Sáng kiến kinh nghiệm                                                                      Năm học 2014 - 2015

PHÒNG GD & ĐT THỐNG NHẤT

TRƯỜNG TH LÊ QUÝ ĐÔN

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

 

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

LỒNG GHÉP PHƯƠNG PHÁP “BÀN TAY NẶN BỘT” ĐỐI VỚI MỘT SỐ BÀI  TRONG GIẢNG DẠY MÔN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI LỚP 2

I. SƠ LƯỢC LÍ LỊCH

Họ và tên:       TRƯƠNG THỊ THANH THƯƠNG              Giới tính:  nữ

Ngày, tháng, năm sinh: 31 – 10 - 1987

Quê quán: Quảng Nam.

Nơi thường trú: 103, tổ 4, ấp Trần Cao Vân, xã Bàu Hàm II, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai.

Nơi công tác: Trường TH Lê Quý Đôn, Thống Nhất, Đồng Nai.

Chức vụ hiện nay: Giáo viên

Trình độ chuyên môn: CĐSP giáo dục tiểu học.


LỒNG GHÉP PHƯƠNG PHÁP “BÀN TAY NẶN BỘT” ĐỐI VỚI MỘT SỐ BÀI  TRONG GIẢNG DẠY MÔN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI LỚP 2

 

A. PHẦN MỞ ĐẦU

  1.    LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.

Như chúng ta đã biết, mục đích của việc đổi mới phương pháp dạy học là thay đổi lối dạy học truyền thụ  một chiều sang dạy học theo “Phương pháp dạy học tích cực”, với các kĩ thuật dạy, học tích cực nhằm giúp học sinh phát huy huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kĩ năng vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau trong học tập và thực tiễn tạo niềm tin, niềm vui, hứng thú trong học tập. Làm cho học là quá trình kiến tạo, học sinh tìm tòi, khám phá, phát hiện, luyện tập, khai thác và xử lí thông tin, tự hình thành tri thức, có năng lực và phẩm chất của con người mới tự tin, năng động, sáng tạo trong cuộc sống.

“Bàn tay nặn bột” là một phương pháp dạy học tích cực, thích hợp cho việc giảng dạy các kiến thức khoa học tự nhiên và xã hội. Môn Tự nhiên và Xã hội là một phân môn khoa học gắn liền với tự nhiên, đi cùng đời sống của con người. Thật vậy phương pháp BTNB chú trọng đến việc hình thành kiến thức cho HS bằng các thí nghiệm hiểu biết tìm tòi nghiên cứu để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu...Với một vấn đề khoa học đặt ra, HS có thể đặt ra các câu hỏi, các giả thuyết từ những hiểu biết ban đầu, tiến hành các thí nghiệm nghiên cứu để kiểm chứng và đưa ra những kết luận phù hợp thông qua thảo luận, so sánh, phân tích, tổng hợp kiến thức. Cũng như các phương pháp dạy học tích cực khác phương pháp BTNB luôn coi HS là trung tâm của quá trình nhận thức, chính các em là người tìm ra câu trả lời và lĩnh hội kiến thức dưới sự giúp đỡ của GV. Mục tiêu của phương pháp BTNB là tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá, yêu và say mê khoa học của HS. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức khoa học, phương pháp BTNB còn chú ý nhiều đến việc rèn luyện kĩ năng diễn đạt thông qua ngôn ngữ nói và viết cho HS. Phương pháp BTNB cho thấy cách thức học tập của học sinh là tò mò tự nhiên, giúp các em có thể tiếp cận thế giới xung quanh mình qua việc tham gia các hoạt  động nghiên cứu tìm tòi. Các hoạt động nghiên cứu tìm tòi gợi ý cho học sinh tìm kiếm để rút ra các kiến thức cho riêng mình, qua sự tương tác với các học sinh khác cùng lớp để tìm phương án giải thích các hiện tượng.

Tiến trình tìm tòi nghiên cứu khoa học trong phương pháp BTNB là một vấn đề cốt lõi, quan trọng. Học sinh tiếp cận vấn đề đặt ra qua tình huống (câu hỏi lớn của bài học); nêu các giả thuyết, các nhận định ban đầu của mình, đề xuất và tiến hành các thí nghiệm nghiên cứu; đối chiếu các nhận định (giả thuyết đặt ra ban đầu); đối chiếu cách làm thí nghiệm và kết quả  với các nhóm khác; nếu không phù hợp học sinh phải quay lại điểm xuất phát, tiến hành lại các thí nghiệm hoặc thử làm lại các thí nghiệm như đề xuất của các nhóm khác để kiểm chứng; rút ra kết luận và giải thích cho vấn đề đặt ra ban đầu. Trong quá trình này, học sinh luôn luôn phải động não, trao đổi với các học sinh khác trong nhóm, trong lớp, hoạt động tích cực để tìm ra kiến thức. Con đường tìm ra kiến thức của học sinh cũng đi lại gần giống với quá trình tìm ra kiến thức mới của các nhà khoa học.

Tình huống xuất phát hay tình huống nêu vấn  đề là một tình huống do giáo viên chủ động đưa ra như là một cách dẫn nhập vào bài học. Tình huống xuất phát phải ngắn gọn, gần gũi dễ hiểu đối với học sinh. Tình huống xuất phát nhằm lồng ghép câu hỏi nêu vấn đề. Tình huống xuất phát càng rõ ràng thì việc dẫn nhập cho câu hỏi nêu vấn đề càng dễ. Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi lớn của bài học. Câu hỏi nêu vấn đề cần đảm bảo yêu cầu phù hợp với trình độ, gây mâu thuẫn nhận thức và kích thích tính tò mò, thích tìm tòi, nghiên cứu của học sinh nhằm chuẩn bị tâm thế cho học sinh trước khi khám phá, lĩnh hội kiến thức. Giáo viên phải dùng câu hỏi mở, tuyệt đối không được dùng câu hỏi đóng (trả lời có hoặc không) đối với câu hỏi nêu vấn đề. Câu hỏi nêu vấn đề càng đảm bảo các yêu cầu nêu ra ở trên thì ý đồ dạy học của giáo viên càng dễ thực hiện thành công. Rõ ràng rằng để học sinh tìm kiếm phương án giải quyết một vấn đề hiệu quả khi và chỉ khi học sinh cảm thấy vấn đề đó có ý nghĩa, là cần thiết cho mình, và có nhu cầu tìm hiểu, giải quyết nó. Vấn đề hay câu hỏi xuất phát phù hợp là câu hỏi tương thích với trình độ nhận thức của học sinh, gây mâu thuẫn nhận thức cho học sinh, kích thích nhu cầu  tìm tòi - nghiên cứu của học sinh. Vì vây để thực hiện thành công tiết dạy theo phương pháp BTNB thì khâu quan trọng đầu tiên là tạo tình huống xuất phát cho bài dạy.

Như vậy, vai trò của giáo viên rất quan trọng trong việc định hướng, gợi ý, giúp đỡ các em tự khám phá, tự đặt ra các câu hỏi để học sinh hiểu rõ được câu hỏi và vấn đề cần giải quyết của bài học, từ đó đề xuất các phương án thực nghiệm hợp lí.

Không chỉ trong phương pháp BTNB mà dù dạy học bằng bất cứ phương pháp nào, việc học sinh hiểu rõ vấn đề đặt ra, những vấn đề trọng tâm cần giải quyết của bài học luôn là yếu tố quan trọng và quyết định sự thành công của quá trình dạy học. Chính vì thế mặc dù chỉ mới bước đầu làm quen với phương pháp BTNB, tôi vẫn mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu: Lồng ghép phương pháp “Bàn tay nặn bột” đối với một số bài trong giảng dạy môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2” nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực chủ động học tập của học sinh giúp các em yêu thích môn học và học tập tiến bộ hơn, tạo cơ sở vững chắc cho các em tiếp tục học tốt.

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ  PHẠM VI NGHIÊN CỨU:

1. Đối tượng nghiên cứu:

  Học sinh lớp 2C Trường Tiểu học Lê Quý Đôn - Thống Nhất - Đồng Nai ( Năm học : 2014- 2015)

2. Phạm vi nghiên cứu:

Sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” đối với một số bài trong giảng dạy môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2


B. NỘI DUNG

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:

1. Lịch sử của phương pháp “Bàn tay nặn bột” và hành động quốc tế của phương pháp này.

           - BTNB được sáng lập vào năm 1995 bởi Giáo sư Georges Charpak (đạt giải Nobel Vật lý năm1992).

            - Năm 1998, Viện hàn lâm khoa học Pháp soạn thảo và công bố 10 nguyên tắc của BTNB, được coi là hiến chương của phương pháp dạy học tích cực này.

             - Năm 2001, được sự bảo trợ của Viện hàn lâm khoa học Pháp, một mạng lưới các chuyên gia nghiên cứu về BTNB được thành lập với mục đích trao đổi kinh nghiệm, củng cố và phát triển BTNB.

            - BTNB đã có mặt nhiều nơi trên thế giới từ các nước đang phát triển đến các nước phát triển có nền giáo dục tiên tiến: Mỹ, Pháp, Đức, Canada, Mexico, Brazil, Trung Quốc, Philipin, Iran, Việt Nam… 

2. Phương pháp "Bàn tay nặn bột" tại Việt Nam:
             1998-1999: 2 giáo viên đầu tiên của Việt Nam (GS Trần Thanh Vân, chủ tịch hội “Gặp gỡ Việt Nam” ở Pháp, cùng vợ là GS Lê Kim Ngọc) đã được Hội Gặp gỡ Việt Nam tạo điều kiện sang Pháp học tập và nghiên cứu về BTNB.

             1999: NXB Giáo dục đã xuất bản lần đầu tiên cuốn sách "Bàn tay nặn bột" nguyên bản tiếng Pháp của G. Charpak được dịch ra tiếng Việt bởi Đinh Ngọc Lân.
             2001: BTNB đã được phổ biến cho sinh viên khoa Sư phạm Tiểu học-ĐHSP Hà Nội I và được áp dụng thí điểm tại trường tiểu học Đoàn Thị Điểm (Hà Nội), và trường thực hành Nguyễn Tất Thành (thuộc ĐHSP Hà Nội I )
             Từ đó đến nay, dưới sự giúp đỡ của Hội Gặp gỡ Việt Nam các lớp tập huấn hè về BTNB đã được triển khai cho các giáo viên cốt cán và các cán bộ quản lý tại nhiều địa phương trong toàn quốc. Đây là một chương trình trong quan hệ hợp tác văn hoá-giáo dục song phương Pháp-Việt.
                Năm 2011 Bộ GD-ĐT có quyết định phê duyệt đề án “Triển khai phương pháp Bàn tay nặn bột ở trường phổ thông giai đoạn 2011-2015” với hai giai đoạn: từ 2011-2013 thực hiện thí điểm, từ 2014-2015 thực hiện đại trà trên toàn quốc.

3. Khái niệm:

Bàn tay nặn bột  là một phương pháp dạy học tích cực dựa trên thí nghiệm, nghiên cứu, áp dụng giảng dạy cho các môn học tự nhiên. Phương pháp này chú trọng tới việc hình thành kiến thức cho học sinh bằng các thí nghiệm tìm tòi nghiên cứu để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hoặc điều tra. Với một vấn đề khoa học, học sinh có thể đặt ra câu hỏi, giả thiết từ hiểu biết ban đầu, tiến hành thí nghiệm, nghiên cứu, kiểm chứng, so sánh, phân tích, thảo luận và đưa ra kết luận phù hợp. Phương pháp này kích thích sự tò mò, ham mê khám phá của học sinh.

II.PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG:

1. Thuận lợi, khó khăn

a) Thuận lợi

 + Nhà trường thường mở các chuyên đề để giáo viên dự giờ, trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau. Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn trường, đều tạo điều kiện cho giáo viên trao đổi tháo gỡ những vướng mắc trong chuyên môn.

+ Một số tranh ảnh trực quan để phục vụ cho các bài Tự nhiên và Xã hội ở lớp 2 đã có sẵn ở thư viện.

 + Nhà trường được sự quan tâm hỗ trợ và giúp đỡ về tinh thần và vật chất của lãnh đạo các cấp, các ban ngành đoàn thể trong và ngoài địa bàn, Hội cha mẹ HS... Hoạt động của các tổ chức đoàn thể trong nhà trường đảm bảo đúng kế hoạch của nhà trường và đạt hiệu quả giáo dục thiết thực, góp phần nâng cao chất lượng các hoạt động giáo dục văn hóa và kĩ năng sống cho HS.

 +Các em học sinh có đủ SGK, vở bài tập, đồ dùng học tập phục vụ cho môn học.

b) Khó khăn

 +  Giáo viên đã có nhiều cố gắng trong việc đổi mới phương pháp dạy học nhưng đôi khi cũng ngại không dám thoát li các gợi ý của sách giáo khoa, sách hướng dẫn vì sợ sai.

 + Đối với một số giáo viên do sử dụng đồ dùng dạy học nói chung và đồ dùng trực quan nói riêng chưa được thường xuyên, nên việc sử dụng còn nhiều lúng túng.

 + Học sinh lớp hai vốn từ của các em rất hạn chế, các em còn lúng túng khi dùng từ diễn đạt. Thêm nữa tư duy của các em chủ yếu dựa vào đặc điểm trực quan, ở một số dạng bài không có nhiều tranh ảnh trực quan thì học sinh sẽ lúng túng, gặp nhiều khó khăn, thậm chí không thể hình thành ngay kiến thức này.

+ Một số em chưa hứng thú, chưa tích cực tham gia vào giờ học tự nhiên và Xã hội.

III. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN ĐỀ TÀI:

1. Đối với giáo viên và học sinh

a) Giáo viên

Thực tế, phương pháp “Bàn tay nặn bột” không hoàn toàn là mới đối với các giáo viên. Về cơ bản, đây là phương pháp tổng hợp của các phương pháp dạy học trước đây mà giáo viên đã từng tiếp xúc như: phương pháp giảng dạy giải quyết vấn đề, phương pháp dạy học tích cực... Trong phương pháp này, yêu cầu đặt ra đối với giáo viên là:

- Tạo tình huống để học sinh phát hiện ra vấn đề trong bài học, từ đó để các em tự đưa ra các tình huống giải quyết vấn đề để đi đến kết quả, giúp tạo lập cho học sinh thói quen làm việc như các nhà khoa học và niềm say mê sáng tạo phát hiện, giải quyết vấn đề. Mục tiêu này rất quan trọng bởi trong cuộc sống các em gặp phải rất nhiều vấn đề cần phải giải quyết.

- Buộc giáo viên phải nghiên cứu kĩ bài  bài dạy. Gắn kết chặt chẽ nội dung bài dạy với những vấn đề thiết thực, gần gũi trong cuộc sống hàng ngày và thực tế địa phương. Chuẩn bị bài chu đáo, xây dựng hệ thống câu hỏi phù hợp, lô-gic, trọng tâm, có kiến thức thực tế, sâu rộng và các giải pháp liên hệ thực tế.

- Giáo viên nêu vấn đề hay câu hỏi xuất phát phù hợp là câu hỏi tương thích với trình độ nhận thức của học sinh, gây mâu thuẫn nhận thức cho học sinh, kích thích nhu cầu  tìm tòi - nghiên cứu của học sinh.

- Giáo viên cần bám sát chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình (căn cứ chuẩn của chương trình cấp Tiểu học và đối chiếu với hướng dẫn thực hiện giảm tải của Bộ Giáo dục và Đào tạo).

- Chuẩn bị đầy đủ đồ dùng, trang thiết bị dạy học, ứng dụng công nghệ thông tin để phục vụ cho bài dạy nhằm lôi cuốn, hấp dẫn, học sinh dễ hiểu, dễ vận dụng. Sáng tạo, linh hoạt trong việc tổ chức các hoạt động lên lớp, phù hợp với với nội dung bài dạy, kiểu bài dạy, phù hợp với đặc thù bộ môn, tâm lí lứa tuổi học sinh.

- Tích cực nghiên cứu học tập, cập nhật kiến thức, nâng cao tay nghề áp dụng phương pháp dạy học đổi mới. Kết hợp các phương pháp dạy học tích cực, áp dụng phân chia nhóm hợp lí, sát đối tượng, hướng dẫn gợi mở, giúp học sinh hăng hái tìm tòi phát hiện kiến thức mới.

- Tác phong cử chỉ, lời nói phù hợp, truyền cảm, thân thiện, khơi gợi sự hứng thú, chủ động tìm tòi, khám phá học tập của học sinh, động viên khuyến khích học sinh tự tin trong học tập, tạo cho học sinh sự say mê hứng thú đối với môn học.

- Cùng với giáo viên khác và đồng nghiệp trong tổ chuyên môn, nhà trường từng bước rút kinh nghiệm trong quá trình triển khai giảng dạy.

- Để ứng dụng “Bàn tay nặn bột” vào dạy học, điều quan trọng nhất, như mọi vấn đề khác mà giáo viên thường phải giải quyết, đó là phải có đủ nhiệt huyết, quyết tâm để triển khai phương pháp mới.

Như vậy, vai trò của giáo viên rất quan trọng trong việc định hướng, gợi ý, giúp đỡ các em tự khám phá, tự đặt ra các câu hỏi để học sinh hiểu rõ được câu hỏi và vấn đề cần giải quyết của bài học, từ đó đề xuất các phương án thực nghiệm hợp lí.

b) Học sinh

Học sinh có thể tiếp cận thực sự với tìm tòi - nghiên cứu và cố gắng để hiểu kiến thức. Vì vậy điều cần thiết là học sinh phải hiểu rõ câu hỏi hay vấn đề đặt ra cần giải quyết trong bài học.

- Để đạt được yêu cầu này, bắt buộc học sinh phải tham gia vào bước hình thành các câu hỏi. Có nghĩa là học sinh cần phải có thời gian để khám phá chủ đề của bài học, thảo luận các vấn đề và các câu hỏi đặt ra để từ đó có thể suy nghĩ về những gì cần được nghiên cứu, phương án thực hiện việc nghiên cứu đó như thế nào?

- Học sinh cần phải có nhiều kĩ năng như:  kĩ năng trả lời, đề xuất các dự đoán, giả thiết, phương án thí nghiệm, phân tích dữ liệu, giải thích và bảo vệ các kết luận của mình thông qua trình bày nói hoặc viết… Một trong các kĩ năng quan trọng đó là học sinh phải biết xác định và quan sát một sự vật, hiện tượng nghiên cứu. Học sinh còn cần phải biết trao đổi với các bạn trong nhóm, biết viết cho mình và cho người  khác hiểu. Đối với học sinh lớp 2 chỉ cần học sinh có các kĩ năng cơ bản không đòi hỏi nâng cao ở lớp 4, 5 như phân tích dữ liệu, giải thích và bảo vệ các kết luận của mình thông qua trình bày nói hoặc viết…

- Học sinh cần thiết phải tự thực hiện các thí nghiệm của mình phù hợp với hiện tượng, kiến thức, là cơ sở cho việc phát hiện và hiểu các khái niệm, đồng thời thông qua tự làm các thí nghiệm mà học sinh có thể tự hình thành kiến thức. Học sinh tự chủ tìm tòi giải quyết vấn đề đặt ra với sự theo dõi, định hướng, giúp đỡ của giáo viên.

- Được khuyến khích đề xuất ý kiến và cùng các thầy cô giáo thực hiện các giải pháp để việc dạy học có hiệu quả ngày càng cao. Có tinh thần tự giác say mê đối với môn học, yêu thích môn học.

- Tích cực chuẩn bị bài, chuẩn bị tâm thế để lĩnh hội kiến thức bài giảng. Tích cực rèn luyện, hứng thú say mê trong học tập, chủ động tìm hiểu kiến thức, dưới sự dìu dắt của thầy, cô giáo. Phải rèn cho bản thân năng lực tự học, tự đánh giá. Không ngừng vươn lên trong học tập

- Khi giáo viên tổ chức tình huống (giao nhiệm vụ cho học sinh): học sinh hăng hái đảm nhận nhiệm vụ, gặp khó khăn, nảy sinh vấn đề cần tìm tòi giải quyết. Dưới sự chỉ đạo của giáo viên, vấn đề được diễn đạt chính xác hóa, phù hợp với mục tiêu dạy học và các nội dung cụ thể đã xác định.

2. Các kỹ thuật dạy học và rèn luyện kỹ năng cho học sinh trong phương pháp “Bàn tay nặn bột”

    2.1. Tổ chức lớp học

Bố trí vật dụng trong lớp học: Thực hiện dạy học khoa học theo phương pháp BTNB có rất nhiều hoạt động theo nhóm. Vì vậy để tiện lợi cho việc tổ chức thảo luận, hoạt động nhóm tôi đã mạnh dạn sắp xếp bàn ghế theo nhóm cố định. Sau đây là một số gợi ý để giáo viên sắp xếp bàn ghế, vật dụng trong lớp học phù hợp với hoạt động nhóm:

      - Các nhóm bàn ghế cần sắp xếp hài hòa theo số lượng học sinh trong lớp.

 - Cần chú ý đến hướng ngồi của các học sinh sao cho tất cả học sinh đều nhìn thấy rõ thông tin trên bảng.

 - Khoảng cách giữa các nhóm không quá chật, tạo điều kiện đi lại dễ dàng cho học sinh khi lên bảng trình bày, di chuyển khi cần thiết.

 - Chú ý đảm bảo ánh sáng cho học sinh.

 - Đối với những bài học có làm thí nghiệm thì giáo viên cần có chỗ để các vật dụng dự kiến làm thí nghiệm cho học sinh - Mỗi lớp học nên có một tủ đựng đồ dùng dạy học cố định.

Không khí làm việc trong lớp học:

- Giáo viên cần xây dựng không khí làm việc và mối quan hệ giữa các học sinh dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau và đối xử công bằng, bình đẳng giữa các học sinh trong lớp. Tránh tuyệt đối luôn khen ngợi quá mức một vài học sinh nào đó hoặc để cho các học sinh khá, giỏi trong lớp luôn làm thay công việc của cả nhóm, trả lời tất cả các câu hỏi nêu ra mà không tạo cơ hội làm việc cho các học sinh khác.

 - Giáo viên cần tạo được sự thoải mái cho tất cả các học sinh.

  2.2. Giúp học sinh bộc lộ quan niệm ban đầu

Đối với các em lớp 2 còn nhỏ, giáo viên cần biết chấp nhận và tôn trọng những quan điểm sai của học sinh khi trình bày biểu tượng ban đầu. Biểu tượng ban đầu là quan niệm cá nhân của riêng mỗi các em có thể trình bày bằng lời nói hay viết, vẽ ra giấy. Rồi từ đó giáo viên giúp học sinh phân tích những điểm giống và khác nhau cơ bản giữa các ý kiến, từ đó hướng dẫn cho học sinh đặt câu hỏi cho những sự khác nhau đó.

   2.3. Kỹ thuật tổ chức hoạt động thảo luận cho học sinh

Trong quá trình thảo luận, các học sinh được kết nối với nhau bằng chủ đề thảo luận và trao đổi xoay quanh chủ đề đó. Học sinh cần được khuyến khích trình bày ý tưởng, ý kiến cá nhân của mình trước các học sinh khác, từ đó rèn luyện cho học sinh khả năng biểu đạt, đồng thời thông qua đó có thể giúp các học sinh trong lớp đối chiếu, so sánh với suy nghĩ, ý kiến của mình. Những ý kiến trái ngược quan điểm luôn là sự kích thích mạnh mẽ cho sự thảo luận sôi nổi của lớp học.

Có hai hình thức thảo luận trong dạy học theo phương pháp BTNB: thảo luận nhóm nhỏ (trong nhóm làm việc) và thảo luận nhóm lớn (toàn bộ lớp học).

Để điều khiển tốt hoạt động thảo luận của học sinh trong lớp học, giáo viên cần chú ý đến một số gợi ý sau để thực hiện điều khiển hoạt động của lớp học được thành công:

- Thực hiện tốt công tác tổ chức nhóm và thực hiện hoạt động nhóm cho học sinh.

- Khi thực hiện lệnh thảo luận nhóm, giáo viên cần chỉ rõ nội dung thảo luận là gì, mục đích của thảo luận. Lệnh yêu cầu của giáo viên càng rõ ràng và chi tiết thì học sinh càng hiểu rõ và thực hiện đúng yêu cầu.

- Trong một số trường hợp, vấn đề thảo luận được thực hiện với tốc độ nhanh bởi có nhiều ý kiến của các học sinh khá, giỏi, giáo viên nên làm chậm tốc độ thảo luận lại để các học sinh có năng lực yếu hơn có thể tham gia. Tất nhiên việc làm chậm lại tùy thuộc vào thời gian của tiết học.

- Giáo viên tuyệt đối không được nhận xét ngay là ý kiến của nhóm này đúng hay ý kiến của nhóm khác sai. Nên quan sát nhanh và chọn nhóm có ý kiến không chính xác nhất cho trình bày trước để gây mâu thuẫn, kích thích các nhóm khác có ý kiến chính xác hơn phát biểu bổ sung. Ý đồ dạy học theo phương pháp BTNB sẽ thành công khi có nhiều ý kiến trái ngược, không thống nhất để từ đó giáo viên dễ kích thích học sinh suy nghĩ, sáng tạo, đề xuất câu hỏi, thí nghiệm để kiểm chứng. Câu trả lời không do giáo viên đưa ra hay nhận xét đúng hay sai mà được xuất phát khách quan qua các thí nghiệm nghiên cứu.

- Giáo viên nên để một thời gian ngắn (5-10 phút) cho học sinh suy nghĩ trước khi trả lời để học sinh có thời gian chuẩn bị tốt các ý tưởng, lập luận, câu chữ. Khoảng thời gian này có thể giúp học sinh xoáy sâu thêm suy nghĩ về phần thảo luận hoặc đưa ra các ý tưởng mới.

- Cho phép học sinh thảo luận tự do, tuy nhiên giáo viên cần hướng dẫn học sinh tới các kết luận khoa học chính xác của bài học.

   2.4. Kỹ thuật tổ chức hoạt động nhóm trong phương pháp “Bàn tay nặn bột”

Hoạt động nhóm giúp học sinh làm quen với phong cách làm việc hợp tác với nhau giữa các cá nhân. Trong việc dạy học theo phương pháp BTNB, hoạt động nhóm được chú trọng nhiều và thông qua đó giúp học sinh làm quen với phong cách làm việc khoa học, rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh mà chúng ta sẽ phân tích kỹ hơn trong phần nói và rèn luyện kỹ năng ngôn ngữ cho học sinh.

Mỗi nhóm học sinh được tổ chức gồm một nhóm trưởng và một thư kí để ghi chép chung các phần thảo luận của nhóm. Nhóm trưởng sẽ là người đại diện cho nhóm trình bày trước lớp các ý kiến, quan điểm của nhóm mình. Mấu chốt quan trọng nhất là các học sinh trong nhóm cần làm việc tích cực với nhau, trao đổi, thảo luận sôi nổi, các học sinh tôn trọng ý kiến của nhau, các cá nhân biết lắng nghe, tạo cơ hội cho tất cả mọi người trong nhóm trình bày ý kiến của mình, biết chia sẻ đồ dùng thí nghiệm, biết tóm tắt các ý kiến thống nhất của nhóm, các ý kiến chưa thống nhất, có đại diện trình bày ý kiến chung của nhóm sau thảo luận trước tập thể lớp là một nhóm hoạt động đúng yêu cầu.

Trong quá trình học sinh thảo luận theo nhóm, giáo viên di chuyển đến các nhóm, tranh thủ quan sát hoạt động của các nhóm. Giáo viên không đứng một chỗ trên bàn giáo viên hoặc bục giảng để quan sát lớp học. Việc di chuyển của giáo viên có hai mục đích cơ bản: quan sát bao quát lớp, làm cho học sinh hoạt động nghiêm túc hơn vì có giáo viên tới; kịp thời phát hiện những nhóm thực hiện lệnh thảo luận sai để điều chỉnh hoặc tranh thủ chọn ý kiến kém chính xác nhất của một nhóm nào đó để yêu cầu trình bày đầu tiên trong phần thảo luận, cũng như nhận biết nhanh ý kiến của nhóm nào đó chính xác nhất để yêu cầu trình bày sau cùng.

  2.5. Kỹ thuật đặt câu hỏi của giáo viên

Trong dạy học theo phương pháp BTNB, câu hỏi của giáo viên đóng một vai trò quan trọng trong sự thành công của của phương pháp và thực hiện tốt ý đồ dạy học. Một câu hỏi tốt là một câu hỏi kích thích, một lời mời đến sự kiểm tra chăm chú nhiều hơn, một lời mời đến một thí nghiệm mới hay một bài tập mới… Người ta gọi những câu hỏi này là câu hỏi "mở" vì nó kích thích một "hành động mở". Các câu hỏi "mở" khuyến khích học sinh suy nghĩ tới những câu hỏi riêng của học sinh và phương án trả lời những câu hỏi đó. Các câu hỏi dạng này cũng mang đến cho nhóm một công việc và một sự lập luận sâu hơn. Còn các câu hỏi "đóng" là các câu hỏi yêu cầu một câu trả lời ngắn.

Câu hỏi "tốt" có thể giúp cho học sinh xác định rõ phần trả lời của mình, và làm tiến trình dạy học đi đúng hướng.Và các câu hỏi đặt ra để yêu cầu học sinh suy nghĩ hành động thì cần phải được chuẩn bị tốt và bắt buộc phải là những câu hỏi "mở".

      2.5.1. Câu hỏi nêu vấn đề

Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi lớn của bài học hay môđun kiến thức. Là câu hỏi đặc biệt nhằm định hướng học sinh theo chủ đề của bài học nhưng cũng đủ "mở" để kích thích sự tự vấn của học sinh.

Câu hỏi nêu vấn đề thường là câu hỏi nhằm mục đích hình thành biểu tượng ban đầu của học sinh. Giáo viên phải đầu tư suy nghĩ và cẩn trọng trong việc đặt câu hỏi nêu vấn đề vì chất lượng của câu hỏi sẽ ảnh hưởng rất lớn đến ý đồ dạy học ở các bước tiếp theo của tiến trình phương pháp và sự thành công của bài học.

       2.5.2. Câu hỏi gợi ý

  Câu hỏi gợi ý là các câu hỏi được đặt ra trong quá trình làm việc của học sinh. Câu hỏi gợi ý có thể là câu hỏi "ít mở" hơn hoặc là dạng câu hỏi "đóng". Vai trò của nó nhằm gợi ý, định hướng cho học sinh rõ hơn hoặc kích thích một suy nghĩ mới của học sinh.

Khi đặt câu hỏi gợi ý, giáo viên nên dùng các cụm từ bắt đầu như "Theo các em", "Em nghĩ gì…", "Theo ý em…"… vì các cụm từ này cho thấy giáo viên không yêu cầu học sinh đưa ra một câu trả lời chính xác mà chỉ yêu cầu học sinh giải thích ý kiến, đưa ra nhận định của các em mà thôi.

   2.6. Rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh thông qua dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột”

Vấn đề rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh được phân thành hai mảng chính đó là rèn luyện ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Dạy học theo phương pháp BTNB là sự hòa quyện 3 phần gần như tương đương nhau đó là thí nghiệm, nói và viết. Học sinh không thể làm thí nghiệm mà không suy nghĩ và các em thể hiện suy nghĩ bằng cách thảo luận (nói) hoặc viết.

- Nói: Phương pháp BTNB khuyến khích trao đổi bằng ngôn ngữ nói về những quan sát, những giả thuyết, những thí nghiệm và những giải thích. Một số học sinh có khó khăn về ngôn ngữ nói trong một số lĩnh vực nào đó đã phát biểu ý kiến một cách tự giác hơn khi các thao tác trong hoạt động khoa học bắt buộc chúng phải làm việc tập thể và phải đối mặt với các hiện tượng tự nhiên. Học sinh học cách bảo vệ quan điểm của mình, biết lắng nghe người khác, biết thừa nhận trên cơ sở của lí lẽ, biết làm việc cho mục đích chung của một khuôn khổ nhất định.

- Viết: Văn phong (lối viết) là cách thức thể hiện ra ngoài những hoạt động suy nghĩ của mình. Nó cũng cho phép giữ lại dấu vết của các thông tin đã thu nhận được, tổng hợp và hình thức hóa để làm nảy sinh ý tưởng mới. Nó cũng làm cho thông báo được dễ dàng tiếp nhận dưới dạng đồ thị vì thông tin đôi khi khó phát biểu và cho phép ghi lại các kết quả tranh luận.

- Chuyển từ nói sang viết: Chuyển từ một cách thức thông báo này sang một cách thức thông báo khác là một giai đoạn quan trọng. Phương pháp BTNB đề nghị dành một thời gian để ghi chép cá nhân, để thảo luận xây dựng tập thể những câu thuật lại các kiến thức đã được trao đổi và học cách thức sử dụng các cách thức viết khác nhau.

   2.7. Kĩ thuật chọn ý tưởng, nhóm ý tưởng của học sinh

Khi chọn ý tưởng và nhóm ý tưởng của học sinh giáo viên cần chú ý những điểm sau:

- Cho học sinh phát biểu ý kiến tự do và tuyệt đối không nhận xét đúng hay sai các ý kiến đó ngay sau khi học sinh phát biểu.

- Đối với những ý tưởng phức tạp hay có nhiều ý kiến khác biệt, giáo viên nên ghi chú lại ở một góc trên bảng để học sinh dễ theo dõi.

- Đối với những biểu tượng ban đầu được học sinh trình bày bằng hình vẽ, sơ đồ… thì giáo viên quan sát và chọn một số hình vẽ tiêu biểu, có những điểm sai lệch nhau rõ rệt để dán lên bảng, giúp học sinh dễ so sánh, nhận xét.

- Khi yêu cầu học sinh trình bày, nên cho những học sinh có ý tưởng sai lệch nhiều với kiến thức đúng trình bày trước, những học sinh có ý kiến tốt hơn trình bày sau. Giáo viên không nhận xét ý kiến của học sinh khi học sinh phát biểu. Từ các sự khác biệt của các ý tưởng sẽ giúp học sinh thắc mắc vậy ý tưởng nào là đúng, làm sao để kiểm chứng nó… Đó là mâu thuẫn nhận thức để giúp học sinh đề xuất ra các thí nghiệm kiểm chứng hoặc các phương án tìm ra câu trả lời.

- Khi yêu cầu học sinh phát biểu, nêu ý kiến (ý tưởng), giáo viên cần chú ý về mặt thời gian, hướng dẫn học sinh cách trả lời thẳng vào câu hỏi, không kéo dài, trả lời vòng vo mà cần trả lời gắn gọn đủ ý. Làm như vậy sẽ tiết kiệm được thời gian của tiết học, đồng thời sẽ giúp học sinh rèn luyện được suy nghĩ, ý tưởng của mình về mặt ngôn ngữ.

- Khi yêu cầu học sinh khác nhận xét ý kiến của học sinh trước, giáo viên nên yêu cầu học sinh nhận xét theo hướng "đồng ý và có bổ sung" hay "không đồng ý và có ý kiến khác" chứ không nhận xét "ý kiến bạn này đúng, bạn kia sai".

- Giáo viên cần tóm tắt ý tưởng của học sinh khi viết ghi chú lên bảng.

    2.8. Hướng dẫn học sinh đề xuất thí nghiệm nghiên cứu hay phương án tìm câu trả lời

Bước đề xuất thí nghiệm nghiên cứu hay các giải pháp tìm câu trả lời của học sinh cũng là một bước khá phức tạp, đòi hỏi giáo viên phải có kỹ năng sư phạm để điều khiển tiết học, tránh để học sinh đi quá xa yêu cầu nội dung của bài học. Tùy từng trường hợp cụ thể mà giáo viên có phương pháp phù hợp, tuy nhiên cần chú ý mấy điểm sau:

  - Đối với ý kiến hay vấn đề đặt ra đơn giản, ít phương án hay thí nghiệm chứng minh thì giáo viên có thể cho học sinh trả lời trực tiếp phương án mà học sinh đề xuất

- Phương án tìm câu trả lời hay thí nghiệm kiểm chứng đều xuất phát từ những sự khác biệt của các ý tưởng ban đầu (biểu tựong ban đầu) của học sinh, vì vậy giáo viên nên xoáy sâu vào các điểm khác biệt gây tranh cãi đó để giúp học sinh tự đặt câu hỏi thắc mắc và thôi thúc học sinh đề xuất các phương án để tìm ra câu trả lời.

- Đối với học sinh tiểu học, giáo viên nên giúp các em suy nghĩ đơn giản với các vật liệu thí nghiệm thân thiện, quen thuộc, hạn chế dùng những thí nghiệm phúc tạp hay dùng những vật dụng thí nghiệm quá xa lạ đối với học sinh.

- Khi học sinh đề xuất phương án tìm câu trả lời, giáo viên không nên nhận xét phương án đó đúng hay sai mà chỉ nên hỏi ý kiến các học sinh khác nhận xét, phân tích. Nếu các học sinh khác không trả lời được thì giáo viên gợi ý những mâu thuẫn mà phương án đó không đưa ra câu trả lời được nhằm gợi ý để học sinh tự rút ra nhận

xét và loại bỏ phương án. Giáo viên cũng có thể ghi chú trên bảng một lượt các ý kiến khác nhau rồi yêu cầu cả lớp cho ý kiến nhận xét.

- Giáo viên cũng nên chuẩn bị sẵn sàng cho tình huống học sinh không nêu được phương án tìm câu trả lời hoặc các phương án đưa ra quá ít, nghèo nàn về ý tưởng (đối với những trường hợp có nhiều phương án tìm câu trả lời). Với trường hợp này giáo viên chuẩn bị sẵn một số phương án để đưa ra hỏi ý kiến của học sinh.

    2.9 Hướng dẫn học sinh phân tích thông tin, hiện tượng quan sát khi nghiên cứu để đưa ra kết luận

Khi làm thí nghiệm hay quan sát hoặc nghiên cứu tài liệu để tìm ra câu trả lời, giáo viên cần hướng dẫn học sinh biết chú ý đến các thông tin chính để rút ra kết luận tương ứng với câu hỏi. Đối với học sinh tiểu học vấn đề này hoàn toàn không đơn giản. Học sinh cần được hướng dẫn làm quen dần dần.

Giáo viên cần chú ý mấy điểm sau:

- Lệnh thực hiện phải rõ ràng, gắn gọn, dễ hiểu để giúp học sinh nhớ, hiểu và làm theo đúng hướng dẫn.

- Quan sát, bao quát lớp khi học sinh làm thí nghiệm. Gợi ý vừa đủ nghe cho nhóm khi học sinh làm sai lệnh hoặc đặt chú ý vào những chỗ không cần thiết cho câu hỏi. Không nên nói to vì sẽ gây nhiễu cho các nhóm học sinh khác đang làm đúng vì tâm lý học sinh khi nghe giáo viên nhắc thì cứ nghĩ là giáo viên đang hướng dẫn cách làm đúng và nghi ngờ vào hướng thực hiện mà mình đang làm.

- Cùng một thí nghiệm kiểm chứng nhưng các nhóm khác nhau học sinh có thể sẽ bố trí thí nghiệm khác nhau với các vật dụng và cách tiến hành khác nhau theo quan niệm của các em, giáo viên không được nhận xét đúng hay sai và cũng không có biểu hiện để học sinh biết ai đang làm đúng, ai đang làm sai. Khuyến khích học sinh độc lập thực hiện giữa các nhóm, không nhìn và học theo nhau.

   2.10. So sánh kết quả thu nhận được và đối chiếu với kiến thức khoa học

Trong hoạt động học của học sinh theo phương pháp BTNB, học sinh khám phá các sự vật, hiện tượng trong thế giới tự nhiên theo con đường mô phỏng gần giống với quá trình tìm ra kiến thức mới của các nhà khoa học. Học sinh đưa ra dự đoán, thực hiện thí nghiệm, thảo luận với nhau và đưa ra kết luận như công việc của các nhà khoa học thực thụ để xây dựng kiến thức.

  2.11. Đánh giá học sinh trong dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột”

Một số gợi ý để giáo viên áp dụng đánh giá học sinh trong dạy học theo phương pháp BTNB, tùy hoàn cảnh trong quá trình dạy học.

- Đánh giá học sinh qua quá trình thảo luận, trình bày, phát biểu ý kiến tại lớp học.

- Đánh giá học sinh trong quá trình làm thí nghiệm.

- Đánh giá học sinh thông qua sự tiến bộ nhận thức của học sinh trong phiếu dự đoán.

 Nói tóm lại, dạy học theo phương pháp BTNB là giúp cho học sinh rèn luyện các kỹ năng, tìm phương án giải quyết cho các vấn đề đặt ra, hiểu kiến thức hơn là việc làm rõ hay giúp học sinh ghi nhớ kiến thức. Chính vì vậy việc đánh giá học sinh cũng nên thay đổi theo hướng kiểm tra kỹ năng, kiểm tra năng lực nhận thức (sự hiểu) hơn là kiểm tra độ ghi nhớ kiến thức.

3. Một số lưu ý khi áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào dạy học

- Liệt kê các bài học có thể áp dụng phương pháp BTNB.

- Giáo viên cần chuẩn bị trước các thí nghiệm dự kiến để có kết quả như mong muốn.

- Vận dụng tối đa những nguyên vật liệu sẵn có, dễ kiếm.

- Sử dụng CNTT cho bài dạy áp dụng phương pháp BTNB đúng lúc, đúng chỗ, hợp lí.

- Với một số thí nghiệm đơn giản, giáo viên có thể giao việc cho học sinh bằng những phiếu giao việc, tự học sinh chuẩn bị các vật liệu cho nhóm của mình.

* Xây dựng tiết học theo các gợi ý:

- Mục tiêu bài học.

- Hoạt động có thể áp dụng phương pháp BTNB.

- Phương pháp thí nghiệm sử dụng.

- Thiết bị cần có.

- Những thí nghiệm có thể thực hiện.

* Tổ chức lớp học:

- Sắp xếp bàn ghế cho phù hợp với số học sinh.

- Chia nhóm từ 4-6 em/nhóm.

- Có chỗ dành riêng để vật liệu lớp học.

* Trong quá trình giảng dạy

Lưu ý khi lựa chọn quan niệm ban đầu để đưa ra thảo luận:

- Không chọn hoàn toàn các quan niệm đúng

- Tuyệt đối không bình luận hay nhận xét gì về tính đúng sai của các ý kiến ban đầu

- Lựa chọn các quan niệm vừa đúng vừa sai

* Lựa chọn phương pháp thí nghiệm phù hợp:

- Phương pháp quan sát tranh ảnh, quan sát vật thật

- Phương pháp mô hình

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu

- Phương pháp thí nghiệm trực tiếp

- Sử dụng phương pháp thường xuyên để rèn thói quen cho học sinh. Rèn cho học sinh kĩ năng diễn đạt rõ ràng, ngắn gọn để đảm bảo thời gian. Sưu tầm tài liệu, sách, tranh ảnh …. phục vụ cho bài học.

IV. KHẢ NĂNG VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP “BÀN TAY NẶN BỘT” TRONG DẠY HỌC MÔN TN&XH LỚP 2 Ở TRƯƠNG TIỂU HỌC

1. Các bài trong môn TN&XH lớp 2 có thể áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột”

STT

LỚP

BÀI

TÊN BÀI DẠY

1  

2

1

Cơ quan vận động

2  

2

2

Bộ xương

3  

2

3

Hệ cơ

4  

2

5

Cơ quan tiêu hoá

5  

2

6

Tiêu hoá thức ăn

6  

2

24

Cây sống ở đâu?

7  

2

25

Một số loài cây sống trên cạn

8  

2

26

Một số loài cây sống dưới nước

9  

2

27

Loài vật sống ở đâu?

10  

2

28

Một số loài vật sống trên cạn

11  

2

29

Một số loài vật sống dưới nước

12  

2

31

Mặt trời

13  

2

32

Mặt trời và phương hướng

14  

2

33

Mặt trăng và các vì sao

 

2. Ví dụ minh họa một số tình huống xuất phát trong dạy học theo phương “Bàn tay nặn bột” đối với một số bài trong giảng dạy môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2

         Trong năm học vừa qua, tôi đã chọn được một số bài trong chương trình Tự nhiên và Xã hội lớp 2, để dạy học theo phương pháp BTNB và đã xây dựng được một số tình huống xuất phát cho các chủ đề đó, cụ thể như sau:              

2.1. Bài 1 : Cơ quan vận động

Hoạt động của GV

Hoạt động của HS

Tình huống xuất phát 

 Bước 1 Tình huống xuất phát:

- Vì sao chúng ta vận động được?

 

Bước 2 Dự đoán Làm bộc lộ các quan niệm ban đầu của học sinh về nội dung khoa học của bài học:

- Yêu cầu HS cử động tay (gập, duỗi tay); sờ nắn và cảm nhận xem trong cánh tay có gì thay đổi?

- GV tổng kết các ý kiến của HS rồi yêu cầu HS vẽ hình

Tưởng tượng theo suy nghĩ của mình xem trong cánh tay có gì để co duỗi được (Vẽ trong 5 phút)

- GV hướng dẫn HS sắp xếp các hình vẽ của các nhóm lên bảng.

Bước 3 Đề xuất câu hỏi - hướng giải quyết

HS nêu được vai trò của cơ và xương.

 Bước 4 Thực hành – Thí nghiệm

GV yêu cầu HS làm thí nghiệm trên ếch để quan sát “hình dạng của Bắp thịt (cơ) và xương, cơ được gắn với xương như thế nào?”

1. Hãy quan sát cái đùi để xác định hình dạng, vị trí của các  xương, các bắp thịt và những điểm nối giữa chúng.

2. Hãy vẽ lại hình cánh tay theo lời thuyết minh và đề mục về những gì quan sát được vào quyển vở ghi thí nghiệm của mình.

3. Hãy xem lại hình vẽ đầu tiên cánh tay em vẽ để chữa lại hình đó.

Cách thức tiến hành quan sát hay thí nghiệm; Tiến hành thực nghiệm kiểm chứng các giả thuyết.

 Bước 5 Kết luận

GV giúp HS So sánh và liên hệ các kết quả thu được trong các nhóm khác nhau, trong các lớp khác…

Đối chiếu với kiến thức đã được thiết lập /trong sách giáo khoa.

Trình bày các kiến thức mới lĩnh hội được cuối bài học bằng hình vẽ của học sinh với sự giúp đỡ của giáo viên.

 

Tiếp nhận vấn đề. HS tư duy tìm câu trả lời.

 

HS ghi câu hỏi vào vở ghi chép khoa học

- HS cử động tay (gập, duỗi tay); sờ nắn cánh tay để cảm nhận sự thay đổi

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

HS quan sát các hình, tìm điểm khác nhau lần lượt về xương, cơ, khớp. Từ đó đặt câu hỏi đề xuất

 

HS lần lượt thực hiện các hoạt động như hướng dẫn

Cho học sinh xem các hình cơ, xương, khớp tay để các em có thể vẽ.

Mô tả thí nghiệm. Ghi chép cá nhân trong khi làm thí nghiệm.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

1.HS quan sát hình cơ – xương cánh tay người:

2. HS quan sát các phim X quang chụp cánh tay ở trạng thái co gập và duỗi để hình dung trạng thái cơ tay.

3. Trình bày các kiến thức mới lĩnh hội được cuối bài học.

 

2.2. Bài 2 : Bộ xương

Hoạt động của GV

Hoạt động của HS

Tình huống xuất phát 

 Bước 1: Đưa ra tình huống xuất phát và nêu vấn đề:

    Cơ thể chúng ta có các loại xương nào?

Bước 2: Làm bộc lộ biểu tượng ban đầu của HS:

- GV yêu cầu HS ghi hoặc vẽ những dự đoán  ban đầu về xương vào giấy

Bước 3: Đề xuất câu hỏi và phương án tìm tòi:

- Các nhóm thảo luận đề xuất câu hỏi và phương án thực hiện

GV thống nhất và cho HS tiến hành thực hiện

Bước 4: Thực hiện phương án tìm tòi:

- Cho các nhóm thảo luận kết hợp phương án lựa chọn để ghi, vẽ vào bảng nhóm

- GV mở hình và chỉ các xương. Nhận xét

Bước 5: Kết luận kiến thức:

- GV hướng dẫn HS so sánh lại với dự đoán ban đầu của các em

GV kết luận

 

 

- HS thực hành viết hoặc vẽ vào giấy

 

 

- Các nhóm làm việc

 

- Đại diện các nhóm trình bày.

 

- HS chọn một câu hỏi và một phương án phù hợp.

Cả lớp cùng thống nhất

 

 

- Các nhóm thảo luận, thực hành ghi, vẽ vào bảng nhóm

- HS nêu tên các xương, kết hợp với đối chiếu sản phẩm của nhóm: Xương đầu, xương mặt, xương tay, xương sống, xương sườn, xương chậu, xương chân.

 

 

- HS đối chiếu với dự đoán ban đầu, sau đó chỉnh sửa lại cho phù hợp.

 

 

2.3. Bài 3 : Hệ cơ

Hoạt động của GV

Hoạt động của HS

Tình huống xuất phát 

 Bước 1: Đưa ra tình huống xuất phát và nêu vấn đề: Trong cơ thể chúng ta, bộ xương được bao bọc bởi cái gì?

Bước 2: Làm bộc lộ biểu tượng ban đầu của HS:

- GV yêu cầu HS mô tả bằng lời những hiểu biết ban đầu của mình vào vở Ghi chép khoa học về hệ cơ trong cơ thể, sau đó thảo luận nhóm 4 để ghi chép vào bảng nhóm.

 

Bước 3: Đề xuất câu hỏi và phương án tìm tòi:

-Từ việc suy đoán của HS, GV tập hợp thành các nhóm biểu tượng ban đầu rồi HD HS so sánh sự giống nhau và khác nhau của các ý kiến, sau đó giúp các em đề xuất các câu hỏi liên quan đến ND kiến thức tìm hiểu về các loại cơ trong cơ thể

- GV tổng hợp và chỉnh sửa các câu hỏi để đưa ra câu hỏi cần có:

+ Có những loại cơ nào trên cơ thể chúng ta?

+ Khi chúng ta co và duỗi, bắp cơ thay đổi ntn?

- GV lắng nghe, định hướng cho HS chọn cách quan sát hệ cơ bằng hình vẽ số 1 (SGK) để HS nhận biết 1 số cơ của cơ thể

- GV lắng nghe, định hướng cho HS chọn cách quan sát bắp cơ của 1 con ếch đã lột da để HS nhận thấy rõ sự thay đổi của cơ bắp khi co và duỗi các chi của ếch

Bước 4: Thực hiện phương án tìm tòi:

- Yêu cầu HS viết câu hỏi 1 và dự đoán vào vở Ghi chép khoa học

- GV cho HS quan sát hình vẽ số 1 (SGK) để các em quan sát các loại cơ trong cơ thể

- Yêu cầu HS viết tiếp câu hỏi 2 và dự đoán vào vở Ghi chép khoa học

- GV cho các nhóm  quan sát con ếch đã lột da ( GV yêu cầu HS co duỗi các chi của con ếch và quan sát để theo dõi sự thay đổi của các cơ bắp khi chi ếch co hoặc duỗi)

Bước 5: Kết luận kiến thức:

- GV hướng dẫn HS so sánh lại với biểu tượng ban đầu của các em (ở bước 2) để khắc sâu kiến thức.

- Y/C HS ghi lại các loại cơ trong cơ thể, sự thay đổi bắp cơ khi tay co và duỗi vào vở GCKH

 

 

 

- Ghi chép KH, VD:

+ Trong cơ thể có cơ bắp tay, cơ bắp chân.

+ Trong cơ thể cơ ở khắp nơi.

+ Cơ bảo vệ cho xương....

- Thảo luận nhóm 4, ghi kết quả của nhóm vào bảng nhóm

- Trình bày kết quả trước lớp

 

- HS nêu các câu hỏi đề xuất, VD:

+ Trong cơ thể chúng ta có cơ ngực không?

+ Trên khuôn mặt có cơ không?

+Trên tay và chân có cơ không?

+ Cơ có màu gì?

+Cơ dùng để làm gì?

+ Cơ cứng hay mềm?...

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

- HS thảo luận trong nhóm 4, đề xuất trước lớp phương án tìm tòi để trả lời câu hỏi 1

 

 

- HS thảo luận trong nhóm 4, đề xuất trước lớp phương án tìm tòi để trả lời câu hỏi 2

 

 

 

 

- HS viết dự đoán vào vở Ghi chép khoa học (GCKH):

 

 

2.4. Bài 5 : Cơ quan tiêu hoá

Hoạt động của GV

Hoạt động của HS

Tình huống xuất phát 

 a) Đưa ra tình huống xuất phát và nêu vấn đề:

- GV mời 1 HS ăn 1 cái bánh quy

? Theo các em, bánh quy sau khi vào miệng đươch nhai nuốt rồi sẽ đi đâu?

b) Làm bộc lộ biểu tượng ban đầu của HS:

- GV yêu cầu HS mô tả bằng lời hoặc sơ đồ những hiểu biết ban đầu của mình vào vở Ghi chép khoa học về đường đi của thức ăn trong ống tiêu hóa , sau đó thảo luận nhóm 4 để ghi chép vào bảng nhóm.

c) Đề xuất câu hỏi và phương án tìm tòi:

-Từ việc suy đoán của HS, GV tập hợp thành các nhóm biểu tượng ban đầu rồi HD HS so sánh sự giống nhau và khác nhau của các ý kiến, sau đó giúp các em đề xuất các câu hỏi liên quan đến ND kiến thức tìm hiểu về đường đi của thức ăn trong ống tiêu hóa

d) Thực hiện phương án tìm tòi:

- Yêu cầu HS viết câu hỏi 1 và dự đoán vào vở Ghi chép khoa học

- GV cho HS quan sát hình vẽ số 1 (SGK)

 

 

e) Kết luận kiến thức: 

- Tổ chức cho các nhóm báo cáo KQ

- Hướng dẫn HS so sánh lại với biểu tượng ban đầu của các em (ở bước 2) để khắc sâu kiến thức.

- Y/C HS ghi lại (vẽ lại)  đường đi của thức ăn trong ống tiêu hóa vào vở GCKH

 

 

 

 

- Suy nghĩ

 

 

- Ghi chép KH, VD:

- Thảo luận nhóm 4, ghi kết quả của nhóm vào bảng nhóm

- Trình bày kết quả trước lớp

 

 

 

- HS nêu các câu hỏi đề xuất

- HS thảo luận trong nhóm 4, đề xuất trước lớp phương án tìm tòi để trả lời câu hỏi

 

 

 

 

- HS viết dự đoán vào vở Ghi chép khoa học (GCKH):

+ Câu hỏi: Đường đi của thức ăn trong ống tiêu hóa ntn ?

+ Dự đoán: Đi từ miệng, xuongs dạ dày rồi tan ra tại đó.

+ Cách tiến hành:

+ Kết luận:

- Thực hành theo nhóm 4

- Thống nhất ý kiến 

- Các nhóm báo cáo KQ

- HS ghi lại (vẽ lại)  đường đi của thức ăn trong ống tiêu hóa vào vở GCKH

Thức ăn Miệng Thực quản Dạ dày Ruột non Ruột già Thải ra ngoài.

 

2.5. Bài 6 : Tiêu hoá thức ăn

Hoạt động của GV

Hoạt động của HS

Tình huống xuất phát 

 a) Đưa ra tình huống xuất phát và nêu vấn đề:

Phaùt moãi em moät mẩu bánh mì - Daën HS nhai kó trong mieäng môùi nuoát.

b) Làm bộc lộ biểu tượng ban đầu của HS:

- Yeâu caàu HS thaûo luaän nhoùm.

1. Khi ta aên, raêng löôõi vaø nöôùc boït laøm nhieäm vuï gì? (raêng nghieàn thöùc aên, löôõi ñaûo thöùc aên, nöôùc boït laøm meàm thöùc aên...)

2. Vaøo ñeán daï daøy, thöùc aên ñöôïc tieâu hoùa nhö theá naøo? (nhaøo troän nhôø söï co boùp cuûa daï daøy vaø moät phaàn thöùc aên ñöôïc bieán thaønh chaát boû döôõng)

c) Đề xuất câu hỏi và phương án tìm tòi:

Yeâu caàu ñaïi dieän nhoùm leân trình baøy yù kieán ñaõ thaûo luaän.

d) Thực hiện phương án tìm tòi:

- Yêu cầu HS viết câu hỏi 1 và dự đoán vào vở Ghi chép khoa học

- GV cho HS quan sát hình vẽ số 1 (SGK)

e) Kết luận kiến thức

 

 

 

- Suy nghĩ

 

 

- Ghi chép KH, VD:

- Thảo luận nhóm 4, ghi kết quả của nhóm vào bảng nhóm

- Trình bày kết quả trước lớp

 

 

 

 

 

 

 

- HS nêu các câu hỏi đề xuất

- HS thảo luận trong nhóm 4, đề xuất trước lớp phương án tìm tòi để trả lời câu hỏi

 

 

- HS viết dự đoán vào vở Ghi chép khoa học (GCKH):

 

 

2.6. Bài 24 : Cây sống ở đâu?

Hoạt động của GV

Hoạt động của HS

Tình huống xuất phát 

 Bước 1: GV nêu tình huống có vấn đề.

- Em hãy kể tên các loài cây mà em biết. Vậy:

+  Các loài cây này sống  ở đâu?

Bước 2: Làm bộc lộ biểu tượng ban đầu của HS:

- HS ghi nhanh dự đoán cá nhân vào vở nháp

- Nhóm trưởng tổng hợp ý kiến của nhóm

- Đại diện các nhóm trỉnh bày. GV ghi nhanh ý kiến lên bảng .

 

Bước 3: Tiến hành thực nghiệm

- Các nhóm tiến hành quan sát tranh sưu tầm, tranh SGk,  mẫu vật và đưa ra kết quả

- Đại diện nhóm trình bày

Bước 4: So sánh kết quả với dự đoán

- So sánh kết quả với dự đoán ban đầu

Suy nghĩ ban đầu

Kết  quả thực nghiệm

 

 

 

 

Bước 5: Kết luận , mở rộng

- Trong tự nhiên có rất nhiều cây. Chúng có thể sống được ở khắp mọi nơi: trên cạn, dưới nước,

 

 

- Suy nghĩ

 

 

- Ghi chép KH, VD:

- Thảo luận nhóm 4, ghi kết quả của nhóm vào bảng nhóm

- Trình bày kết quả trước lớp

 

- HS thảo luận trong nhóm 4, đề xuất trước lớp phương án tìm tòi để trả lời câu hỏi

 

- HS viết vào vở Ghi chép khoa học (GCKH):

 

 

 

- Thống nhất ý kiến 

2.7. Bài 25 : Một số loài cây sống trên cạn

Hoạt động của GV

Hoạt động của HS

Tình huống xuất phát  của hoạt động 2

 Bước 1 : GV nêu tình huống có vấn đề

-  GV hỏi : - Vậy theo em các loại cây nói trên cây nào thuộc loại cây ăn quả ?

+ Loại cây lương thực , thực phẩm ?

+ Loại cây cho bóng mát ?

+ Thuộc loại cây lấy gỗ ?

+ Thuộc loại cây làm thuốc ?

Bước 2 : Suy nghĩ ban đầu

- Em làm thế nào để biết cây có ích lợi gì ?

      - HS đề xuất các hình thức như tìm hiểu. VD: trên Internet, xem tivi, trên sách, báo)

Bước 3 : Tiến hành thực nghiệm.

- Các nhóm tiến hành quan sát và ghi lại kết quả (3phút)

- Đại diện nhóm trình bày kết quả.

Bước 4 : So sánh kết quả với dự đoán ban đầu

-         GV + HS so sánh kết quả với dự đoán ban đầu.

Suy nghĩ ban đầu

Kết  quả thực nghiệm

 

 

 

 

 

Bước 5 : Kết luận + mở rộng.

=> Có nhiều loài cây sống trên cạn. Chúng là nguồn cung cấp thức ăn cho người, động vật, ngoài ra chúng còn có nhiều ích lợi khác.

 

- Suy nghĩ

 

 

 

 

 

- Ghi chép KH, VD:

- Thảo luận nhóm 4, ghi kết quả của nhóm vào bảng nhóm

- Trình bày kết quả trước lớp

 

- HS thảo luận trong nhóm 4, đề xuất trước lớp phương án tìm tòi để trả lời câu hỏi

 

- HS viết vào vở Ghi chép khoa học (GCKH):

 

 

 

 

 

 

 

- Thống nhất ý kiến 

 

2.8. Bài 26 : Một số loài cây sống dưới nước

Hoạt động của GV

Hoạt động của HS

Tình huống xuất phát  của hoạt động 2

 Bước 1 : GV nêu tình huống có vấn đề

-  GV hỏi : Hãy kể một số loài cây sống trên cạn ? Vậy theo em các loại cây nói trên cây nào thuộc nhóm cây sống trôi nổi trên mặt nước và nhóm cây có rễ bám sâu vào bùn ở đáy nước

Bước 2 : Suy nghĩ ban đầu

  Nhóm trưởng tổng hợp lại ý kiến của nhóm

  Đại diện các nhóm trình bày. GV ghi nhanh ý kiến của các nhóm

-         Em làm thế nào để biết các loại cây đó thuộc vào nhóm nào gì ?

      -    HS đề xuất các hình thức như tìm hiểu : Vd:trên Internet, xem tivi, trên sách, báo)

Bước 3 : Tiến hành thực nghiệm

- Các nhóm tiến hành quan sát các bức tranh về những loài cây sống dưới nước và ghi lại kết quả (3phút)

- Đại diện nhóm trình bày kết quả.

Bước 4 : So sánh kết quả với dự đoán ban đầu

- GV + HS so sánh kết quả với dự đoán ban đầu.

Suy nghĩ ban đầu

Kết  quả thực nghiệm

 

 

 

 

 

- GV hướng dẫn HS chia nơi sống của loài cây sống dưới nước thành 2 nhóm

Bước 5 : Kết luận + mở rộng.

=> Có nhiều loài cây sống dưới nước. Nhưng một số cây một số cây lại sống trôi nổi trên mặt nước còn một số cây lại có rễ bám sâu vào bùn đất.

 

- Suy nghĩ

 

 

 

 

 

- Ghi chép KH, VD:

- Thảo luận nhóm 4, ghi kết quả của nhóm vào bảng nhóm

- Trình bày kết quả trước lớp

 

 

 

- HS thảo luận trong nhóm 4, đề xuất trước lớp phương án tìm tòi để trả lời câu hỏi

 

- HS viết vào vở Ghi chép khoa học (GCKH):

 

 

 

 

 

 

- Thống nhất ý kiến 

 

2.9. Bài 27 : Loài vật sống ở đâu?

Hoạt động của GV

Hoạt động của HS

Tình huống xuất phát  của hoạt động 2

+ Bước 1 : GV nêu tình huống có vấn đề

- Cả lớp quan sát hình các con vật trong sách giáo khoa. GV hỏi : Theo em, loài vật thường sống ở đâu ?

+ Bước 2 : HS dự đoán kết quả ( cá nhân – nhóm)

  Nhóm trưởng điều hành nhóm tổng hợp lại ý kiến của nhóm (2’)

 

 

 

 

- Em làm thế nào để biết những nơi mà loài vật có thể sống ?

   (HS đề xuất các hình thức như tìm hiểu tên Internet, xem tivi, trên sách, báo)

+ Bước 3 : Tiến hành quan sát.

- Các nhóm tiến hành quan sát và ghi lại kết quả (3’)

- Đại diện nhóm trình bày kết quả.

+ Bước 4 : So sánh kết quả với dự đoán ban đầu

+ Bước 5 : Kết luận + mở rộng.

Loài vật  có thể sống được ở khắp nơi trên cạn,dưới nước.

 

 

 

- Suy nghĩ

 

 

 

- Ghi chép KH, VD:

- Thảo luận nhóm 4, ghi kết quả của nhóm vào bảng nhóm

- Trình bày kết quả trước lớp    (trên mặt đất, trên bầu trời, dưới biển, dưới suối, trên cây, trong rừng……)

- HS thảo luận trong nhóm 4, đề xuất trước lớp phương án tìm tòi để trả lời câu hỏi

 

 

- HS viết vào vở Ghi chép khoa học (GCKH):

 

 

 

 

 

- Thống nhất ý kiến 


V. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG CÓ SỨC LAN TỎA TRONG PHẠM VI TOÀN TỈNH MÀ ĐỀ TÀI CÓ THỂ MANG LẠI:

1. Kết quả đạt được:

       Qua đề tài: “Lồng ghép phương pháp “Bàn tay nặn bột” đối với một số bài trong giảng dạy môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2”  phần nào đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực chủ động học tập của học sinh giúp các em yêu thích môn học và học tập tiến bộ hơn. Đồng thời giúp cho các em hứng thú say mê , yêu thích môn học, không ngừng phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo trong học tập bộ môn, tạo cơ sở vững chắc cho các em tiếp tục học môn Hoá học ở các lớp trên.

       Kết quả trên cho thấy sau khi áp dụng “Lồng ghép phương pháp “Bàn tay nặn bột” đối với một số bài trong giảng dạy môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2”  Qua từng học kì và cả năm học, các em có phần yêu thích môn học hơn, các em hứng thú hơn khi dẫn dắt các tình huống vào bài, làm cho tiết học hấp dẫn hơn, sinh động hơn. Lôi cuốn các em tò mò, ham muốn khám phá, tìm hiểu những vấn đề đặt ra, những tình huống xuất phát khác nhau cho mỗi loại bài học phần nào giúp các em hứng thú, say mê hơn trong học tập.

      Kết quả cụ thể, trong năm học vừa qua, được sự chỉ đạo của nhà trường, tổ chuyên môn, tôi đã tiến hành dạy thí điểm bài ‘Tiêu hoá thức ăn’ ở học kì I với sự tham gia dự giờ, thảo luận, nhận xét và góp ý của các giáo viên trong trường, các giáo viên các trường bạn trong huyện và chuyên viên của phòng giáo dục. Các giáo viên đã đánh giá cao tiết dạy và thật sự thấy được phương pháp BTNB là phương pháp mới phù hợp với đặc thù của môn Tự nhiên và Xã hội. Chính vì thế sang học kì II tôi tiếp tục mạnh dạn triển khai giới thiệu về phương pháp BTNB, tiến trình dạy học theo phương pháp BTNB và dạy các bài ví dụ trên ở lớp với sự đánh giá cao của khối trưởng và các thành viên trong Khối và nhà trường. Chính vì vậy trong năm học vùa qua  kết quả học tập của các em có tiến bộ hơn.           Từ đó tôi thiết nghĩ đề tài sẽ có sức lan toả rộng trong phạm vi toàn Thị xã, Tỉnh. Bởi trong việc đổi mới phương pháp dạy học  thì việc tạo tình huống xuát phát trong mỗi bài học sẽ tạo được nhiều sự tò mò, ham muốn khám phá cho HS đáp ứng nhu cầu học hỏi, tìm tòi nghiên cứu của các em, các em sẽ nhẹ  nhàng thoải mái hơn khi vào mỗi tiết học, học sinh sẽ yêu thích môn học hơn. Chất lượng bộ môn có những chuyển biến tích cực hơn.

Và điều tôi tâm đắc nhất trong đề tài này là “Lồng ghép phương pháp “Bàn tay nặn bột” đối với một số bài trong giảng dạy môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2”  Không chỉ áp dụng riêng cho các bài khi dạy theo phương pháp BTNB mà còn áp dụng được cho tất cả các bài học khi đặt vấn đề vào bài. Bởi tôi thiết nghĩ một tiết dạy mà phần dẫn dắt vào bài quá khô khan, đơn điệu sẽ ít nhiều làm cho HS cảm thầy nhàm chán, ít gây hứng thú trong giờ học. Vì vậy nếu tình huống xuất phát phù hợp, phong phú sẽ làm cho tiết học hấp dẫn hơn lôi cuốn các em hơn, dẫn dắt các em tiếp thu bài theo đúng yêu cầu của nội dung bài học, chính điều này sẽ góp phần rất lớn cho sự thành công của một tiết dạy. Và đó cũng là điều mà mỗi giáo viên chúng ta ai cũng muốn đạt được khi đứng trên bục giảng.

2. Bài học kinh nghiệm

Trong quá trình thực hiện đề tài tôi rút ra được một số kinh nghiệm như sau:

- Để thực hiện tiết dạy có hiệu quả  giáo viên cần phải nhiệt tình, không ngại khó, ham muốn học hỏi, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn và đặc biệt phải có lòng tin và sự say mê đối với phương pháp dạy học mới. Bởi lẽ nếu chúng ta còn nghi ngờ và ngại khó, không có sự say mê thì không bao giờ thực hiện thành công bất cứ điều gì.

- Giáo viên phải tận tâm trong giảng dạy và giáo dục các em. Muốn vậy, hãy mạnh dạn chuyển lối dạy cũ thụ động “thầy đọc, trò chép”, “thầy giảng, trò nghe” sang lối dạy “thầy tổ chức, trò hoạt động”, “dạy học lấy học sinh làm trung tâm”. Có vậy mới phát huy được tính tự giác, tích cực học tập của các em.

- Phải rèn kĩ năng sống cho học sinh thích ứng với xã hội, rèn luyện kĩ năng và phương pháp học tập, khả năng tự tìm hiểu, khám phá sáng tạo vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Cuộc sống nhà trường là cuộc sống thực, ngay ngày hôm nay, bây giờ, chứ không chỉ chuẩn bị cho tương lai.

VI. NHỮNG VẤN ĐỀ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT KHI VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP VÀO THỰC TIỄN

1. Năng lực của GV :

a) Khó khăn:
- Trình độ GV chưa đồng đều.
- Năng lực ở một số GV còn hạn chế.

b) Biện pháp:
- Nâng cao công tác tự học để có kiến thức sâu rộng, tìm hiểu kĩ các phương pháp dạy học.
- Rèn luyện kĩ năng sử dụng tốt phương pháp dạy học mới và vận dụng phù hợp.

2. Phương tiện dạy học
a) Khó khăn: Trang thiết bị chưa đầy đủ phục vụ cho việc thí nghiệm hoặc TBDH chưa đảm bảo tính khoa học, chính xác.
b) Biện pháp: GV tận dụng những nguyên vật liệu rẻ tiền có sẵn ở địa phương để phục vụ cho việc giảng dạy.
3. Thời lượng tiết học
a) Khó khăn: 35 - 40 phút / tiết rất khó áp dụng cho phương pháp BTNB
- Lí do: HS ghi vở thực nghiệm tốn thời gian.
             Tốn nhiều thời gian cho việc trình bày ý tưởng cá nhân.
             Làm thí nghiệm có thể thất bại nhiều lần. 
b) Biện pháp:
- Cần giải quyết ít vấn đề trong một lần thí nghiệm.
-Sử dụng phương pháp này thường xuyên để rèn thói quen cho HS.
- Rèn cho HS có kĩ năng diễn đạt rõ ràng, ngắn gọn, mạch lạc để đảm bảo thời gian.
- Trong quá trình thực nghiệm GV cần có mặt kịp thời nhằm giúp nhóm trình bày ý tưởng, có thể điều chỉnh kịp thời để tránh thất bại nhiều lần.
- Những vấn đề chưa cần thiết giải quyết trong tiết học GV hẹn dịp khác.
- Đề xuất ý kiến lên các cấp quản lí GD.
4. Sĩ số lớp học:

a) Khó khăn :Sĩ số đông ảnh hưởng đến việc tổ chức các hình thức dạy học.
b) Biện pháp :
- Sắp xếp bàn ghế phù hợp.

- Bố trí nhóm từ 4 - 6 người.
- Có chỗ dành riêng để vật liệu thí nghiệm.

        Phương pháp “ Bàn tay nặn bột ” là một phương pháp mới được Bộ GD –ĐT triển khai tổ chức tập huấn, bản thân tôi cũng như các đồng chí trong tổ bộ môn khi tiến hành dạy thực nghiệm gặp phải nhiều khó khăn như sau: triển khai một tiết học theo phương pháp “ Bàn tay nặn bột ” rất tốn thời gian, học sinh phải chủ động, độc lập, phát huy khả năng tự học, tự nghiên cứu nên không thích hợp với những lớp có phần lớn là học sinh dân tộc tại chỗ. Hơn nữa những bài chủ yếu là khái niệm rất khó áp dụng phương phá này. Vì thế chúng tôi có một vài ý kiến đề xuất như sau:

   +  Chỉ áp dụng phương pháp “ Bàn tay nặn bột ” ở một số bài hoặc tiết thích hợp, tập trung áp dụng vào các kiểu bài thực nghiệm, thực hành ngoại khóa.

   +  Nên thay đổi chương trình SGK khi áp dụng dạy học theo phương pháp này.

   + Tăng cường tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên.

   + Xây dựng các chuyên đề về phương pháp bàn tay nặn bột ở các môn học

   + Cần có sự đổi mới trong đánh giá học sinh và đánh giá giờ dạy khi sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột”

    + Đáp ứng các nhu cầu về cơ sở vật chất cho giáo viên và học sinh để thực hiện phương pháp BTNB.

    Trên đây là một số ý kiến nhỏ chủ quan của cá nhân tôi chắc còn nhiều thiếu sót mong các thầy cô giáo, đồng nghiệp, các đồng chí lãnh đạo góp ý kiến bổ sung thêm, tôi xin chân thành cảm ơn.      

VII. KẾT LUẬN

        Hiện nay, chương trình "Bàn tay nặn bột" đã được áp dụng tại một số quốc gia phát triển trên thế giới như Pháp, Mỹ, Canada... Bắt đầu từ năm học 2012-2013, Bộ GD&ĐT triển khai thí điểm phương pháp “Bàn tay nặn bột" đối với các trường tiểu học và cả THCS tại cả 63 tỉnh, thành trên toàn quốc. "Bàn tay nặn bột" là một phương pháp giáo dục tiên tiến, giúp hình thành kiến thức và nhân cách cho trẻ em. Vì thế, nó không chỉ phát huy hiệu quả ở cấp tiểu học mà còn có thể áp dụng cho các cấp giáo dục cao hơn. Hơn nữa, học sinh Việt Nam rất cần một chương trình như thế, bởi hiện nay các em đang thiếu kiến thức thực tiễn một cách đáng lo ngại.

"Bàn tay nặn bột" là phương pháp dạy học, dẫn dắt học sinh đi từ chưa biết đến biết. Giáo viên sẽ cho học sinh tiếp xúc với biều tượng ban đầu, sau đó giúp các em giải thích bằng cách tự mình tiến hành nghiên cứu qua thực nghiệm. Nhờ đó, học sinh sẽ hình thành khả năng suy luận theo phương pháp nghiên cứu từ nhỏ, và điều này sẽ góp phần không nhỏ trong sự hình thành tác phong và phương pháp làm việc của các em khi trưởng thành. Cũng như các phương pháp dạy học tích cực khác “Bàn tay nặn bột” luôn coi học sinh là trung tâm của quá trình nhận thức, chính các em là người tìm ra câu trả lời và lĩnh hội kiến thức dưới sự giúp đỡ của giáo viên. Việc “Lồng ghép phương pháp “Bàn tay nặn bột” đối với một số bài trong giảng dạy môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2” giúp học sinh hiểu rõ câu hỏi hay vấn đề đặt ra kích thích nhu cầu tìm tòi nghiên cứu, cần giải quyết trong bài học, tạo sự hứng thú cho học sinh trong học tập là yếu tố tiên quyết để học sinh học tốt môn Hóa học.

Tuy nhiên do thời gian có hạn, và là một phương pháp mới bước đầu chỉ mới thực hiện thí điểm ở một số trường nên chắc hẳn còn nhiều vấn đề thiếu sót mà tôi chưa phát hiện ra hết khi xây dựng đề tài. Rất mong được sự góp ý của các đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn.

                                                                       Người viết sáng kiến

                                                                       (Họ và tên, Chữ ký)

 

 

                                                                           Trương Thị Thanh Thương

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

1. Mạng internet.

2. Đổi mới phương pháp dạy học, chương trình và sác giáo khoa  - tác giả Trần Bá Hoành – NXB Đại học Sư phạm.

3. Dạy học Tự nhiên – Xã hội ở tiểu học bằng phương pháp Bàn tay nặn bột – tác giả Đỗ Thị Nga – NXB Giáo dục

4. Sách giáo khoa tự nhiên và Xã hội lớp 2.

5. Tài liệu phương pháp bàn tay nặn bột trong dạy học Tiểu học (Tài liệu tập huấn thí điểm- lưu hành nội bộ)

 

Nhận xét và đánh giá của Hội đồng xét SKKN trường TH Lê Quý Đôn

.....................................................................................................................................

.....................................................................................................................................

.....................................................................................................................................

.....................................................................................................................................

Xếp loại: ……………

      Thống Nhất, ngày 23 tháng 3 năm 2015             

        CHỦ TỊCH HĐ

 

 

 

 

 

 

 

Nhận xét và đánh giá của HĐ Phòng GD&ĐT huyện Thống Nhất

.....................................................................................................................................

.....................................................................................................................................

.....................................................................................................................................

.....................................................................................................................................

Xếp loại: ……………

      Thống Nhất, ngày ….tháng ….năm …..

        CHỦ TỊCH HĐ

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Mục lục

 

 

Trang

 

Sơ lược lí lịch.  

1

A, Phần mở đầu

I. Lí do chọn đề tài

II. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.

2

4

B, Nội dung

I, Cơ sở lí luận.

II, Phân tích thực trạng.

III, Các giải pháp thực hiện đề tài.

IV, Khả năng vận dụng.

V, Kết quả đạt được.

VI, Kiến nghị đề xuất.

5

5

6

6

14

24

25

VII. Kết luận.                                                                

26

Tài liệu tham khảo.

27

 

 

1

GV thực hiện: Trương Thị Thanh Thương                                    Trường TH Lê Quý Đôn

nguon VI OLET