Sáng kiến kinh nghiệm                                                                     Năm học: 2013-2014             

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN TRONG GIẢNG DẠY TIẾNG ANH LỚP 3 NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP CA HỌC SINH

 

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Ngày nay xã hội đang ngày càng phát triển, việc học tập, tiếp thu, lĩnh hội tri thức nhân loại đang là nhu cầu cấp thiết của từng người. Để mỗi người dễ dàng tiếp cận với nguồn tri thức dồi dào đó, Tiếng Anh là phương tiện không thể thiếu. Do đó, việc học tiếng Anh đang ngày càng được xã hội quan tâm hơn, đặc biệt là thế hệ trẻ. Bởi vì tiếng Anh là ngôn ngữ chung nhất được sử dụng và được giao lưu. Mỗi môn học có những phương pháp giảng dạy, đặc thù riêng. Đối với việc giảng dạy môn Ngoại ngữ nói chung và với môn Tiếng Anh nói riêng thì phương pháp giảng dạy và phương tiện hỗ trợ trong giảng dạy phải là những vấn đề cần được đặt lên hàng đầu. Để có một tiết học Tiếng Anh có chất lượng tốt, tạo cho học trò một sự hứng khởi khi tiếp thu bài học thì giáo viên phải áp dụng những phương pháp độc đáo, hấp dẫn. Ngoài ra đồ dùng trực quan là công cụ quan trọng và không thể thiếu trong mỗi tiết dạy Tiếng anh để hỗ trợ giáo viên truyền đạt những kiến thức mới, nhằm giúp học sinh dễ dàng hiểu và tiếp thu những kiến thức mà giáo viên truyền đạt. Do đó việc sử dụng các phương tiện nghe nhìn như băng, đĩa, máy chiếu, tranh ảnh, những vật thật, mô hình … không thể thiếu cho sự truyền tải thông tin và giảng dạy kiến thức mới cho học sinh.

Xuất phát từ vấn đề này, tôi cho rằng việc sử dụng đồ dung trực quan là vô cùng cần thiết nhằm tạo sự tập trung, theo dõi của học sinh vào các vấn đề được trình bày, tạo sự hứng thú và khơi dậy trí tò mò muốn khám phá những vấn đề mới. Từ đó giáo viên sẽ có cơ hội truyền tải và học sinh sẽ lĩnh hôi kiến thức mới một cách tích cực và hiệu quả. Từ thực tế việc sử dụng đồ dung trực quan trong giảng dạy và đã được được nhiều kết quả tốt. Tôi xin mạnh dạn đưa ra sáng kiến kinh nghiệm: "Sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy tiếng anh lớp 3 nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh”

  2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:

 2.1. Cơ sở lý luận:

 Đổi mới phương pháp giảng dạy “Lấy học sinh làm trung tâm” là phương pháp giảng dạy lấy học sinh làm chủ thể trong quá trình tìm hiểu khai thác kiến thức. Trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy thì đồ dùng trực quan có một vai trò vô cùng quan trọng giúp học sinh có khả năng tư duy cao độ, tập trung quan sát tìm hiểu và nghiên cứu thông qua kênh hình, xây dựng lên kiến thức bài học.

 Người thầy đóng vai trò làm người hướng dẫn, thiết kế những hoạt động học tập giúp học sinh tự thu thập được thông tin và xử lý thông tin, tự phát hiện ra chủ điểm và nội dung kiến thức chính của bài học mới. Tổ chức cho học sinh khai thác triệt để kiến thức, xây dựng kiến thức tình huống thông qua kênh hình. Đồ dùng trực quan sẵn có để thu thập thông tin mới qua quan sát hình vẽ, vật thật, mô hình sẵn có quanh ta để rút ra kết luận hoặc khắc ghi cấu trúc, ngữ nghĩa sâu và lâu hơn.               Học sinh tích cực tham gia và tìm hiểu nghiên cứu kiến thức, không còn tình trạng học sinh ngồi thụ động tiếp thu những kiến thức bài học do giáo viên trình bày trong sách giáo khoa mà chủ động tham gia vào quá trình tìm hiểu, tiếp nhận kiến thức và phát hiện ra nội dung, kiến thức bài học mới.

 2.2. Thực trạng

  2. 2.1. Thuận lợi:

- Có sự quan tâm của ngành cấp trên, Ban giám hiệu, Phụ huynh và giáo viên.

- Học sinh đang dần có cái nhìn tích cực hơn với môn học này và đa số các em rất ham thích học.

- Biên chế giáo viên đảm bảo theo nhu cầu phát triển của mỗi nhà trường; đồng thời giáo viên được đào tạo theo chuẩn, có sự nhiệt tình, năng lực và có tích luỹ được kinh nghiệm.

  2.2.2. Khó khăn:

- Còn thiếu trang thiết bị phục vụ cho bộ môn:  phòng lab, sách tham khảo …

- Còn một số ít HS gặp khó khăn trong việc tiếp cận và nắm bắt ngôn ngữ mới. Từ đó, có ảnh hưởng không ít đến chất lượng dạy-học.

- Hầu hết HS ở vùng nông thôn, phát âm tiếng địa phương nên khi đọc tiếng Anh không chuẩn, thường có xu hướng phát âm tiếng Anh theo cách Việt hoá.

   2.3. Các biện pháp tiến hành khi sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy:

 2.3.1. Chuẩn bị: 

 - Muốn sử dụng tốt đồ dùng trực quan trong giảng dạy Anh Văn tr­ước hết giáo viên phải biết đ­ược các loại đồ dùng trực quan và tác dụng của nó trong việc tìm hiểu và khai thác kiến thức ở từng bài học.

 - Đồ dùng trực quan trong giảng dạy bao gồm: vật thật, mô hình, tranh vẽ …

 + Vật thật là những đồ vật cần thiết có ở xung quanh ta và rất gần gũi với đời sống hàng ngày hoặc dụng cụ học tập nh­ư th­ước kẻ, bút chì, sách vở, bàn ghế, giá sách …

 + Đồ dùng hình t­ượng là những hình vẽ, băng, đĩa.

 + Vật thay thế là các mô hình bằng nhựa hoặc đất sét.

khi sử dụng đồ dùng trực quan giáo viên phải nghiên cứu nội dung bài học tr­ước để chuẩn bị đồ dùng cho phù hợp với nội dung tiết dạy và đồ dùng đó phải

được sử dụng một cách triệt để, tiết dạy đó sẽ hiệu quả hơn. Có như­ vậy đồ dùng trực quan mới có giá trị để học sinh khai thác và tìm hiểu kiến thức tốt hơn trên cơ sở quan sát trao đổi nhóm để khắc sâu kiến thức.

Dùng đồ dùng trực quan phục vụ cho việc giảng dạy bộ môn Anh Văn góp phần làm học sinh dễ hiểu và tiếp nhận kiến thức dễ hơn, tạo sự thoải mái cho học sinh làm cho các em không còn ngại học ngoại ngữ nói chung và Anh Văn nói riêng. Sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy thì người dạy đóng vai trò là chỉ đạo, học sinh làm chủ trong quan sát và chủ động tìm hiểu nghiên cứu chủ điểm cũng nh­ư kiến thức của bài học mới, tạo đ­ược hứng thú và kích thích tính tò mò, hiếu động, ham tìm hiểu ở học sinh. Sau khi quan sát đồ dùng trực quan, ng­ười dạy là ng­ười h­ướng dẫn gợi ý để học sinh xây dựng và h­ướng tới nội dung chính, kiến thức trọng tâm của bài.

 Chính vì lẽ đó, đối với giáo viên phải chuẩn bị đồ dùng dạy học là một vấn đề quan trọng không thể thiếu đ­ược, nó quyết định đến việc thành công cho tiết dạy và cả quá trình dạy học, giáo viên cần có kế hoạch nghiên cứu ch­ương trình để chuẩn bị đồ dùng.

2.3.2. Ph­ương pháp sử dụng đồ dùng trực quan:

- Đây là ph­ương pháp giáo viên tổ chức để cho học sinh quan sát đồ dùng trực quan, tìm hiểu kiến thức thông qua đồ dùng để xây dựng tình huống, đoán ngữ nghĩa của từ, dự đoán các hiện t­ượng, sự việc, thu thập thông tin dữ liệu để h­ướng học sinh vào chủ điểm bài học hoặc làm bài tập để xử lý thông tin.

- Để phát huy việc sử dụng đồ dùng trực quan tốt nhất cần kết hợp và linh hoạt sử dụng một số ph­ương pháp cơ bản sau đây:

* Ph­ương pháp làm mẫu (Model, Action, Talk - Mat) nhấn mạnh vào việc hành động và làm mẫu theo các cấu trúc và mẫu câu rồi luyện kỹ, giúp cho học sinh hình thành kỹ năng sử dụng tiếng Anh một cách tối đa trong một l­ượng thời gian tối thiểu. Ph­ương pháp này t­ương đối phù hợp với hoàn cảnh dạy tiếng Anh ở Việt Nam vì có những ­ưu điểm sau:

+ Tiết kiệm đ­ược thời gian, học sinh hiểu ngay đ­ược nội dung, ngữ liệu qua động tác của giáo viên.

+ Học sinh hiểu đ­ược mình phải làm gì khi luyện tập.

+ Giúp giáo viên dùng toàn tiếng Anh để giảng giải một cấu trúc, một hoạt động mà không cần viện đến tiếng mẹ đẻ.

* Ph­ương pháp phản ứng thể chất toàn bộ (Total Physical Response – TPR) còn gọi là ph­ương pháp nghe hiểu (The Comprehension Approach -CA) nhằm giúp học sinh phản ứng toàn diện bằng động tác dựa trên sự liên kết giữa ngôn ngữ và hành động tự nhiên, cách làm này giúp học sinh liên t­ưởng và nhớ lâu hơn.

+ Đặc điểm của ph­ương pháp TPR:

- Giúp học sinh phát triển khả năng hiểu ngôn ngữ trư­ớc khi nói ngôn ngữ ấy.

- Khả năng hiểu ngôn ngữ thông qua động tác cơ thể.

- Không ép buộc học sinh nói nếu các em chư­a sẵn sàng.

+ Kỹ thuật chủ đạo của ph­ương pháp TPR:

- Dùng mệnh lệnh chỉ đạo hành vi của học sinh trên lớp;

- Thay đổi vai giao tiếp: Cho học sinh đổi vai, làm theo mệnh lệnh và tập ra lệnh.

- Sử dụng chuỗi hành động (các mệnh lệnh có liên quan tới nhau).

* Ph­ương pháp chức năng (Functional Approach - FA) nhấn mạnh khả năng sử dụng ngôn ngữ bằng những mẫu câu trong ngữ cảnh, tình huống cụ thể và phù hợp.

* Ph­ương pháp giao tiếp (Communicative Approach - CM) coi ngôn ngữ sử dụng trong lớp học phải mang tính thông báo để trao đổi ý t­ưởng và tình cảm giữa giáo viên - học sinh và học sinh với học sinh.

* Ph­ương pháp nghe - nói (Audio - lingual Approach - ALA) nhấn mạnh vào kh năng phát âm và cú pháp của ngôn ngữ.

* Ph­ương pháp ngữ pháp - cấu trúc (Grammatical Structural Approach) nhấn mạnh vào sự tiếp thu một hệ thống ngữ pháp.

Bên cạnh việc sử dụng đồ dùng trực quan giáo viên cũng cần nhấn mạnh vào kỹ năng giao tiếp, lấy học sinh làm trung tâm, khuyến khích các em giao tiếp theo nhóm, theo cặp và cả lớp, xây dựng môi tr­ường thân thiện hợp tác.

Do vậy giáo viên cần:

- Tăng c­ường sử dụng tiếng Anh trên lớp học để tiến tới việc có thể sử dụng tiếng Anh như­ một ngôn ngữ chính trong việc học tiếng Anh (các lời chào, thăm hỏi, mệnh lệnh…) nói với các em càng nhiều tiếng Anh càng tốt để tạo cho các em hình thành thói quen nghe và hiểu.

- Quan tâm hơn nữa tới việc sử dụng tiếng Anh như­ một phư­ơng tiện giao tiếp thực sự hư­ớng tới độ chuẩn xác về ngữ âm và ngữ điệu.

- Khuyến khích học sinh sử dụng tiếng Anh thư­ờng xuyên hơn (chào, hỏi, xin phép …).

- Khuyến khích học sinh chuyển đổi ra tiếng Anh những điều các em nói bằng tiếng Việt;

- Trả lời câu hỏi của học sinh bằng Tiếng Anh.

- Tạo môi trư­ờng ngôn ngữ để làm nảy sinh nhu cầu giao tiếp bằng ngoại ngữ để thúc đẩy học sinh tham gia tích cực vào hoạt động giao tiếp.

- Giúp học sinh khắc phục mặc cảm tự ti, xấu hổ, sợ sai dẫn đến việc ngại nói, l­ời nói bằng cách động viên, chỉ dẫn, sửa lỗi nhẹ nhàng chứ không ngắt lời khi học sinh đang nói, không phê phán khi các em làm sai.

- Chỉ sử dụng tiếng Việt để hỗ trợ cho việc giải thích một số từ khó, khái niệm trừu t­ượng hoặc các hiện t­ượng ngữ pháp mới.

- Tập trung dạy ngôn ngữ giao tiếp trên cơ sở hành động lời nói chứ không dạy ngữ pháp thuần tuý.

- Chuẩn bị các hoạt động đa dạng sao cho phù hợp với các đối tư­ợng khác nhau.

- Chuẩn bị nhiều tình huống giao tiếp liên quan đến từng hành động lời nới.

- Cung cấp cho học sinh ngữ liệu tối thiểu, đơn giản, dễ nhớ, dễ sử dụng.

Để tránh tình trạng “dịch” từng từ một hay từng câu nói một, khi dạy ngữ liệu mới, đồ dùng dạy học, nghe - nhìn cần đ­ược sử dụng trong việc thiết lập tình huống giao tiếp hay giới thiệu ngữ nghĩa của ngữ liệu mới. Giáo viên có thể sử dụng hình ảnh, đồ vật thật, điệu bộ, giọng nói hay hành động để giúp học sinh liên hệ giữa âm thanh, giọng nói của băng đĩa hay của chính giáo viên. Bằng cách này giáo viên có thể gây hứng thú và h­ướng sự chú ý của các em vào học tập, đồng thời có sự lien tưởng và ghi nhớ trong ký ức những gì đ­ược nghe thấy.

Riêng đối với một số ngữ liệu có tính trừu t­ượng, không thể dùng đồ dùng học tập dạy học, nghe, nhìn giáo viên có thể dùng Tiếng Việt đơn giản, ngắn gọn để nói nghĩa tư­ơng đư­ơng. Tuy nhiên không nên lạm dụng Tiếng Việt giảng dạy ngoại ngữ mà nên giải thích nghĩa Tiếng Anh thông qua câu, từ đơn giản.

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:

Sau đây là kết quả kiểm chứng của tôi khi áp dụng Sáng kiến kinh nghiệm vào thực tế giảng dạy ở Khối 3 - lớp 3A2 Trường Tiểu học Thị Trấn Kinh Cùng năm học 2013-2014:

 - Vào cuối Học kỳ I năm học 2013 – 2014, kết quả học sinh lớp 3A2 đạt như sau: TSHS: 36 Trong đó  Giỏi: 9, Khá: 11, Trung bình: 16 

 - Bắt đầu từ đầu Học kỳ II tôi áp dụng thực tế sáng kiến kinh nghiệm của mình vào giảng dạy đến cuối Học kỳ II. Kết quả học sinh lớp 3A2 đạt như sau: TSHS: 36 Trong đó  Giỏi: 21, Khá: 15 và không còn học sinh trung bình.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

3. KẾT LUẬN:

3.1. Bài học kinh nghiệm:

Qua việc áp dụng sáng kiến tôi rút ra đ­ược một số kinh nghiệm sau:

- Giới thiệu từ mới thông qua vật thật hoặc tranh ảnh.

- Dạy cách phát âm thông qua việc nghe băng kết hợp với việc mô phỏng âm thanh bằng thao tác, hành động của ng­ười dạy.

- Đồ dùng trực quan phải đa dạng, sinh động, gần gũi với các em.

- Khi sử dụng đồ dùng trực quan, giáo viên nên chú ý tới chủ điểm, tới đối tư­ợng học sinh để đ­ ra yêu cầu phù hợp. H­ướng dẫn cho học sinh hiểu rõ nội dung yêu cầu. Song phải mang tính logic, mặt khác giáo viên phải tôn trọng sự độc lập, sáng tạo của học sinh.

 

3.2. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm:

- Với học sinh:

+ Qua việc sử dụng đồ dùng trực quan sinh động, sáng tạo, phù hợp với từng bài tôi thấy lớp học sôi nổi hơn, sự gần gũi giữa thầy và trò đ­ược cải thiện rõ rệt.

+ Những em học yếu không còn ngại và sợ học môn Tiếng anh nữa. Các em đã bạo dạn hơn và có ý thức học tập để xây dựng lớp học phong phú, sôi nổi.

- Với ngư­ời dạy:

+ Sử dụng thời gian trong tiết dạy hợp lý hơn.

+ Các kết quả thu l­ượm đư­ợc từ việc quan sát lắng nghe giáo viên sẽ nắm

đ­ược các điểm yếu, điểm mạnh của học sinh.

 

3.3. Khả năng ứng dụng triển khai:

- Áp dụng chuyên đề vào các tiết giảng dạy Tiếng anh có đủ đồ dùng trực quan và sử dụng triệt để đồ dùng trực quan sẽ khai thác kiến thức sâu hơn, thực tế hơn, học sinh sẽ tích cực và yêu thích môn học hơn. Giáo viên Tiếng anh sẽ đạt được những nguyện vọng, niềm tin mà bản thân yêu cầu đối với học sinh của mình.

- Học sinh có thể rèn luyện khả năng quan sát và tư duy thông qua việc quan sát những vật thật trong lớp học, môi trường xung quanh các em. Nếu được tận dụng hiệu quả những vật thật sẳn có như trên giáo viên có thể tiết kiệm được việc đầu tư tranh ảnh không cần thiết góp phần tiết kiệm kinh phí cho nhà trường cũng như của giáo viên. Phát huy tính tích cực của học sinh, giúp các em yêu thích môn Tiếng anh hơn. Các em sẽ có cơ hội nghiên cứu, tìm tòi và vận dụng kiến thức tốt hơn trong học tập. Bản thân tôi sẽ áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này trong suốt quá trình giảng dạy của mình.

3.4. Đề xuất ý kiến:

- Với bộ môn Tiếng Anh ở Tiểu học cần cung cấp thêm nhiều đồ dùng trực quan sinh động hơn nữa.

 

- Đảm bảo đủ sách giáo khoa, sách bài tập cho các em học sinh.(vì kênh hình trong SGK rất đa dạng, phong phú ).

 

- Cần tổ chức những buổi ngoại khóa với những vật thật nh­ư những mô hình bằng nhựa hoặc bằng đất sét… nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập.

Trên đây là một số đề xuất để triển khai, ứng dụng sáng kiến kinh nghiệm

đư­ợc hiệu quả hơn. Khi trình bày sáng kiến đề này, tôi muốn phát huy tính tích cực của học sinh trong việc tiếp thu kiến thức. Đồng thời tôi cũng rất mong sự góp ý của Phòng Giáo dục, Ban giám hiệu nhà trư­ờng, Tổ chuyên môn để tôi đạt hiệu quả tốt hơn trong công tác nghiên cứu và giảng dạy.

Xin chân thành cảm ơn!

 

Kinh cùng, ngày 19 tháng 05 năm 2014

           DUYỆT CỦA BGH            Người viết sáng kiến

 

 

 

 

                          Trần Hữu Đức Nhân

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

    Giáo viên: Trần Hữu Đức Nhân 

nguon VI OLET