T1                                                                                                     

    CHUYÊN ĐỀ :

SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN 9

II/ ĐẶT VẤN ĐỀ :

                  Ngữ văn là một môn  có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người. Đồng thời môn học này có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Mặt khác nó cũng là môn học thuộc nhóm công cụ, môn văn còn thể hiện rõ mối quan hệ với rất nhiều các môn học khác trong các nhà trường phổ thông. Học tốt môn văn sẽ tác động tích cực tới các môn học khác và ngược lại, các môn học khác cũng góp phần học tốt môn văn  Điều đó đặt ra yêu cầu trong phương pháp dạy học tích cực là tăng cường tính thực hành, giảm lí thuyết, gắn học với hành, gắn kiến thức với thực tiễn hết sức phong phú, sinh động của cuộc sống.Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học văn là vô cùng quan trọng trong dạy học THCS vì nó có tác dụng tích cực hoá các hoạt động của học sinh làm cho các em hưng phấn trong việc lĩnh hội các tri thức .           

II/ NỘI DUNG VÂN ĐỀ : / SỬ DỤNG BĐTD DẠY –HỌC NGỮ VĂN 9 :

              1/ Dùng BĐTD dạy văn ( phân môn văn) :

            Cơ chế hoạt động của bản đồ tư duy chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên tưởng (Các nhánh)- BĐTD là công cụ đồ hoạ nối các hình ảnh đường nét có liên hệ với nhau, vì vậy BĐTD sẽ giúp HS dần dần hình thành cách ghi chép  văn hiệu quả.có thể sử dụng BĐTD vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới giúp học sinh nắm vững kiến thức về tác giả, chiếm lĩnh cảm thụ tác phẩm văn học. Song đặc điểm của ngôn ngữ văn học là mang tính hình tựng cần sử dụng chủ yếu  phương pháp gợi tìm, giảng bình, nêu vấn đề chư không phải chủ yếu là phương pháp sơ đồ, bảng biểu nên không phải lúc nào cũng sử dụng thành công sơ đồ tư duy.

           Đối với những tiết kiến thức nhiều không nặng về rèn luyện kĩ năng cảm thụ thì giáo viên có thể sử dụng sơ đồ tư duy cho toàn bài  như dạy tiết giới thiệu về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều hay văn bản nhật dụng: Tuyên bố thê giới về quyền sống còn, bảo vệ phát triển của trẻ em,Đấu tranh cho một thê giới hòa bình .Còn đối với những văn bản thơ văn giáo viên có thể sử dụng trong hoạt động tổng kết về nội dung, nghệ thuật hoặc cho học sinh vẽ sơ đồ tư duy ở nhà để soạn bài trước khi đế lớp hoặc để củng cố lại toàn bộ kiến thức bài học.

          Nếu sử dụng cho toàn bài, giáo viên đưa ra một từ khoá để nêu kiến thức của bài mới rồi yêu cầu học sinh vẽ BĐTD bằng cách đặt câu hỏi, gợi ý cho các em để các em tìm ra các tự liên quan đến từ khoá đó và hoàn thiện BĐTD. Qua BĐTD đó học sinh sẽ nắm được kiến thức bài học một cách dễ dàng.

         Ví dụ : Dạy bài Truyện Kiều (tiết tìm hiểu chung về tác giả tác phẩm)

        Giáo viên định hướng để học sinh khai thác kiến thức của bài học bằng hệ thống câu hỏi gợi mở. Trên cơ sở đó hình thành và củng cố kiến thức cho HS bằng BĐTD.

       Hệ thống kiến thức của bài học bao gồm:

       a. Tác giả bao gồm: Tiểu sử (thân thế, gia đình), cuộc đời, sự nghiệp sáng tác...

       b. Tác phẩm:

 


T1                                                                                                     

       + Các tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Du ở cả hai thành phần chữ (chữ Hán và chữ Nôm)

       + Thời gian và hoàn cảnh sáng tác, nguồn gốc của tác phẩm; đồng thời giáo viên gúp học sinh hiểu được vì sao Truyện Kiều có nguồn gốc từ Trung Quốc mà vẫn được coi là tác phẩm văn học Việt Nam ...

      + Tóm tắt Truyện Kiều: Bố cục của Truyện Kiều.

      + Giá trị của Truyện Kiều: Giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật.

          Sơ đồ minh hoạ gợi ý của giáo viên

 

 

        2/ Dùng BĐTD dạy Tiếng Việt :

          Dạy Tiếng Việt cần chú trọng khâu thực hành luyện tập. Để học sinh làm tốt dạng bài tập nhận biết, dùng từ đặt câu, viết đoạn văn điều quan trọng đầu tiên là phải dạy cho học sinh nắm vững kiến thức lí thuyết. Sơ đồ tư duy sẽ giúp học sinh có sự hệ thống hóa kiến thức từng bài từng chương phần nhất là ở, so sánh, tích hợp, khắc sâu kiến thức nhanh bền chắc.

                     Ví dụ:  Bài Các phương châm hội thoại

            Để củng cố lại toàn bộ các phương châm hội thoại đã học,ở phần củng cồ (tiêt 2) của bài này, giáo viên cho học sinh hình thành sơ đồ về các phương châm hội thoại và gợi  cho học sinh minh họa hình vẽ  theo ý thích.Vì mỗi một hình ảnh đều gợi nhớ đến nội dung của một câu ca dao hoặc tục ngữ hoặc câu thơ có liên quan đến một phương châm hội thoại đã học (Nội dung Phương châm về lượng liên quan đến câu chuyện: Bơi dưới nước,Lợn cưới áo mới,bài tập nói về loài chim có hai cánh... Nội dung phương châm về chất liên quan đến câu chuyện: Quả bí khổng lồ, Con rắn vuông. Nội dung Phương châm quan hệ  liên quan đến thành ngữ: Ông nói gà bà nói vịt, Câu chuyện “Sóng”. Nội dung Phương châm cách thức liên quan đến thành ngữ: “Dây cà ra dây muống”, “Lúng búng như ngậm hột thị”, câu chuyện: “Trâu cày không được làm thịt”. Nội dung Phương châm lịch sự  liên quan đến câu ca dao: Vàng thì thử lửa thử than.Chim khôn thử tiếng ,người ngoan thử lời. thành ngữ: Nói như dùi đục chấm mắm cáy,Câu chuyện Người ăn xin...)

 


T1                                                                                                     

                          

 

           Đây là bài tập củng cố kiến thức một cách chắn chắn cho học sinh về nội dung Tiếng Việt này. Như thế học sinh vẽ tùy thích khi chọn một hình ảnh cho mỗi phương châm. Sự tích hợp giữa lí thuyết với bài tập liên quan giúp khắc sâu kiến thức vừa học và phát huy được khả năng tư duy của học sinh.

      3/Dùng BĐTD dạy Tập làm văn :

          Ở phân môn Tập làm văn cũng có thể sử dụng sơ đồ tư duy ở những tiết lí thuyết có tính chất hướng dẫn học sinh qui nạp kiến thức về kiểu bài.Song cần thấy rằng sơ đồ tư duy sử dụng rất hữu hiệu cho việc rèn kĩ năng tìm hiểu đề tìm ý, lập dàn ý. Để học sinh không máy móc chép văn mẫu, bài mẫu, giáo viên cần cho học sinh nắm vững phương pháp thực hiện các kĩ năng. Kĩ năng tìm ý lập dàn ý tương đối khó và đòi hỏi nhiều thời gian khi làm bài  khiến học sinh thường hay lúng túng l Sử dụng BĐTD hướng dẫn học sinh kĩ năng này rất thuận lợi và nhanh chóng hiệu quả bởi các em luôn có sự chủ động tích cực trong việc nắm bắt hệ thống câu hỏi cơ bản tìm luận điểm luận cứ cho mỗi dạng bài nghị luận.

          Ví dụ : Bài Cách làm bài nghị luận về sự việc hiện tượng đời sống

          Sách giáo khoa cho học sinh tìm hiểu cách làm bài bằng hai bài tập đều là hiện tượng đáng khen: suy nghĩ về hiện tượng Phạm Văn Nghĩa về nhân vật trạng nguyên Nguyễn Hiền. Để cho học sinh nm phương pháp làm kiểu nghị luận này, giáo viên cần tổ chức hoạt động vẽ sơ đồ tư duy đề học sinh tìm ý cho dàn ý bài về hiện tượng Phạm Văn Nghĩa

           GV cho từ khóa: Phạm Văn Nghĩa và cho học sinh thảo luận nhóm 8 vẽ nhánh các yêu cầu theo các luận điểm cơ bản và vẽ nhánh cho các luận cứ.Từ sơ đồ của nhóm đại diện trình bày phần tìm ý. GV tiếp tục nêu các câu hỏi rút ra cách làm nghị luận về sự việc hiện tượng nói chung Và sự việc hiện tượng đáng khen nói riêng.

 


T1                                                                                                     

 

      

           Phn luyện tập (sgk) suy nghĩ về nhân vật trạng nguyên Nguyễn Hiền cũng là dạng nghị luận về  hiện tượng đáng khen (trùng lại với dạng bài ở đề về hiện tượng Phạm Văn Nghĩa) nên cần cho làm ở nhà và dành thời gian để hình thành một sơ đồ tư duy cho một đề bài về một đề bài nghị luận về hiện tượng đáng chê: Vứt rác bừa bãi (Đề trong sgk ở tiết bài viết số 2 ) để luyện thêm về kĩ năng tìm ý, lập dàn ý cho học sinh .    

         Giáo viên sử dụng từ khóa cho sơ đồ là vấn đề nghị luận “Hiện tượng vức rác bừa bãi” và lần lượt sử dụng hệ thống câu tìm hệ thống luận cứ (làm rõ luận điểm của bài văn) là:

          - Biểu hiện gì? (đối tượng vứt rác là ai? Vứt ở đâu? Vứt khi nào? Cảnh tượng ra sao?)

          - Nguyên nhân nào dẫn đến hiện tượng trên? (nguyên nhân khách quan (môi trường sống ? thói quen cộng đồng ? Những qui định  pháp luật ? nguyên nhân chủ quan ( Sự  hiểu biết? tính cách ? lối sống? ) 

          - Tác hại gì ? ( về môi trường không khí ? i trường nước? Tác hại đến sức khỏe ,kinh tế ?)

          - Giaỉ pháp ra sao? (cần dựa vào nguyên nhân để tìm giải pháp)

    

 


T1                                                                                                     

 

             Học sinh sẽ dựa vào sơ đồ tìm ý một cách nhanh chóng và trình bày lần lược các lí lẽ dẫn chứng một cách  dễ dàng. Từ đó giáo viên chốt lại phương pháp lập dàn ý cụ thể cho bài nghị luận về hiện tượng đáng khen và đáng chê theo bảng sau.

BỐ CỤC

HIÊN TƯỢNG

ĐÁNG KHEN

HIỆN TƯỢNG

ĐÁNG CHÊ

 MỞ BÀI

Giới thiệu chung về vấn đề nghị luận

 

THÂN BÀI

1.Nêu  biểu hiện

 

1.Nêu biểu hiện

2.Đánh giá,nhn xét về biểu hiện

 

2.Phân tích nguyên nhân của những biểu hiện

3.Phân tích tác dụng ,vai trò

3.Phân tích tác hại của hiện tượng

KẾT BÀI

- Khẳng định ý nghĩa tích cực của hiện tượng

- Liên hệ bản thân (thái độ hành động)

Nêu giải pháp

Liên hệ bản thân (thái độ hành động)

 

 

 

         Vậy nhờ sử dụng BĐTD mà tiết dạy giúp học sinh chủ động tìm hiểu, qui nạp kiến thức để từ đó rèn kĩ năng, phương pháp tìm ý, lập dàn ý cho từng dạng của kiểu bài nghị lun về sự việc hiện tượng đời sống một cách chủ động, tích cực

    III/ Kết thúc vấn đề  : 

        1/Kinh nghiệm :

      Qua những vấn đề kinh nghiệm đã trình bày trên, ta có thể thấy rằng bản đồ tư duy đưa vào trong bài dạy Ngữ văn bằng nhiều cách thức ở nhiều hoạt động khác nhau tùy theo mục tiêu bài dạy phương pháp sử dụng, điều kiện thực tế,đối tượng dạy học.

          Về phương tiện, sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy Ngữ văn có thể là giáo án điện tử với việc thiết kế BĐTD trên phần mềm Mindmap của Buzan hoặc cũng có khi phương tiện dạy học truyền thống phn màu trên bảng đen, bút màu trên giấy vở, giấy A4 hoặc tờ rôki khổ to.

          Về mức độ sử dụng, có thể là một phần hoặc toàn phần

          Về hoạt động sử dụng, có thể là kiểm tra bài cũ, giới thiệu bài mới, hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài, luyện tập củng cố và cả hoạt động chuẩn bị bài ở nhà của học sinh và trong kiểm tra thường xuyên định kì.

               Về phương pháp dạy học tích cực thường kết hợp là :

                     + Nêu vấn đề

                     +  thảo luận nhóm

                    +  trò chơi ...

                     + động não

 


T1                                                                                                     

         Ở ba phân môn đều có thể sử dụng BĐTD .Tuy nhiên riêng phân môn giảng văn (đọc hiểu văn bản) thì cần xác định rõ mục tiêu sử dụng và tính khả thi hữu hiệu của nó. Đối với văn bản nghị luận, việc sử dụng BĐTD hỗ trợ đọc hiểu các văn bản sẽ là thuận lợi. Nhưng với văn bản thơ,truyện, muốn dùng BĐTD để biểu hiện một văn bản, người học phải tìm ra mạch của văn đó (xét đơn thuần về mặt ý).  BĐTD không tái hiện được cảm xúc, không chuyển tải hết sự tinh tuý trong nghệ thuật dùng ngôn ngữ, giọng điệu, hình ảnh,cấu trúc tác phẩm. Vì vậy, sử dụng BĐTD trong dạy học Ngữ Văn là cần thiết, nhưng phải cân nhắc mức độ sử dụng trong việc dạy văn bản. Giáo viên phải tránh được sự suy diễn khô khan dẫn đến xã hội hoá dung tục tác phẩm.

           Không nên quá cực đoan cho rằng chỉ có sử dụng BĐTD mới có thể giúp người học sinh học đạt được mục tiệu cần hướng đến ở  môn Ngữ văn. Trên cơ sở những kiến thức được hệ thống hoá, sơ đồ hoá, người học còn phải biết thực hành ngôn ngữ bằng việc đọc, nói và viết. Bản đồ tư duy nếu bị lạm dụng sẽ làm hạn chế kĩ năng viết câu xây dựng đoạn, liên kết đoạn viết bài tập làm văn của học sinh.

      2/Kết luận :     

           Việc vận dụng BĐTD trong dạy học sẽ dần hình thành cho HS tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học. Sử dụng BĐTD kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác như vấn đáp gợi mở, thuyết trình,… có tính khả thi cao góp phần đổi mới PPDH, đặc biệt là đối với các lớp ở cấp THCS và THPT

 

       Trong thời đại thông tin bùng nổ, kiến thức ngày một nhiều, cái mới liên tục phủ định cái cũ thì việc có một công cụ ghi nhớ và sáng tạo là vô cùng quan trọng và cần thiết. Mạnh dạn mang cái mới đến với thế hệ trẻ yêu thích sáng tạo là việc nên làm. Hi vọng việc sử dụng Bản đồ tư duy sẽ được nhân rộng để tăng hiệu quả cho quá trình dạy học môn Ngữ văn nói riêng và các môn  học khác.

 

 

 

 

 

 

 

 

nguon VI OLET