi đưa ra, mỗi học sinh và cả giáo viên phải thấy rõ vì sao trả lời được? Vì sao không trả lời được? Câu hỏi quá khó hay chưa đủ sự kiện, tư liệu để các em trả lời.
- Trong sách giáo khoa, thường sau mỗi mục, mỗi bài có từ 1 đến 3 câu hỏi, những câu hỏi này là cơ sở để giáo viên xác định kiến thức trong sách, đồng thời bổ sung để xây dựng hệ thống câu hỏi của bài. Câu hỏi phải có sự chuẩn bị từ khi soạn giáo án, phải có dự kiến nêu ra lúc nào? Học sinh sẽ trả lời như thế nào? Đáp án ra sao? Rõ ràng việc sử dụng câu hỏi trong dạy học còn là một nghệ thuật. Những câu hỏi đặt ra bắt buộc học sinh phải suy nghĩ, phải kích thích được lòng ham hiểu biết, trí thông minh, sáng tạo của học sinh. Đặc biệt là giúp học sinh yếu kém tích cực hoạt động và dần dần hình thành kiến thức cơ bản cho các em qua hệ thống câu hỏi, từ đó các em có hứng thú học tập và xây dựng bài hơn.
- Thông thường trong quá trình giảng dạy chúng ta thường đặt ra nhiều loại câu hỏi, căn cứ vào tính chất, đặc điểm của các kiến thức lịch sử, chúng ta có các loại câu hỏi. Cụ thể như:
* Loại câu hỏi về sự phát sinh các sự kiện, hiện tượng lịch sử mà chúng ta thường hỏi về nguyên nhân, bối cảnh hay hoàn cảnh lịch sử của sự kiện, hiện tượng lịch sử và thường áp dụng cho đối tượng học sinh yếu kém.
Ví dụ:
Loại câu hỏi này thường xuất hiện vào phần đầu bài giảng. Bởi vì bất kì một sự kiện, hiện tượng lịch sử nào đều xuất hiện trong hoàn cảnh lịch sử nhất định, đều có nguyên nhân phát sinh của nó. Đây cũng là một đặc điểm tư duy của lịch sử cần hình thành từng bước cho học sinh.
* Loại câu hỏi về quá trình, diễn biến, phát triển của sự kiện hiện tượng lịch sử như diễn biến của các cuộc khởi nghĩa, diễn biến các cuộc cách mạng.
Ví dụ:
Tuy đây là câu hỏi ít suy luận song lại đòi hỏi trí nhớ, phải biết nhiều sự kiện địa danh, nhân vật để giúp học sinh phát triển trí nhớ nên cần phải chia câu hỏi thành nhiều câu hỏi nhỏ, đồng thời lập các bảng niên biểu, mối liên hệ giữa các sự kiện.
* Câu hỏi nêu lên đặc trưng bản chất của các hiện tượng lịch sử, bao gồm sự đánh giá và thái độ của học sinh đối với các hiện tượng lịch sử ấy. Loại câu hỏi này thường dùng cho học sinh khá giỏi khi thảo luận để bổ trợ kiến thức cho các đối tượng yếu kém.
Ví dụ:
Thường thì những câu hỏi này khó đối với học sinh, nó đòi hỏi các em phải biết phân tích, đánh giá, biết bày tỏ thái độ của mình đối với sự kiện, hiện tượng lịch sử. Học sinh rất ngại trả lời những câu hỏi này, tuy nhiên giáo viên cần kiên trì đưa thêm những câu hỏi gợi mở giúp các em trả lời câu hỏi của mình.
Ví dụ:
Câu hỏi nhận thức: Tại sao khi phát xít Nhật đầu hàng đồng minh, Đảng ta quyết định Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc?
Câu hỏi gợi mở: Chủ trương khởi nghĩa vũ trang đề ra trong hội nghị TW lần thứ VIII (tháng 5/1941) là gì? Các yếu tố nào (về thời cơ cách mạng) đầy đủ ở nước ta lúc bấy giờ chưa?
* Loại câu hỏi tìm hiểu kết quả, nguyên nhân dẫn đến kết quả đó và ý nghĩa lịch sử của sự kiện. Với dạng câu hỏi này cũng dùng cho đối tượng học sinh yếu kém để các em tự phát hiện và chiếm lĩnh được kiến thức cơ bản và giúp các em hoạt động liên tục trong quá trình học tập.
- Lịch sử chính là quá trình phát triển liên tục, đan xen nhau giữa các sự kiện hoặc một hiện tượng hay một quá trình lịch sử nào đó. Cần cho học sinh thấy rõ được kết quả của sự vận động đó, nguyên nhân thắng lợi hay thất bại và ảnh hưởng của nó đối với quá trình phát triển lịch sử.
Ví dụ:
- Để trả lời những câu hỏi này, học sinh dựa vào sách giáo khoa để trả lời bằng ngôn ngữ của mình chứ không lặp lại sách giáo khoa.
* Loại câu hỏi đối chiếu, so sánh giữa sự kiện, hiện tượng lịch sử này với sự kiện, hiện tượng lịch sử khác mà các em đã học. Đây là loại câu hỏi khá khó đối với học sinh THCS. Ưu điểm của loại câu hỏi này là vừa giúp học sinh củng cố ôn tập lại kiến thức cũ vừa tiếp nhận kiến thức mới và áp dụng khi hoạt động thảo luận nhóm để các em bổ trợ kiến thức cho nhau và cùng giải quyết vấn đề.
Ví dụ:
Tóm lại: Các loại câu hỏi nêu trên tạo thành một hệ thống câu hỏi hoàn chỉnh, giúp cho học sinh trong quá trình học tập lịch sử phát hiện ra nguyên nhân, diễn biến, kết quả và ý nghĩa của một sự kiện hay một quá trình lịch sử. Những câu hỏi đó giáo viên vận dụng nhuần nhuyễn trong các tiết dạy không chỉ cho các em biết được các sự kiện đi sâu hiểu bản chất của sự kiện, nó không chỉ đòi hỏi học sinh nhớ các sự kiện lịch sử cơ bản mà phải suy nghĩ nhận thức sâu sắc bản chất của sự kiện lịch sử.
4. Vận dụng hệ thống câu hỏi phát huy tính tích cực của học sinh vào một mục cụ thể:
Thiết kế câu hỏi gợi mở để giải quyết câu hỏi nhận thức:
Ví dụ: ( Mục IV: Hiệp định sơ bộ (6-3-1946) và tạm ước Việt - Pháp (14-9-1946) ở bài 24 “Cuộc đấu tranh và bảo vệ xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân (1945-1946)” - Lịch sử 9, tiết 2 ).
Giáo viên tổ chức cho học sinh tìm hiểu sự bắt tay hoà hoãn giữa Tưởng và Pháp qua Hiệp ước Hoa – Pháp (28-2-1946), theo hiệp ước này Pháp nhường cho Tưởng một số quyền lợi về kinh tế trên đất Trung Quốc và được vận chuyển hàng hóa qua cảng Hải Phòng vào Hoa Nam không phải đóng thuế. Ngược lại, Pháp đưa quân ra miền Bắc thay thế quân Tưởng làm nhiệm vụ giải giáp khí giới quân Nhật. Điều này vi phạm trắng trợn chủ quyền của dân tộc ta, chúng coi Việt Nam là món hàng để trao đổi. Trước tình hình đó, Đảng ta có chủ trương, sách lược gì để đối phó? Giáo viên đưa ra câu hỏi nhận thức:
Phần III
KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Sau một thời gian vận dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào các tiết dạy học môn lịch sử và đã đạt được kết quả khả quan. Trước hết bản thân tôi đã nhận thấy rằng những kinh nghiệm này rất phù hợp với chương trình sách giáo khoa mới và với những tiết dạy học theo hướng đổi mới. Học sinh có hứng thú học tập hơn, tích cực chủ động sáng tạo để mở rộng vốn hiểu biết, đồng thời cũng rất linh hoạt trong việc thực hiện nhiệm vụ lĩnh hội kiến thức và phát triển kĩ năng. Không khí học tập sôi nổi, nhẹ nhàng và học sinh yêu thích môn học hơn. Tôi cũng hi vọng với việc áp dụng đề tài này học sinh sẽ đạt được kết quả cao trong các kì thi và đặc biệt học sinh sẽ yêu thích môn học này hơn.
Kết quả cụ thể:
Kết quả cuối năm học 2009 - 2010
Lớp |
Sĩ số |
Giỏi |
Khá |
TB |
|
Yếu |
Kém |
||||
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
||
9A1 |
37 |
3 |
8,1 |
16 |
43,3 |
18 |
48,6 |
0 |
0 |
0 |
0 |
9A2 |
38 |
7 |
18,5 |
17 |
44,7 |
13 |
34,2 |
1 |
2,6 |
0 |
0 |
9A3 |
36 |
4 |
11,1 |
21 |
58,3 |
10 |
27,8 |
1 |
2,8 |
0 |
0 |
Kết quả cuối năm học 2010 - 2011
Lớp |
Sĩ số |
Giỏi |
Khá |
TB |
Yếu |
Kém |
|||||
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
||
9A1 |
35 |
5 |
14,3 |
9 |
25,7 |
20 |
60,0 |
/ |
/ |
/ |
/ |
9A2 |
38 |
6 |
15,8 |
11 |
28,9 |
20 |
52,6 |
1 |
2,7 |
/ |
/ |
9A3 |
38 |
5 |
13,2 |
10 |
26,3 |
23 |
60,5 |
/ |
/ |
/ |
/ |
9A4 |
36 |
5 |
13,9 |
9 |
25,0 |
21 |
58,3 |
1 |
2,8 |
/ |
/ |
Sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này, bản thân tôi đã rút ra một số kinh nghiệm sau:
- Trong mỗi tiết dạy giáo viên nêu mục tiêu yêu cầu của tiết, mục của bài học. sau đó cung cấp thông tin và phân bổ thời gian hợp lí để học sinh tiếp nhận thông tin.
- Giáo viên đặt và sử dụng linh hoạt các câu hỏi phù hợp với nội dung bài dạy, tuỳ theo khối lớp và đối tượng học sinh mà vận dụng.
- Khi nêu câu hỏi giáo viên cố gắng sử dụng các câu hỏi ngắn gọn, đủ ý, đơn giản, dễ hiểu, gợi sự suy nghĩ và tư duy của học sinh. Không nên sử dụng câu hỏi “Có” hay “Không”, “Đúng” hay “Sai” mà phải sử dụng câu hỏi phát huy tính độc lập tư duy ở các em (tránh tình trạng học sinh trả lời một cách công thức hoặc chung chung).
- Khi tổ chức học sinh tiếp nhận thông tin, giáo viên chú ý sử dụng câu hỏi gợi mở (chuẩn bị kĩ ở giáo án) để giải quyết câu hỏi đặt ra đầu giờ.
- Giáo viên cần nghiên cứu kĩ sách giáo khoa, thường xuyên nghiên cứu thêm tài liệu tham khảo để xây dựng các câu hỏi trong các tiết dạy và vận dụng linh hoạt hơn để giải quyết nhiệm vụ nhận thức ở mỗi bài.
- Giáo viên cần kết hợp các phương tiện dạy học khác như đồ dùng trực quan, hình ảnh, tranh vẽ trong sách giáo khoa, hệ thống thao tác sư phạm khi lên lớp … để góp phần phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong mỗi tiết học, nâng cao hiệu quả giờ dạy.
- Trong quá trình giảng dạy, ngôn ngữ nói phải truyền cảm, không quá nhanh hoặc quá chậm, phải lôi cuốn, hấp dẫn, trình bày phải có điểm nhấn, tránh đều đều.
- Khi đăt câu hỏi không nên đặt câu hỏi quá dễ làm cho học sinh thoả mãn, đi đến chủ quan về vốn hiểu biết của mình, mà phải làm cho các em hiểu rằng, sự trả lời đúng, đầy đủ câu hỏi do giáo viên nêu ra là tốt, song vẫn phải tiếp tục suy nghĩ để trả lời hay hơn, sâu sắc hơn và thông minh hơn.
- Cần tạo cơ hội cho học sinh trong cả lớp trả lời, thảo luận nhóm, không làm nặng nề giờ học, trình bày nhồi nhét song vẫn tạo không khí thoải mái, nhẹ nhàng để đạt kết quả tối đa.
- Giáo viên dạy môn lịch sử phải luôn luôn tìm tòi sáng tạo và đổi mới trong phương pháp dạy học. Có kế hoạch cụ thể trong việc tìm kiếm và thiết kế các đồ dùng dạy học đẹp, chính xác, phù hợp với nội dung bài dạy.
Người giáo viên lịch sử cần tự bồi dưỡng năng khiếu vẽ bản đồ, lược đồ thật khoa học và chính xác. Sử dụng triệt để các phương pháp dạy học tích cực nhằm thu hút sự chú ý của học sinh. Nên có những buổi ngoại khoá, tham quan các di tích lịch sử ở địa phương.
Tóm lại việc “Sử dụng hệ thống câu hỏi để phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học môn lịch sử” được vận dụng trong các tiết dạy sẽ đạt được kết quả học tập cao nhất của học sinh về tất cả các mặt giáo dưỡng, giáo dục và phát triển. Đây là hoạt động tương hỗ giữa thầy và trò nhằm giúp cho học sinh độc lập lĩnh hội kiến thức một cách thông minh, vận dụng một cách sáng tạo vào thực tế (học tập và cuộc sống). Điều này quan trọng và đòi hỏi nhiều công sức, lao động sáng tạo, ý thức tinh thần trách nhiệm cao của mỗi người giáo viên. Ngoài ra còn cần đòi hỏi phát triển năng lực tư duy và hành động của mình trước khi giáo dục cho học sinh, cho nên giáo viên phải nắm vững lí luận, rèn luyện nghiệp vụ thường xuyên.
Với sáng kiến kinh nghệm này, tôi hi vọng sẽ góp một phần nhỏ vào việc giúp giáo viên và học sinh trường THCS Trần Phán nói riêng, các đồng nghiệp và học sinh trường bạn nói chung khi thực hiện phương pháp sử dụng những câu hỏi để phát huy tính tích cực của học sinh đạt hiệu quả cao hơn. Về phía bản thân tôi, tôi xin hứa sẽ tiếp tục phát huy những kết quả đạt được của việc thực hiện sáng kiến kinh nghệm trên, đồng thời không ngừng rút kinh nghiệm, khắc phục khó khăn để nâng cao hơn nữa chất lượng dạy học.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi trong quá trình giảng dạy môn lịch sử, hiểu biết và kinh nghiệm chắc chắn không tránh những sai xót, rất mong được sự góp ý trân thành của các đồng nghiệp.
Trần Phán, ngày 25 tháng 11 năm 2011
Người viết SKKN:
LÊ XUÂN BẢO
1
Trang
© 2024 - nslide
Website chạy thử nghiệm. Thư viện tài liệu miễn phí mục đích hỗ trợ học tập nghiên cứu , được thu thập từ các nguồn trên mạng internet ... nếu tài liệu nào vi phạm bản quyền, vi phạm pháp luật sẽ được gỡ bỏ theo yêu cầu, xin cảm ơn độc giả