Tạo hứng thú học tập cho học sinh trong tiết dạy Ngữ văn

----------------------------------------------------------------------------------------------

CÊu tróc s¸ng kiÕn kinh nghiÖm

PHẦN MỞ ĐẦU

                     A- ĐẶT VẤN ĐỀ

I- LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.

II- MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.

III- ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU.

B- PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH

I- CƠ SỞ KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1./. CƠ SỞ LÍ LUẬN

2./. CƠ SỞ KHOA HỌC

3./. CƠ SỞ THỰC TẾ

II- CÁC BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH

1./. KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU

2./. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3./ THỜI GIAN HOÀN THÀNH.

PHẦN NỘI DUNG

I- NHIỆM VỤ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

II- CÁC GIẢI PHÁP MÀ SÁNG KIẾN ĐÃ VẬN DỤNG

     1 - Tạo hứng thú  cho học sinh thông qua việc tạo tâm thế học.

    2 - Tạo hứng thú  cho học sinh thông qua việc đọc diễn cảm.

     3 - Tạo hứng thú  cho học sinh thông qua đàm thoại.

     4 - Tạo hứng thú  cho học sinh bằng việc ứng dụng CNTT. 

     5 - Tạo hứng thú  cho học sinh bằng việc sử dụng bản đồ tư duy.

     6- Tạo hứng thú  cho học sinh bằng việc tổ chức các trò chơi.

III- KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

PHẦN KẾT LUẬN

I- MỘT SỐ KẾT LUẬN

II- ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ.

 

 

PHẦN MỞ ĐẦU

A- ĐẶT VẤN ĐỀ

I- LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

          Việc đổi mới phương pháp giảng dạy Ngữ văn hiện nay đã và đang thực sự là yếu tố quyết định hiệu quả giờ dạy. Phương pháp dạy học đổi mới chú trọng đến việc phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh làm cho học sinh ham thích môn học. Điều 24, luật giáo dục (do Quốc hội khoá  X thông qua) cũng đã chỉ rõ  “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Đây là định hướng cơ bản thiết thực đối với mỗi giáo viên trong đó có giáo viên dạy bộ môn Ngữ văn.

Từ nhiều năm nay, phương pháp dạy văn đổi mới đã chú trọng phát triển hứng thú học văn của học sinh. Một trong những mục đích của giờ văn là làm sao gây được rung động thẩm mĩ, giáo dục nhân cách cho học sinh. Ai đó đã nói rằng: “Dù có dắt ngựa đến bờ sông cũng không thể bắt nó uống nước được”. Vấn đề học tập của trẻ cũng vậy. Dù có bắt được chúng ngồi ngay ngắn học tập nhưng nếu không thích thú, trẻ không thể học tốt được. Từ thực tế giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở THCS nhiều năm, tôi nhận thấy muốn giờ dạy đạt hiệu quả cao, ngoài việc truyền đạt kiến thức, tôi nghĩ rằng mình cần phải biết gây hứng thú học tập cho học sinh để tiết học thực sự nhẹ nhàng, sinh động; học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên, không gượng ép. Từ đó mới phát huy thực sự tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh.

Trong phạm vi của sáng kiến kinh nghiệm, tôi xin đề cập đến một số biện pháp nhằm khơi gợi hứng thú học tập của học sinh trong tiết học Ngữ văn ở THCS.

  II – MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

         Đề tài nghiên cứu “Tạo hứng thú cho học sinh trong tiết dạy ng vănvới mục đích cơ bản sau đây : Trình bày một số biên pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh trong gi dạy Ng văn. đó giúp các em nắm vững kiến thức, yêu thích môn học, nhờ vậy nâng cao chất lượng dạy và học. Đồng thời  đề tài này có thể giúp cho giáo viên dạy ng văn áp dụng cho các lớp các bài cụ thể .

 III- ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

   1. Đối tượng nghiên cứu:

Đề tài nghiên cứu hướng tới đối tượng là hứng thú học tập môn Ngữ văn của học sinh THCS.

    2. Phạm vi nghiên cứu :

    - Nghiên cứu phương pháp dạy Ngữ văn của giáo viên.

    - Nghiên cứu hứng thú , kết quả học tập môn Ngữ văn của học sinh.

 

B- PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH

 

I- CƠ SỞ KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

 

1./. Cơ sở lí luận

          Trong  nhng năm gần đây vấn đề đổi mới phương pháp dạy học luôn được bàn luận một cách sôi nổi, đó là vấn đề quan trọng luôn được đề cập trong mỗi cuộc họp chuyên môn ở tất cả các trường học trên cả nước.Với bộ môn văn cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó.

           Nghị quyết hội nghị lần II BCH TW Đảng khóa VIII nêu rõ : “Đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học” ; “phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động , sáng tạo của người học, bồi dưỡng lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”.

Trước kia phương pháp dạy – học văn cổ truyền chính là giảng văn và phân tích các nội dung trong bài học, có lẽ đây là hình thức duy nhất để tiếp cận văn bản.Tuy có những thành công nhất định thì vẫn là thầy phân tích –trò tiếp nhận.Dù có thành công nhưng vẫn là áp đặt cách hiểu, cách cảm thụ cho học sinh và lâu dần sẽ dẫn tới sự nhàm chán không thích tìm tòi,sáng tạo của các em. Chính điều đó đòi hỏi phải có những phương pháp cải tiến trong việc dạy –học văn trong nhà trường,đây là nhu cầu thiết yếu đối với các nhà giáo dục và đội ngũ giáo viên giảng dạy môn văn.Chúng ta biết rằng môn văn là môn cơ bản góp phần hình thành nhân cách học sinh,đặc biệt đối tượng của môn văn là những tác phẩm văn thơ,mà văn thơ lại là nghệ thuật của ngôn từ. Vì vậy với đối tượng học sinh vùng đồng bào dân tộc thiểu số mà giáo viên chỉ phân tích, diễn giảng thì chắc chắn hiệu quả sẽ không cao. Chính vì vậy để thực hiện một giờ học có hiệu quả thì người giáo viên cần phải sử dụng nhiều phương pháp như: phân tích, diễn giảng,vấn đáp,nêu vấn đề,gợi ý …và đặc biệt  để tạo một giờ học phong phú, sinh động thì việc sử dụng hình thức thảo luận nhóm sẽ giúp học sinh trao đổi ý với nhau, bổ sung cho nhau các kiến thức còn thiếu, học sinh sẽ sôi nổi hơn trong học tập. Còn việc lồng ghép một số trò chơi trong quá trình giảng dạy sẽ giúp học sinh cảm thấy hứng thú, tích cực, sôi nổi hơn đỡ nhàm chán trong một tiết học văn.

            Bất cứ một người giáo viên nào có tâm huyết với nghề đều tự đặt ra câu hỏi làm thế nào để dạy và học tốt môn văn ?Từ xưa đến nay người ta vẫn nói :“Học văn thì dễ nhưng dạy văn thì rất khó” và thực tế cũng chứng minh điều đó. Quả là việc dạy văn vô cùng khó bởi dạy văn không chỉ là dạy đúng, đủ mà còn phải hay, phải lôi cuốn học sinh, làm cho học sinh hứng thú, say mê. Môn ngữ văn là môn học kết tinh nhiều giá trị văn hóa truyền thống và nhân loại, là môn học có ý nghĩa trong việc hình thành, phát triển, định hướng nhân cách cho học sinh và rèn luyện những kỹ năng cơ bản cần thiết cho các em.Mặt khác đây lại là môn học nghệ thuật kích thích trí tưởng tượng bay bổng,sáng tạo của học sinh .Chính điều này làm cho việc dạy văn  càng khó hơn, đặc biệt với đối tượng học sinh vùng dân tộc thiểu số như ở  Long Phú chúng ta .

                Thực tế chúng ta thấy rằng ngày càng có ít học sinh đi thi học sinh giỏi môn văn hơn ,các em cũng cảm thấy chán nản và không mấy hứng thú khi học giờ văn.Chính điều đó đòi hỏi phải có những phương pháp cải tiến trong việc dạy – học văn trong nhà trường .Đây là nhu cầu cần thiết đối với các nhà giáo dục và đội ngũ giáo viên giảng dạy môn văn .Với chức năng là một người làm công tác giảng dạy trong nhà trường bản thân tôi cũng luôn trăn trở là làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy học văn.Trong 5 năm công tác giảng dạy tôi nghiệm thấy rằng,cái ước muốn học văn sao cho giỏi,dạy văn sao cho hay ,viết văn sao cho tốt là ước muốn của rất nhiều giáo viên và học sinh.Muốn thực hiện được ước mơ ấy thì chúng ta phải biết tìm tòi,sáng tạo và đưa ra những cái mới hấp dẫn lôi cuốn học sinh,đặc biệt là người giáo viên chúng ta phải biết làm mới bài giảng của mình để kích thích học sinh.

         Phần nội dung thì không thể làm mới,không thể  thay đổi nhưng chúng ta có thể thay đổi và làm mới hình thức,phương pháp giảng dạy của mình. Điều này thì chúng ta đã và đang thực hiện lâu nay nhưng cái quan trọng là sự đổi mới của từng người.Với riêng tôi chỉ một vài năm công tác chưa được xem là nhiều nhưng tôi cũng đã tự rút ra cho mình một vài kinh nghiệm nhỏ,hy vọng trao đổi cùng đồng nghiệp, mong góp một phần nhỏ kinh nghiệm của mình vào công tác dạy học môn ngữ văn của huyện nhà. Đó chính là Tạo hứng thú học tập cho học sinh trong tiết dạy Ngữ văn” .

 

2./. Cơ sở khoa học

        Dạy văn cấp học THCS là dạy cho các em học sinh lứa tuổi 12 đến 15 - lứa tuổi hồn nhiên, trong sáng, năng động và nhạy cảm… biết tìm tòi, khám phá ra thế giới văn chương nghệ thuật. Tác phẩm văn chương nghệ thuật là thành quả sáng tạo của nhà văn, nhà thơ . Mỗi tác phẩm văn thơ đều thuộc một thời kì văn học nhất định ( có thể cách xa thời đại mà các em sống hiện nay cả hàng thế kỉ , hàng thập niên …). Tác phẩm văn chương dù nhỏ nhất : là một câu tục ngữ, một bài ca dao, hay lớn hơn là một bài văn, một bài thơ, một truyện ngắn hay một bộ tiểu thuyết đều có giá trị về nội dung và nghệ thuật của nó. Làm thế nào để giáo viên giúp học sinh đồng cảm với những giá trị tư tưởng nhân văn cần đạt tới trong mỗi tác phẩm là nhiệm vụ giảng dạy của GV dạy Ngữ Văn.

          Lep- Tôn-xTôi nói : “Vấn đề không phải biết là quả đất tròn mà là làm thế nào để biết được quả đất tròn?”. Chân lí là quý báu ! Nhưng cách tìm ra chân lí còn quý hơn nhiều. Vì thế, cái khó trong việc dạy văn là làm sao hướng cho học sinh tìm ra cái hay, cái đẹp trong các tác phẩm.

 

3./. Cơ sở thực tiễn :

Chúng ta thấy rằng việc đổi mới phương pháp dạy học đã đem lại nhiều kết quả khả quan, song bên cạnh những thuận lợi thì chúng ta còn gặp vô vàn những khó khăn . Những khó khăn đó một mặt ở học sinh nhưng cũng một phần ở chính những người giáo viên chúng ta. Môn ngữ văn trong nhà trường có vị trí quan trọng bởi nó giáo dục phẩm chất đạo đức, cung cấp kiến thức tự nhiên và xã hội cho các em nên việc dạy học văn vừa thuận lợi cũng vừa khó khăn:

 

   a - Về phía giáo viên.

Hầu hết giáo viên đã ý thức sâu sắc phải đổi mới phương pháp dạy học . Các thầy cô đã được tập huấn thay sách, tập huấn về đổi mới phương pháp day học. Trong giảng dạy, các thầy cô đã phát huy được tính cực chủ động trong việc dạy học. Học sinh được bày tỏ ý kiến tình cảm, cách hiểu của mình về bộ môn, được thực hành giao tiếp nhiều hơn. Với tinh thần mới, giờ Ngữ văn không phải là giờ truyền thụ kiến thức, mà là giờ khơi gợi khuyến khích học sinh tìm ra con đường đi tới kiến thức, giáo viên cũng đã phân biệt được phương pháp dạy học theo đặc trưng bộ môn Ngữ văn (Tiếng Việt – Văn – Tập làm văn). Giáo viên đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện quan điểm tích hợp trong các tiết dạy: Tích hợp ngang (Tích hợp của ba phân môn Văn - Tiếng Việt – Tập làm văn) và Tích hợp dọc (Tích hợp giữa các bài, các lớp trong cùng một phân môn). Bên cạnh đó là việc tích hợp vấn đề giáo dục bảo vệ môi trường tự nhiên một cách phù hợp trong từng tiết dạy. Qua việc tích hợp và lồng ghép cộng với liên hệ thực tế để giáo dục học sinh đă đem lại cho bộ môn Ngữ văn có những tín hiệu khởi sắc. Đó là phương pháp dạy – học mới đang được tiếp cận một cách tích cực.

Tài năng sư phạm của người thầy được dành nhiều hơn cho việc học sinh tự tìm hiểu cảm thụ tác phẩm. Trong từng tiết dạy, giáo viên đã mạnh dạn phối hợp cùng học sinh tiếp cận, phân tích, tổng hợp và hình thành những tri thức cần nắm. Giáo viên nắm rõ được quan điểm tích hợp của sách giáo khoa, có nhiều cố gắng rèn luyện kỹ năng nghe - đọc - nói - viết cho học sinh. Học sinh không chỉ nắm kiến thức mà quan trọng hơn là biết vận dụng kiến thức vào cuộc sống như: nói, viết tiếng Việt thành thạo, biết tạo lập văn bản, biết sáng tác thơ, sáng tác tác phẩm nghệ thuật ngắn. Chính những chuyển biến này đã giúp giáo viên nhanh chóng tiếp cận và thực hiện thành công những đổi mới trong phương pháp dạy – học Ngữ văn.

Tuy nhiên có một số giáo viên vẫn còn làm việc quá nhiều, trong một tiết dạy đưa ra khá nhiều thông tin. Điều này dễ đưa các em vào thế bị động ghi nhớ, không tạo điều kiện cho các em độc lập suy nghĩ, sáng tạo. Từ đó dẫn đến sau này đứng trước nhiều vấn đề mới các em bỡ ngỡ, bị động, lúng túng và không có đủ khả năng, bản lĩnh để giải quyết những vấn đề phức tạp trong cuộc sống.

Một số tiết dạy vẫn còn rập khuôn quá máy móc các bước lên lớp. Nó biến giờ học thiếu sự phóng khoáng, trở nên nhạt nhẽo, làm tê liệt sự hào hứng của học sinh. Rồi giáo viên chỉ dùng một phương pháp dạy chủ yếu là thuyết tŕnh, không có sự linh hoạt trong việc kết hợp các phương pháp. Bên cạnh đó là việc sử dụng các giáo án mẫu, thiết kế bài giảng một cách máy móc làm mất đi sự cảm thụ sáng tạo riêng của cá nhân.

             b . Về  phía học sinh

  Là giáo viên giảng dạy tại trường THCS Chỉ Đạo, tôi cảm thấy thật đáng buồn bởi hiện tưng học sinh lẫn phụ huynh không có hứng thú với các môn xã hội nói chung và với môn văn nói riêng. Đã có rất nhiều em học sinh khi được chọn vào đội tuyển Văn của trường cứ một mực xin ra và chỉ mong được dự thính vào đội tuyển Toán. Thậm chí có em xin nghỉ học đội tuyển Văn để theo học lớp học thêm Toán. Và đáng buồn hơn nữa khi có em muốn theo học Văn nhưng bố mẹ một mực bắt bỏ lớp Văn để theo lớp Toán. Điều này có lẽ được bắt nguồn từ thực tế của xã hội. Những môn tự nhiên chon trường chọn lớp dễ hơn, rồi ra trường xin công ăn việc làm cũng dễ hơn nhiều những môn xã hội. Vì vậy học sinh đã không có hướng thú với môn học nay lại càng không có hứng thú hơn. Nếu thử điều tra học sinh theo những câu hỏi nhỏ sau, chúng ta sẽ thấy rõ thực trạng học tập Ngữ văn của học sinh.

*Điều tra thực trạng:

Tôi đã điều tra và sát hch v hứng thú hc tập và kết qu học tập môn văn hc sinh hai lớp 9A và 9B trường Chỉ Đạo thời điểm  tháng 09 năm 2014 bằng phiếu điều tra và bài bài kiểm tra 90 phút kết hợp t luận và trắc nghiệm cho kết qu như sau:

- V hứng thú học tập:

Tổng số HS

có hứng thú

không có hứng thú

SL

%

SL

%

40

12

30

28

70

- V kết qu học tập :

TSHS

Giỏi

Khá

Trung bình

SL

%

SL

%

SL

%

40

4

10

8

20

28

70

            Đứng trước  thực trạng đó, những người giáo viên dạy văn thật đáng buồn làm thế nào để các em thích học văn?

II- CÁC BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH

1./. KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU

- Tìm hiểu thực trạng việc dạy và học văn ở trường THCS Chỉ Đạo;

- Phân tích thực trạng, tìm nguyên nhân, trao đổi, thảo luận tìm giải pháp;

- Đề xuất giải pháp thực hiện….

 

2./. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

a. Phương pháp nghiên cứu tài liệu:

Tôi đã nghiên cứu các tài liêu có liên quan đến phương pháp dạy học nói chung, phương pháp dạy  Ngữ văn ở THCS, và đặc biệt nghiên cứu SGK, SGV, STK, STK Ngữ văn  THCS. Ngoài ra tôi nghiên cứu tài liệu bồi dưỡng GV dạy thay sách THCS, các sáng kiến kinh nghiệm của đồng nghiệp trong trường, trong huyện, trên mạng INTERNET.

    b. Phương pháp điều tra sư phạm:

Tôi đã trao đổi với đồng nghiệp về các phương pháp dạy học Ngữ văn qua các chuyên đề cấp trường, cấp cụm trường, cấp huyện. Tôi cũng dự giờ thăm lớp của các giáo viên cùng trường và đặc biệt là tôi đã điều tra hứng thú học tập của học sinh thống qua phiếu  điều tra, thông qua bài kiểm tra.

    c. Phương pháp thực nghiệm:

Tôi đã tiến hành dạy thực nghiệm ở nhiều lớp khác nhau với cùng một bài bằng nhiều phương pháp khác nhau để so sánh, đối chiếu, rồi  ra kết luận.

 

3./ THỜI GIAN HOÀN THÀNH.

  Để hoàn thành SKKN: Tạo hứng thú học tập cho học sinh trong tiết dạy Ngữ văn tôi đã tiến hành nghiên cứu và thực hiện từ: 09/2014 đế02/2015.

PHẦN NỘI DUNG

I- NHIỆM VỤ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

        Bản thân là GV dạy ngữ văn nhiều năm  , tôi luôn tâm đắc câu nói của dân gian : “Cho cá không thích bằng nhận được cần câu”. Nếu ví bộ cần câu là phương pháp và cá ăn là kiến thức thì sự đánh giá về vai trò, tầm quan trọng của hoạt động dạy và học của GV và HS là phải tìm tòi và sáng tạo. Chính vì vậy, trong quá trình giảng dạy, tôi luôn trân trọng, đánh giá cao những phát hiện có nét riêng, thể hiện được những cảm xúc chân thật, những nhận xét, phân tích tinh khôi , sáng tạo của các em đối với một  tác phẩm, một nhân vật (một vấn đề hay một khía cạnh của vấn đề thể hiện trong tác phẩm…). Đó cũng chính là nguồn động viên không nhỏ giúp tôi đầu tư và quyết định tổng kết kinh nghiệm tạo hứng thú cho học sinh trong tiết dạy Ngữ văn này, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học của GV- HS. Đồng thời qua đây, xin được góp một tiếng nói riêng, một ý kiến nho nhỏ cho phong trào “ Dạy Tốt - Học Tốt” của Trường THCS Chỉ Đạo.    

II- CÁC GIẢI PHÁP MÀ SÁNG KIẾN ĐÃ VẬN DỤNG

   A . Hứng thú trong học văn

Nghiên cứu về hứng thú, các nhà tâm lí học cho rằng, đây là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống vừa có khả năng mang lại khoái cảm cá nhân trong quá tŕnh hoạt động. Nó được biểu hiện trước hết ở sự tập trung chú ý cao độ, sự say mê hấp dẫn bởi nội dung hoạt động. Mặt khác, hứng thú bao giờ cũng dẫn đến một đối tượng cụ thể hấp dẫn, nó gắn liền với tình cảm con người. Trong bất cứ một công việc gì nếu có hứng thú làm việc con người sẽ có cảm giác dễ chịu với hoạt động, làm nảy sinh khát vọng hành động và hành động có sáng tạo. Ngược lại nếu hứng thú không được thỏa măn sẽ dẫn đến cảm xúc tiêu cực.

Theo các nhà nghiên cứu giáo dục thì hiệu quả trong việc gây hứng thú cho học sinh trong giờ dạy Ngữ văn nói lên trình độ giáo dục văn học của nhà trường nói chung và của từng giáo viên nói riêng. Văn học dễ làm say mê người học nếu người dạy tạo được sự hứng thú tự thân nơi người học. Người học văn cảm thụ được cái hay, cái đẹp trong từ ngữ, bố cục, vần điệu...khi có được sự hứng thú tìm hiểu và đưa đến cảm xúc. Cái khó của người dạy là làm thế nào truyền được cảm xúc của tác giả đến với người học. Trong trường THCS đối tượng học sinh do đặc điểm tâm sinh lưa lứa tuổi thích tìm hiểu và sáng tạo nhưng chưa có phương pháp đúng để cảm thụ văn học, chưa hiểu rõ cái hay, cái đẹp ẩn chứa trong từng câu thơ, câu văn, chưa có cảm xúc thực sự đồng điệu với cảm xúc của tác giả...Chính những thiếu sót trên, học sinh thường không thích học và đọc văn. Nhiệm vụ của giáo viên dạy văn là phải tạo sự hứng thú, phải khiến cho những từ ngữ khô khan biết nhảy múa, biết vẽ ra những khung cảnh lúc yên bình, lúc dữ dội; phải đi vào tâm hồn các em những tinh cảm yêu, ghét, nhớ nhung, mơ mộng; phải mở ra những cánh cửa từ lâu được khóa chặt bằng sinh hoạt đời thường.

Trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy các môn học nói chung và môn ngữ văn nói riêng, việc lấy học sinh làm trung tâm thúc đẩy tư duy học sinh, mở cho các em hướng nghiên cứu và tự mình giải quyết những thắc mắc, những khó khăn trong việc tìm hiểu phân tích. Người giáo viên không còn giảng giải một cách say sưa khi không có phản hồi từ học sinh, các em được làm quen với những câu hỏi gợi mở, những gợi ý cho một đề tài thảo luận, các em có quyền nêu những nhận xét, những cảm nhận cá nhân về đề tài, về nhân vật, về tác giả...Từ những cảm nhận đôi khi chưa chính xác, gây tranh cãi góp phần rất lớn trong việc điều chỉnh nhận thức, gây hứng thú cho các em và văn học không xa lạ, không “đóng khung trong tháp ngà” mà thật sự gần gũi biết bao...

B. Biên pháp tạo hứng thú trong tiết dạy văn

1 - Tạo hứng thú  cho học sinh thông qua việc tạo tâm thế học văn.

          1.1. Thế nào là tạo tâm thế cho học sinh trong học văn.

 “Tạo tâm thế” cho học sinh trong giờ đọc - hiểu văn bản Văn học thực chất là việc giáo viên tạo cho HS một tư thế vững vàng, một tâm lý thoải mái, một xúc cảm, hứng thú và một tâm hồn đam mê khi tiếp cận một tác phẩm văn học cụ thể. Vì Văn học là môn học gắn với cái đẹp. Học Ngữ văn là học cách khám phá cái đẹp của tự nhiên, cái đẹp của xã hội và của con người, cái đẹp của sự sáng tạo nên không chỉ dùng lí trí mà quan trọng hơn là phải giúp các em cảm nhận được vẻ đẹp ấy bằng cả tâm hồn và sự rung động của trái tim.

   Để tạo được tâm thế cho trò thì trước hết giáo viên phải biết tạo cho mình một tâm trạng thoải mái, nhẹ nhàng, một tình cảm thân thiện, gần gũi hoà đồng với học trò. Muốn vậy, giáo viên vừa phải căn cứ vào mỗi bài dạy để tìm ra hình thức “tạo tâm thế” phù hợp, vừa phải biết nén lòng quên đi những vướng bận lo toan, nhọc nhằn của cuộc sống đời thường, giấu đi những giọt nước mắt, những nỗi buồn. Bước lên bục “văn” với các em là chúng ta phải có cảm giác bước vào một thế giới hoàn toàn mới lạ, tràn đầy hưng phấn, thiết tha với sứ mệnh thiêng liêng, cao cả là người đưa đường, mở cửa dẫn các em hoà vào vương quốc của cái đẹp, để được cười, được khóc không chỉ cho mình mà cho cả giai cấp mình, dân tộc mình, cho những thân phận, số phận đau khổ trên trái đất, giống như những lời thơ của tác giả Việt Nga:

“Giờ văn nụ cười, nước mắt

Nghẹn ngào, thanh thản đan xen

Thầy đau nỗi niềm dâu bể

Trò day dứt cùng thế nhân”.

   Như thế trong suốt giờ Văn, người thầy phải biết quên mình để sống với Văn, với học trò, để cùng các em say sưa đi vào lĩnh hội tri thức một cách có hiệu quả. Người dạy Văn không chỉ là nhà khoa học, nhà sư phạm mà còn là một nghệ sĩ trên bục giảng.

    Thông thường trong một tiết đọc - hiểu văn bản, không phải lúc nào HS cũng có thể tập trung chú tâm vào bài học, đặc biệt là những tác phẩm dài và khó. Song tôi đã thu hút, hướng HS vào bài học bằng cách kiểm tra bài cũ, giới thiệu bài mới, đặt ra những câu hỏi có vấn đề, liên tưởng, so sánh mở rộng vấn đề trong bài học, phát huy khả năng sáng tạo của HS qua giao bài tập, trực tiếp kiểm tra, đánh giá…

     VD Để tạo tâm thế cho HS khi dạy bài “Mây và sóng”, ta Kết hợp kiểm tra bài cũ và giới thiệu bài mới bằng việc tổ chức trò chơi ô chữ.

  Câu hỏi:

1/Văn bản của Et.Môn-Đô-đơ.Ami-xi viết dưới dạng một bức thư của người cha gửi cho con nhắc nhở về thái độ đối với mẹ?                                                                  (Ngữ văn 7

2/Ba tiếng đầu trong tên một bài thơ của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã được nhạc sĩ Huyền Dân phổ nhạc?                                                                                       ( Ngữ văn 9)

3/ Tên đoạn trích trong tác phẩm “Thời thơ ấu” của nhà văn Nguyên Hồng?  (Ngữ văn 8)

4/Văn bản viết như lời mẹ ru với những hình ảnh đẹp trong ca dao của nhà thơ Chế Lan Viên?                                                                                                                  (Ngữ văn 9)

5/Văn bản nhật dụng của tác giả Lí Lan viết về cảm xúc cảu người mẹ trong đêm trước ngày khai trường đầu tiên của con?                                                                  (Ngữ văn 7)

 

 

 

 

M

E

T

Ô

I

 

 

 

 

 

 

 

K

H

U

C

H

A

T

R

U

 

 

 

 

 

 

 

T

R

O

N

G

L

O

N

G

M

E

 

 

 

 

 

 

 

C

O

N

C

O

 

 

 

 

 

 

C

Ô

N

G

T

R

Ư

Ơ

N

G

M

Ơ

R

A

 

  GV: Điểm chung của các văn bản trên là gì?

     TL:Đều viết về người mẹ, tình cảm mẹ con.

Với ô chữ Tagor-Mội tác giả nổi tiếng Ấn Độ với bài thơ nói về tình cảm mẹ con-bài thơ Mây và sóng.Tiết học hôm nay chúng ta sễ cùng tìm hiểu.

 

      1.3 Ưu điểm và hạn chế của phương pháp tạo tâm thế.

           a. Ưu điểm:

  - Ưu điểm lớn nhất của biện pháp “tạo tâm thế” là đưa lại không khí học tập sôi nổi cho lớp, giúp HS có tâm lí thoải mái, hào hứng với bài học, hâm nóng lại tình yêu văn, yêu cái đẹp có giá trị nhân sinh và dần dần hoàn thiện nhân cách, đồng thời giúp các em củng cố, mở rộng, khắc sâu kiến thức trọng tâm bài học một cách hiệu quả sau giờ đọc - hiểu văn bản.

  - Việc “tạo tâm thế” cũng là điều kiện để giáo viên trau dồi trình độ chuyên môn, kỹ năng sư phạm, là cách thức để phát huy tính tích cực, chủ động và năng lực tìm tòi sáng tạo của HS trong việc cảm thụ tác phẩm văn học, phát hiện bồi dưỡng, phát triển năng khiếu thiên bẩm, nghệ thuật đàm thoại, ứng xử trong giao tiếp, khả năng sáng tác….của HS. Từ đó giúp các em hiểu bài hơn, bồi đắp niềm hứng thú, tình yêu, sự say mê đối với môn học.

        

       b. Hạn chế:

 - Do thời gian trên lớp ít, dung lượng tác phẩm dài, nếu giáo viên không định hướng tốt, không chọn lọc khai thác vấn đề rất dễ đưa học sinh vào tình trạng “chạy đua với câu chữ”, nếu không nói là “nước đổ lá khoai”.

 - Các biện pháp trên không thể đem áp dụng vào tất cả các tác phẩm văn học mà giáo viên phải linh hoạt sử dụng và tổ chức hướng dẫn HS tìm hiểu, sưu tầm và áp dụng trong từng tiết học sao cho phù hợp. Nếu không HS sẽ mãi lo đi tìm những bài viết đồng sáng tạo, thử tài chắp bút mà bỏ quên nhiệm vụ chính của mình.

     1.4 Một số lưu ý khi tạo tâm thế học văn cho học sinh.

       - Giáo viên phải chuẩn bị cho tiết dạy của mình một cách chu đáo, hoàn mĩ từ thiết kế giáo án, các bước lên lớp, tiến trình bài học đến tâm trạng, cảm xúc. Dạy văn không thể dùng lí trí mà phải cảm nhận và truyền giảng bằng tâm hồn.

      - Văn học là một môn khoa học mang đặc thù riêng, đòi hỏi người thầy phải thường xuyên học hỏi, trau dồi, tích luỹ, mạnh dạn đổi mới về phương pháp, làm mới mình bằng những bài giảng, những dẫn chứng gợi mở sinh động cho bài học. Cần phải chọn được những tình huống, chi tiết, sự việc “có vấn đề” để phát huy tính tích cực, chủ động và khả năng cảm thụ vấn đề của học sinh.

     - Các biện pháp “tạo tâm thế” này, cần phải áp dụng linh hoạt ở các khối, lớp, đối tượng HS khác nhau, đồng thời, trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần phải gần gũi, tìm hiểu, phát hiện để ươm mầm và đánh thức những khát vọng văn chương hiếm hoi trong tâm hồn HS.  

 

 2 - Tạo hứng thú  cho học sinh thông qua hoạt động đọc diễn cảm.

     2.1 Đọc diễn cảm trong dạy văn.

        Con đường đi vào tác phẩm văn học nhất thiết là từ đọc. Đọc là một hình thức   đặc thù có tính đặc thù của nhận thức văn học.Đọc sẽ kích thích quátrình tâm lý cảm thụ, tri giác tưởng tượng , xúc cảm, đưa người đọc vào thế giới của tác phẩm tạo nên trạng thái tâm lý cần có cho người đọc, người nghe.

          Thực tế có nhiều giáo viên thất bại trong giờ dạy văn vì chưa phát huy được sức mạnh của nghệ thuật đọc diễn cảm, giờ học khô khan thiếu cảm xúc nặng về diễn giải. Vì vậy mà đọc diễn cảm gắn bó trong suốt quá trình giảng văn làm cho giờ giảng văn trở thành một công việc tâm tình , một cuộc trao đổi thực sự về cuộc sống không còn là một cuộc lí luận về chính trị.

      Đọc tác phẩm văn học là đọc cho sáng rõ ý nghĩ, tình cảm thái độ của nhà văn. Bằng sức mạnh riêng của việc đọc diễn cảm, người giáo viên dẫn dắt học sinh vào thế giới của tác phẩm văn học một cách dễ dàng, phù hợp với qui luật cảm thụ văn học. Hướng dẫn học sinh đọc đúng giọng điệu của nhà văn là thể hiện được cung bậc cảm xúc của tác giả, tính đối thoại nội tâm trong ngôn ngữ tác phẩm.

    2.2- Các hoạt động đọc diễn cảm trong dạy văn.

           a. Đọc diễn cảm của thầy.

Việc đọc diễn cảm của thầy có một vai trò vô cùng quan trọng trong việc hướng dẫn học sinh xâm nhập cảm thụ tác phẩm văn học, người thầy xâm nhập vào tác phẩm qua việc cảm thụ và đọc diễn cảm. Từ những kiến thức có được, thầy giáo lựa chọn những kiến thức  cần thiết cho sự hiểu đúng và sự thể hiện tác phẩm hay đoạn văn, bài thơ  mà mình sẽ đọc. Khi đọc người thầy phải cố gắng để đạt được mức tối đa mức độ đọc . Như vậy người thầy phải có sự chuẩn bị  kỹ  ở nhà để trên  lớp trước học sinh người thầy sẽ là một chuẩn mực cho học sinh, thầy phải đọc đúng, đọc hay, thật diễn cảm, bộc lộ được cảm xúc của nhà văn . Người thầy có thể có nhiều hình thức hướng dẫn học sinh đọc : Đọc mẫu, hướng dẫn học sinh đọc , vừa đọc, vừa bình, vừa tóm tắt tác phẩm, đọc phân vai…

 

     b. Đọc diễn cảm của trò.

          Trong giờ học văn người học sinh cần phải có kiến thức về nghệ thuật đọc. Thông qua đọc, học sinh có thể dễ dàng tìm hiểu được giá trị của tác phẩm văn học. Học sinh ở THCS có tâm lý dễ tiếp thụ, dễ xúc cảm, hồn nhiên và dễ tin.Tư duy của học sinh mang tính cụ thể và hiểu nên dễ cho việc đọc diễn cảm đồng thời giúp cho người thầy dễ khêu gợi những cảm xúc của các em, kích thích các em đọc một cách thích thú.

      2.3 Yêu cầu của việc đọc diễn cảm.

        a.Đọc đúng:

      Là trả lại hoàn toàn đúng nội dung văn bản. Đọc đúng là giải quyết kỹ năng , năng lực ngôn ngữ cho học sinh, là không được sai văn bản, là quá trình tri giác chính xác văn bản.

    b.Đọc hay:

        Là bước tiếp theo của đọc đúng, phải trên cơ sở đọc đúng đọc hay mới thành công. Đọc hay là bước đầu chuyển tiếp từ lĩnh vực ngôn ngữ sang lĩnh vực văn chương. Đọc đúng có nghĩa là đọc nghĩa còn đọc hay là đọc ra ý. Khi giảng văn thơ, điều quan trọng là nắm bắt được giọng điệu văn học tức là đọc được hướng vào giọng văn bản.

    c. Đọc diễn cảm:

          Đọc diễn cảm là hệ thống phương pháp đọc sáng tạo, bản chất của đọc sáng tạo là xác định mối quan hệ cảm xúc riêng tư của người đọc về giá trị nội dung và hình thức đọc của tác phẩm. Đọc diễn cảm đòi hỏi cả giáo viên và học sinh phải có cảm xúc.Nếu gò bó, ép buộc sẽ là đọc giả cảm xúc của tác giả. Đọc diễn cảm không phải ai cũng đọc được mà phải tuỳ chất giọng, trình độ nhận thức để giáo viên yêu cầu học sinh đọc. Đọc diễn cảm có tác dụng giúp người ta hiểu được tác phẩm, và khi hiểu về tác phẩm giúp cho đọc diễn cảm tốt hơn, càng hiểu càng diễn cảm tốt.

 

     2.4 Tác dụng của việc đọc diễn cảm.

       Đọc diễn cảm giúp học sinh hình thành thế giới quan nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa. Đây là một trong những hoạt động rất mệt nhọc đòi hỏi sự sáng tạo. Nó đem lại cho các em niềm vui sướng trong sáng tạo, niềm say mê yêu thích lao động và những sản phẩm làm ra kích thích lao động rèn luyện những kỹ năng lao động.

     Đọc diễn cảm là một phương tiện giáo dục bồi dưỡng đạo đức thẩm mĩ cho các em học sinh bởi giáo dục thẩm mĩ và giáo dục đạo đức bao giờ cũng gắn liền với nhau.Nó giúp cho các em cảm thụ cái hay, cái đẹp của văn học làm cho học sinh yêu thích văn học từ đó có ý thức rèn luyện đọc diễn cảm. Ngoài ra, đọc diễn cảm còn góp phần giáo dục tình yêu quê hương đất nước, nâng cánh ước mơ cho học sinh nhận thức về tình yêu quê hương đất nước, giúp học sinh nhận thức rõ tình cảm, hành động của mình đối với quê hương đất nước.

 

   3 - Tạo hứng thú  cho học sinh bằng đàm thoại

          3.1 Đàm thoại là gì?

        Phương pháp đàm thoại là pp mà GV căn cứ vào nội dung bài học khéo léo đặt ra câu hỏi, để HS căn cứ vào kiến thức đã có kết hợp với sự hướng dẩn của GV qua các thiết bị giảng dạy để làm sáng tỏ vấn đề

         3.2 Các dạng đàm thoại.

       a. Đàm thoại tái hiện.

      GV đặt ra những câu hỏi chỉ yêu cầu HS nhớ lại kiến thức đã biết và trả lơì dựa vào trí nhớ, không cần suy luận. Đó là hình thức được dùng khi cần đặt mối liên hệ giữa kiến thức đã học với kiến thức sắp học hoặc khi cần củng cố kiến thức vừa mới học.

       b. Đàm thoại gợi m.

      GV dùng một hệ thống câu hỏi được sắp xếp hợp lý để dẫn dắt HS từng bước phát hiện ra bản chất của vấn đề tính quy luật của vấn đề đang tìm hiểu, kích thích sự ham muốn hiểu biết.

       3.3 Ưu điểm và hạn chế của phương pháp đàm thoại.

      a. Ưu điểm.

- Kích thích tính tích cực, độc lập sáng tạo trong học tập của HS

     - Bồi dưỡng cho HS năng lực diễn đạt những vấn đề học tập bằng lời.

     - Giúp GV thu thập thông tin từ phía HS để kịp thời điều chỉnh hoạt động dạy học.

    - Tạo không khí học tập sôi nổi trong giờ học.  

          b. Hạn chế.

        Nếu người giáo viên chưa có nghệ thuật tổ chức, điều khiển phương pháp đàm thoại thì mang một số hạn chế sau:

        - Dễ làm mất thời gian, ảnh hưởng tới việc thực hiện kế hoạch bài học.

        - Có thể biến đàm thoại thành cuộc tranh luận giữa GV và học sinh, giữa các thành viên của lớp với nhau                                

        3.4- Yêu cầu đối với giáo viên khi s dụng phương pháp đàm thoại.

      GV là người đóng vai trò định hướng thông qua hệ thống các câu hỏi giúp HS giải quyết vấn đề, tổng hợp lại vấn đề.

        Đòi hỏi người GV phải có những kỹ năng sư phạm thật sự tốt : tâm lý, ứng xử, giao tiếp…

      Câu hỏi đặt ra phải có tính mục đích hệ thống, để dẩn giải được hs vào vấn đề.Câu hỏi phải vắn tắt, đơn giản, rỏ ràng, phù hợp với trình độ HS.Câu hỏi phải kích thích được sự tư duy của học sinh.Phải có câu hỏi mang tính phân loại, để kiểm tra khả năng lĩnh hội vấn đề của HS.

4 - Tạo hứng thú  cho học sinh bằng việc ứng dụng CNTT:

 4.1 Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học Ng văn

          Ứng dụng CNTT không đồng nhất với đổi mới phương pháp dạy học (PPDH). CNTT chỉ là phương tiện tạo thuận lợi cho triển khai PPDH tích cực, chứ không phải là điều kiện đủ của PPDH này. Để một giờ học có ứng dụng CNTT là một giờ học phát huy tính tích cực của HS, thì điều kiện tiên quyết là việc khai thác CNTT phải đảm bảo các yêu cầu và tính đặc trưng của PPDH tích cực mà GV lựa chọn.

4.2 ng dụng công nghệ thông tin đối với từng dạng bài

    - Sử dụng công nghệ thông tin để cung cấp kiến thức về tác giả tác phẩm là rất tốt.

       Ví dụ: Khi dạy Lão Hạc chúng ta có thể cung cấp cho học sinh những hiểu biết về nhà văn Nam Cao, tác phẩm nổi tiếng của ông.

     -S dụng công ngh chiếu những đoạn văn cần phân tích.

      Ví d khi phân tích nhân vật lão Hạc ta s dụng máy chiếu để chiếu đoạn văn miêu t lão Hc “lão c làm ra v vui v nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước, tôi muốn ôm choàng lấy lão mà oà lên khóc. Bây gi thì tôi không xót xa năm quyển sách của tôi quá như trước nữa. Tôi ch ái ngại cho lão. Tôi hỏi cho có chuyện:

     - Thế nó cho bắt à? 

     Mặt lão đột nhiên co rúm lại. những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo v một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc...

     - Ứng dụng công nghệ thông tin giúp học sinh nắm vững và kể được nội dung câu chuyện đối với các văn bản  ở lớp 6

Ví dụ khi dạy bài “Ếch ngồi đáy giếng”, chúng ta đưa ra tranh minh hoạ và yêu cầu học sinh kể chuyện

     4.3 Tác dụng của việc ứng dụng công nghệ thông tin.

 

       ng dụng công nghệ thông tin trong day học tạo thuận lợi cho học sinh tiếp thu kiến thức toán học vốn rất trừu tượng. Nói cách khác, nguyên tắc dạy học “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn” ít nhiều đã được vận dụng. Nâng cao một bước cơ bản chất lượng học tập cho học sinh, tạo ra một môi trường giáo dục mang tính tương tác cao, khắc phục tình trạng “thầy đọc, trò chép”, học sinh được khuyến khích và tạo điều kiện để chủ động tìm kiếm tri thức, sắp xếp hợp lý quá trình tự học tập, tự rèn luyện của bản thân mình.

      4.4 Một số lưu ý khi ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy hoc .

        - Để có thể ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học , thì người giáo viên phải có hiểu biết căn bản về nguyên lí hoạt động của máy tính và các phương tiện hỗ trợ khác như máy chiếu đa năng, wedcam. Ngoài ra giáo viên phải thành thạo về các thao tác, biết xử lí các tình huống trục trặc kĩ thuật ở trên lớp . Nếu không làm được như vậy, nhiều khi sử dụng công nghệ thông tin lại gây mất thời gian, tiết học bị gián đoạn .

      - Tránh lạm dụng công nghệ thông tin quá mức trong dạy dọc. Bởi lạm dụng công nghệ thông tin sẽ biến tiết dạy thành tiết xem phim vai trò của người giáo viên sẽ bị  mờ nhạt. Mà thực tế dù dạy học theo phương pháp nào chăng nữa thì người giáo viên vẫn là linh hồn của tiết học mà không thể một loại máy móc nào có thể thay thế được.

       - Tránh việc thiết kế các hình hoặc các cách trình chiếu quá  cầu kì, quá bắt mt khiến cho học sinh quá tập trung vào đó. Điều này làm hạn chế hiệu quả của các phương pháp dạy học.

 

   5- Tạo hứng thú  cho học sinh bằng việc sử dụng bản đồ tư duy.

         5.1 Bản đồ tư duy là gì?

         Bản đồ tư duy (BĐTD) còn gọi là sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy,… là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức,… bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực.

       5.2 Một số hoạt động dạy học trên lớp với bản đồ tư duy

          Có thể tóm tắt một số hoạt động dạy học trên lớp với BĐTD:

     Hoạt động 1: HS lập BĐTD theo nhóm hay cá nhân với gợi ý của GV.

    Hoạt động 2: HS hoặc đại diện của các nhóm HS lên báo cáo, thuyết minh về BĐTD mà nhóm mình đã thiết lập.

     Hoạt động 3: HS thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện BĐTD về kiến thức của bài học đó. GV sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp HS hoàn chỉnh BĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học.

    Hoạt động 4: củng cố kiến thức bằng một BĐTD mà GV đã chuẩn bị sẵn hoặc một BĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho HS lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó.

         Trong quá trình giảng dạy tôi đã từng hướng dẫn học sinh làm nhiều BĐTD như

 

T s hướng dẫn của GV, các em HS cũng t lập được nhiều BĐTD theo ý thích riêng của mình.

5.3 Tác dụng của việc sử dụng bản dồ tư duy.

Sử dụng BĐTD trong dạy học kiến thức mới giúp HS học tập một cách chủ động, tích cực và huy động được tất cả HS tham gia xây dựng bài một cách hào hứng. Với sản phẩm độc đáo “kiến thức + hội họa” là niềm vui sáng tạo hàng ngày của HS và cũng là niềm vui của chính thầy cô giáo và phụ huynh HS khi chứng kiến thành quả lao động của học trò của các em. Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng học sinh không chỉ về trí tuệ (vẽ, viết gì trên BĐTD), hệ thống hóa kiến thức (huy động những điều đã học trước đó để chọn lọc các ý để ghi), khả năng hội họa (hình thức trình bày, kết hợp hình vẽ, chữ viết, màu sắc), sự vận dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống.

5.4  Lưu ý khi sử dụng sơ đồ tư duy

          Sơ đồ tư duy trong dạy học là một sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ như bản đồ địa lí, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh . Mi học sinh  có thể vẽ một kiểu khác nhau, dùng màu sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau. Cùng một chủ đề nhưng mỗi học sinh có thể “thể hiện” nó dưới dạng BĐTD theo một cách riêng. Do đó giáo viên nên khuyến khích học sinh lập BĐTD theo ý tưởng của riêng mình nhằm phát huy được tối đa khả năng sáng tạo của mỗi em.

   6- Tạo hứng thú  cho học sinh bằng việc tổ chức các trò chơi:

       6.1 Tổ chức trò chơi trong dạy Ng văn

       Trò chơi trong  văn  học hay còn gọi là sân chơi lành mạnh bổ ích. Đó việc tổ chức cho học sinh thi tr lời bằng những hoạt động vui chơi giải trí nhằm giáo dục toàn diện học sinh và củng cố rèn luyện kĩ năng  phát triển óc tư duy linh hoạt sáng tao.

       6.2 Thiết kế nội dung trò chơi:

 Như đã xác định mục đích, ý nghĩa của trò chơi, chúng ta nên tổ chức trò chơi vào phần củng cố bài là hợp lý nhất. Vì vậy, nội dung trò chơi phải nhằm củng cố, khắc sâu trọng tâm của bài dạy. Xây dựng nội dung của trò chơi phải đảm bảo những yêu cầu sau:

 - Đảm bảo yêu cầu phổ cập: nghĩa là đa phần các bài tập trong trò chơi phải có mức độ vừa phải, đủ để học sinh bình thường có thể giải quyết được trong thời gian ngắn. Đồng thời, có nhiều bài tập để nhiều học sinh tham gia.

 - Có yếu tố sáng tạo: trong trò chơi nên có 01 bài tập (hoặc 01 ý) trở lên có nội dung sáng tạo. Để giải quyết những bài tập này học sinh phải vận dụng những kiến thức một cách có hệ thống hơn, linh hoạt hơn, sáng tạo hơn.

 - Nội dung trò chơi phải được phân cách thành những yêu cầu, những đơn vị kiến thức, mỗi bài tập đó với từng cá nhân học sinh.

 - Nội dung trò chơi nên thể hiện trong nhiều dạng bài tập, nhiều hình thức thể hiện khác nhau (tùy theo mỗi dạng bài dạy, mỗi tiết dạy, mỗi khối lớp). Ví dụ điền vào chỗ trống, ô trống, dùng vạch nối tương ứng để tạo thành cặp liên kết đúng, điền trắc nghiệm đúng sai, điền kết quả v.v…

           Khi thiết kế nội dung một trò chơi ta có thể lấy nội dung bài học hoặc một bài tập thuộc trọng tâm bài trong sách giáo khoa. Sau đó, bằng sự “chế biến” của mình chúng ta sẽ có nhiều đơn vị kiến thức, nhiều bài tập tương tự ở mức độ phổ cập.

Ví d: Sau mỗi bài dạy văn bản ta có th t chức trò chơi ô ch để khắc sâu củng c kiến thức .

VD Khi dạy bài ôn tập văn học lớp 7 ta có thể thiết kế trò chơi sau đây

1

 

 

 

L

U

C

B

A

T

 

 

 

 

 

 

 

2

 

 

 

T

R

A

N

N

H

A

N

T

O

N

G

 

3

 

 

 

U

C

T

R

A

I

 

 

 

 

 

 

 

4

 

 

 

 

N

G

U

Y

Ê

N

M

O

N

G

 

 

5

 

T

H

A

T

N

G

O

N

T

U

T

U

Y

E

T

6

 

 

 

N

G

U

Y

E

N

T

R

A

I

 

 

 

7

 

 

 

S

O

S

A

N

H

 

 

 

 

 

 

 

8

 

 

 

 

 

 

C

H

I

E

U

T

A

 

 

 

9

 

 

 

 

 

 

 

L

E

L

O

I

 

 

 

 

10

 

 

 

N

A

M

Đ

I

N

H

 

 

 

 

 

 

Hàng ngang

Câu  1. Gồm 6 chữ cái. Bài “Côn Sơn ca” được dịch sang thể thơ nào?

Câu  2. Gồm 12 chữ cái. Ông là người có địa vị tối cao nhưng tâm hồn ông luôn gắn bó với nơi thôn dã. Ông là ai?

Câu  3. Gồm 6 chữ cái. Nguyễn Trãi có tên hiệu là gì?

Câu  4. Gồm 10 chữ cái. Trần Nhân Tông cùng vua cha lãnh đạo nhân dân ta đánh tan quân giặc nào?

Câu 5. Gồm 15 chữ cái. “Thiên Trường vãn vọng” được Trần Nhân Tông sáng tác theo thể thơ nào?

Câu  6. Gồm 10 chữ cái. Đại từ “ta” trong bài “Côn Sơn ca”  chỉ ai?

Câu  7. Gồm 6 chữ cái. Một biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong bài “Côn Sơn ca” ?

Câu  8. Gồm 7 chữ cái. Cảnh vật ở phủ Thiên Trường được miêu tả vào thời điểm nào?

Câu  9. Gồm 5 chữ cái. Nguyễn Trãi tham gia khởi nghĩa Lam Sơn dưới ngọn cờ của ai?

Câu  10. Gồm 7 chữ cái.  Phủ Thiên Trường xưa nay thuộc tỉnh nào?

Hàng dọc . Gồm 10 chữ cái. Điền  vào câu sau “Ca dao ca ngợi cảnh đẹp .... đất nước”

      6.3 Tác dụng của việc tổ chức trò chơi

         Trò chơi sẽ làm cho tập thể các em có bầu không khí mới. Những tràng vỗ tay, tiếng reo hò, khuôn mặt rạng rỡ, tiếng cười, giúp các em hiểu biết và quý mến nhau hơn. Các em không cảm thấy căng thẳng khi học Ngữ văn, phá tan sự sợ sệt lo âu ám ảnh đối với các em học sinh yếu, giúp các em tự tin hòa nhập vào tập thể. Học sinh yêu trường mến lớp kính trọng thầy cô. Đặc biệt các em cảm thấy mình được học tập sinh hoạt trong sự thoải mái

         Việc tổ chức và hướng dẫn có hệ thống khoa học giúp các em phát triển trí tuệ. Sự nhanh nhẹn, trung thực, nâng cao ý thức kỷ luật.  “Chơi mà học, học mà chơi” là quan điểm đúng đắn. Hiệu quả giáo dục trò chơi là nhờ tính hấp dẫn, sự thu hút, lôi cuốn của nó. Điều đó luôn tạo cho các em sự say mê, sự phấn khởi.

       6.4 Một số lưu ý khi t chức trò chơi.

       - Khi tổ chức trò chơi giáo viên là người hướng dẫn là trung tâm của sự thu hút học sinh tam gia đồng thời giáo viên cũng là trọng tài của các trò chơi do vậy giáo viên phải chững chạc, nghiêm túc nhưng lại phải hết sức vui vẻ, gần gũi, hòa đồng với các em. Lời nói phải rõ ràng, dễ hiểu, ấn tượng, luôn tạo sự hấp dẫn và pha trộn ít hài hước trong mỗi trò chơi, nhằm tác động đến tình cảm tâm lí đem lại niềm vui tươi hứng thú.

          - Lựa chọn trò chơi phải phù hợp với bài toán, hướng dẫn học sinh cách chơi. Tránh xử phạt đội thua, người thua mà chủ yếu động viên khuyến khích đội thắng, người thắng.

           - Thời gian chơi không quá 10 phút trong một tiết học.

        Là giáo viên khi tổ chức trò chơi không nên dùng ở mức độ giải trí đơn thuần mà phải xem trò chơi thực sự là phương tiện giáo dục có hiệu quả nhanh, dễ tiếp thu mà các em rất thích.

 

Giáo án minh họa

           Mỗi biện pháp dạy học đề có ưu điểm riêng .Vì vậy trong quá trình vận dụng vào từng bài dạy cụ thể người giáo viên cần cân nhắc lựa chọn những biện pháp phù hợp với mục tiêu của vấn đề , phù hợp với học sinh và phù hợp với sở thích của chính mình. Sau đây tôi xin trình bày một tiết mà tôi đã tiến hành đối với học sinh .

 

Ngµy so¹n:14 /11/2014                                                                                       Ngµy d¹y:...../11/2014

Tuần 14

   Tiết 70                       

            Tập làm văn: NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG VĂN BẢN TỰ SỰ

 

I.Mục tiêu bài học:

1.KiÕn thøc:

-HÖ thèng ho¸ kiÕn thøc vÒ v¨n b¶n tù sù vµ bæ sung mét sè ®¬n vÞ kiÕn thøc míi vÒ ng­êi kÓ chuyÖn.

- Hiu và nhn din đưc thế nào là ngưi k chuyn, vai tvà mi quan h gia ngưi k vi ngôi k trong văn bn t s.

2.KÜ n¨ng: RÌn kü n¨ng x¸c ®Þnh ng­êi kÓ chuyÖn trong v¨n tù sù vµ chuyÓn ®æi ng«i kÓ.

3.Th¸i ®é: Gi¸o dôc ý thøc sö dông ng«i kÓ thÝch hîp trong t¹o lËp v¨n b¶n tù sù.

II.Chuẩn bị : -GV: bài soạn , tìm hiểu các đoạn văn có các ngôi kể khác nhau, phiếu học tập ,bảng phụ có ô chữ, bút dạ.

Phương pháp: Đàm thoại ,vấn đáp,gợi mở, thảo luận ,sử dụng trò chơi.

                       -HS: soạn bài, tìm hiểu các đoạn văn trong SGK ,phiếu học tập.

III.Tiến trình bài dạy:

1.ổn định tổ chức: kiểm tra sĩ số lớp,vệ sinh lớp học.

 

2.Kiểm tra bài cũ: dùng hình thức vấn đáp:

-GV: Khi kể chuyện người kể thường sử dụng các ngôi kể nào?

Khi người kể xưng “tôi’ trong văn bản thì ngôi kể đó thuộc ngôi kể nào?

-HS: Khi kể chuyện người kể thường sử dụng các ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba để kể chuyện.

Khi người kể xưng “tôi” thì ngôi kể đó thuộc ngôi kể thứ nhất.

 3.Bài mới: giới thiệu bài :

               ở các lớp 6,7,8 các em đã được học về ngôi kể  và chuyển đổi ngôi kể .Trong chương trình ngữ văn lớp 9 ,các em tiếp tục được học nâng cao hơn một bước về người kể chuyện và ngôi kể trong văn bản tự sự ,cụ thể như thế nào chúng ta cùng tìm hiểu giờ học hôm nay.

                  *Tiến trình bài học:

  

Ngữ liệu và phân tích ngữ liệu:

-HS: đọc đoạn trích SGK/192

-GV nêu vấn đề: đoạn trích trên được trích từ văn bản nào ,của tác giả nào?

?Đoạn trích trên kể về ai ? kể về sự việc gì?

?Ai là người kể về các nhân vật và sự việc trên.

? Những dấu hiệu nào cho biết ở đây không phải là các nhân vật trong đoạn trích kể chuyện?( gợi: người kể có xưng tôi hoặc tên của một trong ba nhân vật không?).

-HS: trả lời

-GV: chốt ý.

? Những câu “giọng cười ….tiếc rẻ”, “những người ….như vậy” là nhận xét của người nào ,về ai?

-HS: trả lời

-GV:=> đó là lời của người kể chuyện về anh thanh niên và suy nghĩ của anh ta.

 Thảo luận câu d* SGK (3phút)

-GV: gợi ý : căn cứ vào chủ thể kể câu chuyện ,đối tượng được miêu tả, ngôi kể, điểm nhìn của người kể và lời văn.

-GV: phát phiếu học tập->HS: Thực hiện

-GV:Dùng bảng phụ đã ghi sẵn nội dung và phân tích

? Đoạn trích trên được kể theo ngôi thứ mấy ? người kể chuyện có vai trò gì ?

- HS: Thực hiện ghi nhớ Sgk/193.

Phân tích ngữ liệu 2

-HS: Đọc đoạn trích 2phút:

-GV:chia lớp thành 4 nhóm và tổ chức trò chơi “giải ô chữ” trong thời gian 5phút

Nêu thể lệ ,cách thức tiến hành trò chơi

+ trò chơi có các ô chữ gồm 8 hàng ngang

Mỗi một hàng ngang có một gợi ý để trả lời

Lần lượt các tổ được gọi và lựa chọn hàng ngang

-Hàng ngang số1: gồm 10 chữ cái :Bút danh của tác giả đoạn trích trên là gì?

-Hàng ngang thứ 2: gồm 11 chữ cái: tên của văn bản trên ?

-Hàng ngang thứ 3:gồm 6 chữ cái :nhân vật chính đoạn trích trên là ai?

-Hàng ngang thứ 4:gồm 3 chữ cái : câu nói đầu tiên khi mẹ chú bé gặp chú bé là gì?

-Hàng ngang thứ 5: gồm 3 chữ cái : người kể chuyện trong đoạn trích xưng hô như thế nào?

-Hàng ngang thứ 6:gồm 7 chữ cái: khi đuổi theo mẹ chú bé đã thở như thế nào?

-Hàng ngang thứ 7:gồm 11 chữ cái :mẹ chú bé đã lấy vạt áo làm gì ?

-Hàng ngang thứ 8:gồm 1 chữ cái: số đầu tiên trong dãy số tự nhiên?

-Từ chìa khóa: hàng dọc gồm 8 chữ cái bắt đầu bằng chữ N là ngôi kể của đoạn trích?

? So sánh vai trò của 2 ngôi kể ?( gợi :ngôi kể thứ 3 có ưu ,nhược gì ,ngôi kể thứ nhất có ưu nhược gì ?)

-GV: Phân tích qua và củng cố lại nội dung của bài

* Ghi nhớ SGK /193.

 4: Củng cố : Luyện tập:

- Gv gọi HS  đọc bài tập 1

? So với đoạn trích ở phần 1, cách kể ở đoạn trích này có gì khác: Người kể ở đ©y là ai? Ngôi kể này có ưu điểm gì và hạn chế gì so với ngôi kể ở đoạn trên

- Người kể trong đoạn văn của Nguyên Hồng là nhân vật “ Tôi” ( ngôi thứ nhất)

- Giúp cho người kể dễ đi sâu vào tâm tư tình cảm, miêu tả được những diễn biến tâm lý tinh vi, phức tạp đang diễn ra trong tâm hồn nhân vật “Tôi”

- Hạn chế: khó có thể miêu tả bao quát các đối tượng khách quan, sinh động.

HS ®äcvµ nªu yªu cÇu bµi tËp 2-T193:

? So víi c¸ch kÓ ®trÝch ë môc I , c¸ch kÓ ë ®trÝch nµy cã g× kh¸c ?

?Ng­êi kÓ chuyÖn ë ®©y lµ ai ?

-Ng­êi kÓ chuyÖn trong ®o¹n trÝch nµy lµ nv “t«i”(ng«i thø nhÊt)-chó bÐ –trong cuéc gÆp gì víi mÑ m×nh sau nh÷ng ngµy xa c¸ch .

?Ng«i kÓ nµy cã ­u ®iÓm g× & cã h¹n chÕ g× so víi ng«i kÓ ë ®trªn?

- ¦u®iÓm :Gióp cho ng­êi kÓ dÔ dµng ®i s©u vµo t©m t­ t×nh c¶m, miªu t¶ ®­îc nh÷ng diÔn biÕn t©m lÝ tinh vi, phøc t¹p ®ang diÔn ra trong t©m hån nv “t«i”.

-Nh­îc ®iÓm :H¹n chÕ trong viÖc miªu t¶ bao qu¸t c¸c ®èi t­îng kq, sinh ®éng, khã t¹o ra c¸i nh×n nhiÒu chiÒu, do ®ã dÔ g©y ra sù ®¬n ®iÖu trong giäng v¨n trÇn thuËt.

I.Vai trò của người kể chuyện trong văn bản tự sự :

1.Đoạn trích SGK/192:

-Kể về phút chia tay giữa người họa sĩ già ,cô kỹ sư và anh thanh niên.

-Người kể không xuất hiện trong câu chuyện (vô nhân xưng )

-Người kể ở ngôi thứ ba (tác giả là người kể câu chuyện.

Ngôi kể này người kể chuyện dường như biết hết ,thấy hết mọi việc

 

 

=> Trong văn bản tự sự kể theo ngôi thứ 3 người kể dấu mình đi nhưng lại có mặt khắp nơi trong văn bản nên miêu tả bao quát các đối tượng ,tạo ra cái nhìn nhiều chiều .Người kể có vai trò dẫn dắt người đọc vào câu chuyện

 

 

 

 

 

 

 

* Ghi nhớ SGK /193:

 

 

 

 

 

 

 

 

 

2.Đoạn trích SGK/ 193:

 

 

 

 

 

 

 

 

N

G

U

Y

Ê

N

H

Ô

N

G

 

T

R

O

N

G

L

O

N

G

M

E

 

 

B

E

H

Ô

N

G

 

 

 

 

 

C

O

N

N

I

N

Đ

I

 

 

 

 

 

 

 

 

T

Ô

I

 

 

 

 

 

H

Ô

N

G

H

Ô

C

 

 

 

 

T

H

Â

M

N

Ư

Ơ

C

M

Ă

T

 

 

 

 

 

 

I

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

*.Kết luận:

- Đoạn trích kể về cuộc gặp gỡ cảm động giữa chú bé Hồng với mẹ .

-Cách kể ở đọan trích này xưng “tôi” là bé Hồng .

-Người kể chuyện xưng “tôi” thuộc ngôi thứ nhất

=> người kể đi sâu miêu tả nội tâm với những diễn biến tinh vi ,phức tạp đang diễn ra trong tâm hồn mình.Tuy nhiên lại không bao quát được các đối tượng khác.

 

 

 

 

II.Luyện tập:

Bµi tËp 1

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Bµi tËp 2

 

 

 

 

5.HDVN

- GV: hệ thống lại vai trò người kể chuyện ở hai ngôi kể trên

         - Về nhà các em chuyển đổi ngôi kể ở hai đoạn trích trên theo các ngôi

          - Häc bµi

         - So¹n bµi:¤n tËp TiÕng ViÖT

         -Soạn bài “ Chiếc Lược Ngà”

 

 

 

 

 

     III - KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

     Trong năm học 2014-2015, tôi đã áp dụng sáng kiến  để soạn giảng và vận dụng vào thực tế tôi nhận thấy có sự thay đổi đáng mừng:

     - Học sinh đã có thái độ học tập tích cực, thích thú hơn trong tiết học, chủ động nêu lên những thắc mắc, khó khăn về bộ môn với giáo viên, các em hưởng ứng rất nhiệt tình. Bên cạnh đó bài tập giao về nhà đã được các em làm một cách nghiêm túc, tự giác học bài và nắm được kiến thức cơ bản sau khi học xong mỗi bài.

      Tính đến thời điểm tháng 2 năm 2014 tôi điều tra và sát hạch bằng phiếu điều tra và bài kiểm tra 90 phút kết hợp trắc nghiệm và t luận cho kết qu như sau :

  - V hứng thú :

Tổng số HS

có hứng thú

 Chưa có hứng thú

SL

%

SL

%

40

26

65

14

35

           - Kết qu học tập:

TSHS

giỏi

khá

Trung bình

SL

%

SL

%

SL

%

40

9

22

17

43

14

35

Như vậy so với kết qu thì t l học sinh có hứng thú tăng lên 35%  theo đó t l học sinh giỏi cũng tăng lên 12% , t l học sinh khá tăng lên  23%, t l học sinh trung bình giảm rõ rệt.

 IV- NHỮNG VẤN ĐỀ CÒN BỎ NGỎ

Trong quá trình giảng dạy và nghiên cứu tôi thấy rằng nói về phương pháp dạy học Văn trong nhà trường là một vấn đề rất rộng lớn  mà trong phạm vi một sáng kiến không thể nào nói hết được . Để tạo hứng thú học tập cho học sinh khi học hình ở THCS có rất nhiều những biện pháp khác nhau mà mỗi người giáo viện có thể áp dụng . Đó là các biện pháp như:

- Tổ chức cho học sinh học tập theo nhóm bằng các kĩ thuật như khăn phủ bàn, kĩ thuật các mảnh ghép.

- Tổ chức cho học sinh học tập theo góc,theo nhóm hoặc theo dự án.

Với những hướng đi như vậy tôi xẽ tiếp tục nghiên cứu trong thời gian tiếp theo, ở những đề tài khác.

 

 PHẦN KẾT LUẬN

I-                  MỘT SỐ KẾT LUẬN

        Trên đây là một số biện pháp tạo hướng thú cho học sinh học môn Ngư văn mà bản thân tôi đã  nghiên cứu, tích lũy và thực hiện có hiệu quả trong giảng dạy ở trường THCS Chỉ Đạo với đối tượng học sinh  khá. Mỗi biên pháp dạy học dù thể hiện hiệu quả như thế nào thì nó vẫn tồn tại một vài khía cạnh mà người học, người  dạy chưa khai thác hết . Chính vì thế mà không có biện pháp  nào được cho là lí tưởng . Mỗi biện pháp đều có ưu – nhược điểm của nó . Vậy người thầy nên xây dựng cho mình một cách thực hiện riêng  phù hợp với môi trường , bản chất của vấn đề cần trao đổi ; phù hợp với thành phần nhóm học, công cụ dạy học sẵn có và cuối cùng là phù hợp với sở thích của chính mình.

      Thực tiễn dạy học trong thời gian qua và việc áp dụng phương pháp trên vào quá trình giảng dạy, tôi đã rút ra một số bài học cơ bản sau:

    Một là:  Mỗi giáo viên phải thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng, rèn luyện để không ngừng trau dồi về kiến thức, kỹ năng dạy học , Nâng cao và rèn luyện kỹ năng sư phạm ở độ nhuần nhuyễn.  

   Hai là: Thường xuyện đổi mới về cách soạn, cách giảng; đưa các ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học, đa dạng hóa các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học để lôi cuốn được học sinh vào quá trình học tập.

    Ba là: Cần quan tâm sâu sát đến từng đối tượng  học sinh, đặc biệt là học sinh yếu kém, giúp đỡ ân cần, nhẹ nhàng, tạo niềm tin, hứng thú cho các em trong môn học.

    Bốn là: Trong quá trình giảng dạy giáo viên phải hướng  học sinh vào việc phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo, tạo ra những tình huống có vấn đề để học sinh thảo luận. Trong mỗi tiết học phải tạo ra được sự giao lưu đa chiều giữa giáo viên - học sinh, học sinh - học sinh, giữa các tổ - nhóm.

    Năm là:  Giáo viên cần mạnh dạn đưa các ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học như các phàn mềm vẽ hình, các loại máy đa năng, các hiệu ứng hình ảnh để tiết học thêm sinh động.

 II- ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ

     Để làm tốt và hiệu quả hơn công tác giáo dục, giảng dạy Ngữ văn  trong nhà trường THCS, tôi xin mạnh dạn đề xuất một vài ý kiến nhỏ sau:

1./. Với nhà trường và tổ chuyên môn:

     - Tổ chức thường xuyên các cuộc hội thảo, chuyên đề bàn về phương pháp dạy học Văn theo ba phân môn: Văn, Tiếng Việt và Tập làm văn để cán bộ giáo viên được trao đổi nhiều hơn nữa nhằm học hỏi, nâng cao chuyên môn nghiệp vụ.

2./.Đối với GV:

-              Phải  đọc, soạn thật kỹ  bài cần dạy.

-                                 Xác định rõ, cụ thể nội dung, mục tiêu cần truyền đạt cho học sinh.

-                                 Lựa chọn soạn thảo các câu hỏi ngắn gọn, dễ hiễu nhất.

-                                 Khuyến khích tinh thần học tập tự chủ, sáng tạo của học sinh.

-                                 Nhắc  nhở, định hướng cho HS chuẩn bị bài ở nhà.

-                                 Đầu tư đồ dùng dạy học: ( phấn màu, hộp bút màu, bảng phụ …) .

3.Đối với HS:

-                                 Đọc bài và học bài ở nhà nhiều lần .

-                                 Chuẩn bị đầy đủ đồ dùng học tập.

-                                 Chuẩn bị bài đầy đủ theo hướng dẫn của GV….

-                                 Hăng hái, mạnh dạn xây dựng bài……

 

 

 

 

 

 

 

 

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU                                                                                                 2

A- ĐẶT VẤN ĐỀ                                                                                                2

I- LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.                                                                                  2

II- MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.                                                                       2

III- ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU.                                         2

B- PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH                                                                   3

I- CƠ SỞ KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU          3

1./. CƠ SỞ LÍ LUẬN                                                                                          3

2./. CƠ SỞ KHOA HỌC                                                                                    4

3./. CƠ SỞ THỰC TẾ                                                                                        5

II- CÁC BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH                                                                 6

1./. KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU                                                                      7

2./. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU                                                              7

3./ THỜI GIAN HOÀN THÀNH.                                                                     7

PHẦN NỘI DUNG                                                                                             8

I- NHIỆM VỤ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM                                      8

II- CÁC GIẢI PHÁP MÀ SÁNG KIẾN ĐÃ VẬN DỤNG                             8

A . Hứng thú trong học văn                                                                              8   

B. Biên pháp tạo hứng thú trong tiết dạy văn                                                 9

     1 - Tạo hứng thú  cho học sinh thông qua việc tạo tâm thế học.              9

     2 - Tạo hứng thú  cho học sinh thông qua việc đọc diễn cảm.                 11

     3 - Tạo hứng thú  cho học sinh thông qua đàm thoại.                              14

     4 - Tạo hứng thú  cho học sinh bằng việc ứng dụng CNTT.                    15

     5 - Tạo hứng thú  cho học sinh bằng việc sử dụng bản đồ tư duy.          17

     6- Tạo hứng thú  cho học sinh bằng việc tổ chức các trò chơi.                20

Giáo án minh họa                                                                                              23

III- KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU                                                                        28

 IV- NHỮNG VẤN ĐỀ CÒN BỎ NGỎ                                                          28

PHẦN KẾT LUẬN                                                                                           29

I- MỘT SỐ KẾT LUẬN                                                                                   29

II- ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ.                                                                              30

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

+ Sách Gíao khoa  môn Ngữ  văn THCS.

+ Sách Giao viên môn Ngữ  văn THCS.

+ Tài liệu Chuẩn kiến thức – kĩ năng môn Ngữ văn THCS.

+ Dạy văn –Học văn (Đặng Hiển-NXB ĐHSP – 2003)

+ Những vấn đề dạy học Tiếng Việt THCS (Nguyễn Đức Tồn-NXB GD-HN2001)

+Tổ chức hoạt động dạy học với bản đồ tư duy

TS.Trần Đình Châu Dự án Phát triển GD THCS II- Bộ GD & ĐT

TS. Đặng Thị Thu Thủy - Viện Khoa học Giáo dục VN

 

         Trong SKKN này chắc chắn ít nhiều cũng có những điểm thiếu sót, rất mong sự đóng góp ý kiến của các đồng chí đồng nghiệp để SKKN được hoàn thiện hơn./.

                                                                                          Xin trân trọng cảm ơn!

Chỉ Đạo  ngày 15 tháng 3  năm 2015

                                                                                            Người viết sáng kiến:

 

                                                                                           PHÙNG VĂN TIÊM

 

 

NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ

I./ Hội đồng khoa học Trường THCS Chỉ Đạo:

    Nhận xét, đánh giá:

………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….

   Xếp loại:

……………………………………………………………………………………

 

 

II./ Hội đồng khoa học Phòng GD&ĐT Văn Lâm:

    Nhận xét, đánh giá:

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

   Xếp loại:

……………………………………………………………………………………

 

 

Trang 1

GV: Phùng Văn Tiêm                                      -                                    Trường THCS Chỉ Đạo

                                                          

nguon VI OLET