TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM ĐĂKLẮK

 

 

SEMINAR

VỀ VẤN ĐỀ CỐT LÕI NHẤT CỦA ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG

ĐẾ QUỐCMỸ XÂM LƯỢC GIAI ĐOẠN 1954 - 1975

 

                                         GVHD: VÕ DUY TRÍ

                                     THỰC HIỆN: TỔ 4

                                                   - LỚP SP VẬT LÍ K39

 

Năm học 2014 - 2015

 

DANH SÁCH SINH VIÊN TỔ 4

1. PHẠM THỊ MỸ LINH

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

     

 

 

 

Lời mở đầu
       Các cuộc chiến tranh đi qua để lại bao đau thương và mất mát. Ai cũng biết hậu quả chiến tranh là to lớn biết bao. Song, không phải đất nước nào cũng có quyền chọn cho mình nền hòa bình, tự do. Có những lúc họ không muốn chiến tranh, nhưng họ buộc phải chiến đấu cho nền độc lập nước nhà. Và Việt Nam - đất nước chúng ta rơi vào tình thế đó. Hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ đi qua, chúng ta không 
khỏi kinh hoàng trước những con số thiệt hại cả về người và của. Bây giờ chúng ta 
đang hưởng nền hòa bình, chúng ta đang độc lập. Song, điều đó không có nghĩa là 
chúng ta quên quá khứ, bởi lẽ không có quá khứ sẽ không có hiện tại và tương lai. 
Chúng ta đã chiến đấu anh dũng trong các cuộc kháng chiến. Chúng ta có những 
người lãnh đạo tài giỏi, chúng ta có Đảng lãnh đạo tài tình, chúng ta có sự đoàn kết 
đồng lòng của dân tộc và chúng ta đã chiến thắng. Có rất nhiều yếu tố để tạo nên 
thắng lợi vẻ vang trong các cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, nhưng ở đây tôi 
xin nêu ra một trong những nguyên nhân dẫn đến thắng lợi trong các cuộc kháng 
chiến mà ít ai nghĩ đến đó là “nghệ thuật lãnh đạo”. Có thể nói vui: “Lãnh đạo là 
một nghệ thuật và người lãnh đạo là một nghệ sĩ”, họ phải cân nhắc, sáng tạo để đưa 
ra những sách lượt, chiến lược vào các thời điểm khác nhau, nhắm đem đến chiến 
thắng mà ít tổn hại nhất. Người xưa có câu “nước không có vua như rắn mất đầu” 
để nói rõ tầm quan trọng của người đứng đầu đất nước. Ở nước ta cũng vậy, từ khi 
còn chiến tranh cho đến lúc hòa bình thì Đảng Cộng Sản Việt Nam luôn giữ một vai 
trò cực kì quan trọng trong tất cả các lĩnh vực của đất nước. Bây giờ tôi sẽ hướng 
các bạn vào quá khứ, vào thời kì kháng chiến chống Mỹ để cùng phân tích nghệ 
thuật lãnh đạo của đảng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Phần 1: Tính đúng đắn sáng tạo trong đường lối 
kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
1. Tính đúng đắn, sáng tạo của đường lối kháng chiến chống Mỹ của 
Đảng giai đoạn 1954.
1.1 Hoàn cảnh lịch sử.
Tình hình nước ngoài, phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi và 
châu Mỹ Latinh phát triển mạnh mẽ thêm vào đó phong trào hòa bình, dân chủ đang 
lên cao ở các nước tư bản chủ nghĩa. Đây là một điều kiện thuận lợi để cổ vũ tinh 
thần đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Tuy nhiên, trong giai đoạn này 
cũng có những khó khăn: thế giới đang bước vào thời kỳ chiến tranh lạnh, chạy đua 
vũ trang giữa hai phe xă hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, sự xuất hiện những mẫu 
thuẫn, bất đồng trong hệ thống xã hội chủ nghĩa đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc.
Về tình hình trong nước, đặc điểm lớn nhất của cách mạng Việt Nam sau Hiệp 
định Giơ-ne-vơ là đất nước tạm thời chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị-
xã hội khác nhau: miền Bắc hoàn toàn độc lập, quá độ lên chủ nghĩa xã hội, làm 
căn cứ địa vững chắc cho cả nước tuy nhiên do mới được giải phóng nên kinh tế 
miền Bắc còn nghèo nàn lạc hậu và xét về tiềm lực quân sự thì nước ta còn yếu hơn 
Mỹ rất nhiều. Miền Nam trở thành thuộc địa kiểu mới của đế quốc Mỹ. Trong giai 
đoạn này, có một số những thuận lợi cho cách mạng nước ta đó là: thế và lực của 
cách mạng đã lớn mạnh hơn sau 9 năm kháng chiến, toàn thể dân tộc Việt Nam một 
lòng, quyết tâm thống nhất đất nước.
1.2 Tính đúng đắn, sáng tạo trong hoạch định chính sách kháng chiến 
chống Mỹ của Đảng ta.
1.2.1 Đảng đã sớm nhận rõ và đánh giá đúng kẻ thù, có chủ trương, 
đường lối phù hợp.
Nắm vững âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ ở Việt Nam và Đông Dương, nên 
ngay trước ngày ký Hiệp định Giơnevơ, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung 
ương Đảng (khóa II) từ ngày 15 đến ngày 17-7-1954, đã chỉ rõ: "Hiện nay đế quốc 
Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới và nó đang trở thành kẻ thù chính và trực 
3
tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm chống đế quốc 
Mỹ" 
Tại hội nghị lần thứ bảy tháng 3-1955 và lần thứ tám tháng 8-1955 Ban Chấp hành 
Trung ương Đảng (khóa II) đã nhận định: Mỹ và tay sai đã hất cẳng Pháp ở miền 
Nam, công khai lập nhà nước riêng chống phá Hiệp định Giơnevơ, đàn áp phong 
trào cách mạng.
Tháng 1-1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ mười lăm. 
Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và trong nước, Nghị quyết Hội nghị chỉ 
rõ: Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách 
thống trị của đế quốc và phong kiến, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền 
Nam; Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi 
nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Đó là con đường lấy sức mạnh của quần 
chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp đấu tranh 
chính trị và vũ trang để đánh đổ chính quyền thống trị độc tài Ngô Đình Diệm, tay 
sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hiệp dân tộc, dân chủ ở miền 
Nam.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ mười lăm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II) 
có ý nghĩa lịch sử to lớn, chẳng những đã đáp ứng đúng nhu cầu của lịch sử, mở 
đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, mà còn thể hiện rõ bản lĩnh cách mạng 
độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta trong những năm tháng khó khăn của cách 
mạng.
1.2.2 Đảng ta đã giải quyết tốt mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến 
lược là xây dựng miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền 
Nam.
Tại hội nghị lần thứ bảy và lần thứ tám tháng (1955) Ban Chấp hành Trung ương 
Đảng (khóa II) đã chỉ ra rằng: “Muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng cố hòa 
bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ, điều cốt lõi là phải ra 
sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân 
dân miền Nam.” 
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng 
ta nhận định: Trong thời đại ngày nay, khi độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội 
không thể tách rời nhau, và ở nước ta, khi giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo 
4
cách mạng thì thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng là sự bắt đầu 
của cách mạng xã hội chủ nghĩa, sự bắt đầu của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã 
hội, sự bắt đầu của thời kỳ thực hiện nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản. Từ 
đó, Đảng ta đề ra và giải quyết vị trí, vai trò nhiệm vụ của cách mạng từng miền 
cũng như mối quan hệ giữa hai chiến lược cách mạng ở hai miền. Để củng cố miền 
Bắc, Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ rõ, trước hết cần hoàn thành cải cách 
ruộng đất, chia ruộng đất cho nông dân, xóa bỏ chế độ sở hữu ruộng đất của giai 
cấp địa chủ; đưa miền Bắc tiến dần từng bước lên chủ nghĩa xã hội; kiện toàn lãnh 
đạo các cấp và củng cố Mặt trận Dân tộc thống nhất. Nhiệm vụ của Đảng ở miền 
Nam trong giai đoạn mới là: "lãnh đạo nhân dân miền Nam đấu tranh thực hiện 
Hiệp định đình chiến, củng cố hòa bình, thực hiện tự do dân chủ, cải thiện dân 
sinh, thực hiện thống nhất và tranh thủ độc lập. Đồng thời phải lãnh đạo nhân dân 
đấu tranh chống những hành động khủng bố, đàn áp, phá cơ sở của ta, bắt bớ cán 
bộ ta và quần chúng cách mạng, chống những hành động tiến công của địch, ngụy, 
giữ lấy quyền lợi quần chúng đã giành được trong thời kỳ kháng chiến, nhất là ở 
những vùng căn cứ địa và vùng du kích cũ của ta Quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cách 
mạng ở hai miền cũng là quá trình Đảng ta cụ thể hoá đường lối Đại hội III của 
Đảng. Trong khi đề ra nhiệm vụ cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, 
Đảng không chỉ căn cứ vào tình hình miền Bắc, mà còn căn cứ vào tình hình miền 
Nam, đề ra những chủ trương không chỉ đáp ứng nguyện vọng của nhân dân miền 
Bắc, nhân dân miền Nam, mà còn tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của tầng lớp 
trên ở miền Nam có tinh thần dân tộc, yêu nước, mở rộng mặt trận dân tộc giải 
phóng và tinh thần quốc tế. Bằng công cuộc xây dựng kinh tế - xã hội ở miền Bắc 
trên đà “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc” lên CNXH, vừa bảo đảm đời sống 
cho nhân dân miền Bắc, vừa tăng cường lực lượng làm hậu thuẫn và chi viện cho 
cách mạng miền Nam. Sự gắn bó chặt chẽ giữa cách mạng XHXN ở miền Bắc và 
cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam làm cho thế và lực của cách mạng cả 
nước cũng như của miền Nam không ngừng tăng lên. Nhờ vậy, cách mạng miền 
Nam đã sử dụng được sức mạnh tổng hợp của cả nước để tiến công địch, đánh bại 
mọi chiến lược, chiến thuật của đế quốc Mỹ và tay sai.
Đây là sự sáng tạo của Đảng ta trong quá trình nhận thức và giải quyết mối quan hệ 
giữa hoà bình và cách mạng khi đã trở thành vấn đề lý luận và thực tiễn nóng hổi. 
Đường lối trên thể hiện tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta. Lý luận đó 
5
đã được thực tiễn chứng minh, đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách 
mạng khác nhau ở hai miền là đúng đắn, sáng tạo. Hai chiến lược cách mạng chẳng 
những không mâu thuẫn mà còn hỗ trợ, thúc đẩy nhau cùng phát triển, đồng thời 
góp phần làm phong phú lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin về đường lối tiến hành đồng 
thời hai chiến lược cách mạng trên phạm vi một nước bị chia cắt và đường lối 
này chưa có tiền lệ trong lịch sử, chỉ duy nhất được thực hiện ở Việt Nam dưới sự 
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.2.3 Đảng ta luôn giữ vững quan điểm độc lập, tự chủ, thực hiện 
đường lối đối ngoại mềm dẻo, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ 
của các nước trên thế giới, phát huy sức mạnh dân tộc và sức 
mạnh thời đại.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta diễn ra trong bối cảnh 
quốc tế phức tạp, với cả thuận lợi và không ít khó khăn. Kẻ thù của ta lại là một đế 
quốc có sức mạnh kinh tế, kỹ thuật, quân sự hàng đầu thế giới, âm mưu của chúng 
là chiếm miền Nam, tiến tới xâm chiếm cả nước ta; thực hiện chia rẽ Bắc - Nam và 
chia rẽ các nước xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương cũng nêu rõ cần tăng cường công 
tác Mặt trận để mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân; củng cố, xây dựng Đảng bộ 
miền Nam thật vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức để đủ sức lãnh đạo trực 
tiếp cách mạng miền Nam.
Đường lối này đã phản ánh đúng nguyện vọng và ý chí quyết tâm của nhân dân ta, 
dân tộc ta, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước, con người Việt Nam và xu 
thế tiến bộ của nhân loại, tạo sự đoàn kết nhất trí, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, 
đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em và sự ủng hộ 
của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, tạo sức mạnh tổng hợp để đánh Mỹ 
và thắng Mỹ. Để thực hiện đường lối này, một mặt, chúng ta tập trung phát triển 
tiềm lực của mình; mặt khác,thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn, mềm dẻo, 
tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các nước trên thế giới, đặc biệt là sự đồng tình 
ủng hộ và đoàn kết hiệp đồng chiến đấu của hai nước Lào, Cam-pu-chia, sự giúp đỡ 
quý báu của các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là Liên Xô, Trung Quốc, Cu-ba Về 
vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người có tầm nhìn chiến lược sâu rộng, sắc 
sảo, sáng tạo lớn. Từ năm 1956, Người đã viết trên báo Sự thật của Liên Xô: "Trong 
6
tình hình quốc tế hiện nay, những đặc điểm dân tộc và những điều kiện riêng biệt ở 
từng nước ngày càng trở thành nhân tố quan trọng trong việc vạch ra chính sách của 
mỗi Đảng cộng sản và những vấn đề được đề ra cho đảng này hoặc đảng khác 
tuyệt nhiên không phải là việc riêng của mỗi đảng mà có quan hệ thiết thân đến toàn 
bộ giai cấp vô sản quốc tế". Với tầm nhìn chiến lược ấy, Người giải thích với bạn bè 
quốc tế rằng: "Việc dân tộc Việt Nam phải vạch ra những phương pháp và biện 
pháp riêng của mình để chống âm mưu của đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai hòng 
vĩnh viễn chia cắt đất nước cũng như để quá độ dần dần lên CNXH là điều thật rõ 
ràng, nhưng lúc này thì sự đoàn kết thực sự của phe XHCN và của các dân tộc yêu 
chuộng hòa bình trên thế giới đối với chúng tôi cũng cần thiết không kém gì hồi 
kháng chiến chống Pháp
2. Tính đúng đắn, sáng tạo của đường lối kháng chiến chống Mỹ của 
Đảng giai đoạn 1965-1975.
2.1 Hoàn cảnh lịch sử
1 Từ đầu năm 1965, để cứu vãn nguy cơ sụp đổ của chế độ Sài Gòn và sự phá 
sản của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ đã ào ạt đưa quân Mỹ 
và quân các nước chư hầu vào miền Nam, tiến hành cuộc “Chiến tranh cục 
bộ” với quy mô lớn; đồng thời dùng không quân, hải quân hùng hổ tiến hành 
cuộc chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc. Trước tình hình đó, Đảng ta đã 
quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên phạm vi 
toàn quốc. 
Thuận lợi 
- Khi bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cách mạng thế giới 
đang ở thế tiến công. Ở miền Bắc, kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đã đạt và vượt 
các mục tiêu về kinh tế, văn hoá. Sự chi viện sức người, sức của của miền Bắc 
cho cách mạng miền Nam được đẩy mạnh cả theo đường bộ và đường biển. 
- Ở miền Nam, vượt qua những khó khăn trong những năm 1961-9162, từ 
năm 1963, cuộc đấu tranh của quân dân ta đã có bước phát triển mới. “Chiến 
tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ được triển khai đến mức cao nhất đã cơ bản bị 
phá sản. 
Khó khăn 
- Sự bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc càng trở nên gay gắt và không có 
7
lợi cho cách mạng Việt Nam. 
- Tương quan lực lượng giữa ta và địch bất lợi cho ta 
2.2 Tính đúng đắn, sáng tạo của đường lối kháng chiến chống Mỹ của 
Đảng giai đoạn 1965-1975.
2.2.1 Tranh thủ thời cơ từng bước tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn.
Giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn là chủ trương chiến 
lược đúng đắn, sáng tạo, thể hiện bản lĩnh, tầm nhìn và nghệ thuật chỉ đạo chiến 
lược, điều hành chiến tranh sắc sảo của bộ não cách mạng Việt Nam. Chủ trương 
chiến lược đó được thể hiện trong đường lối chính trị và quân sự; được thực hiện 
bằng những biện pháp hiệu quả, thích hợp trong từng giai đoạn kháng chiến. Đảng 
ta dự kiến, trên bước đường đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, 
cần thực hiện những bước đi phù hợp với điều kiện thực lực của cách mạng Việt 
Nam lúc đó. Lực lượng vũ trang của ta ở miền Nam hầu hết đã tập kết ra miền Bắc, 
Đảng đã chỉ đạo phát huy thế mạnh về chính trị của ta, dựa vào sức mạnh to lớn là 
lực lượng chính trị của quần chúng. Và thực tế lịch sử chứng tỏ đó là một chủ 
trương đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta. Đồng khởi năm 1960 của quân và dân ta ở 
miền Nam đã làm thất bại một hình thức thống trị điển hình bằng chủ nghĩa thực 
dân kiểu mới của Mỹ ở miền Nam, đưa cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực 
lượng chuyển sang thế tiến công. Trên đà thắng lợi, ngày 20-12-1960, Mặt trận Dân 
tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời. Ta đề ra mục tiêu phấn đấu trước mắt là 
tập trung đánh đổ chính quyền Sài Gòn, thành lập ở miền Nam một chính quyền độc 
lập và trung lập. Mục tiêu đó có sức tập hợp rộng rãi và ngày càng mạnh mẽ mọi 
lực lượng yêu nước ở miền Nam, làm phân hóa nội bộ kẻ thù, góp phần tạo ra và 
nhân lên sức mạnh tổng hợp của cuộc kháng chiến. Đến năm 1968, trên cơ sở thắng 
lợi của Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, ta đã chủ động mở rộng 
mặt trận đấu tranh ngoại giao, buộc phía Mỹ và chính quyền Sài Gòn phải ngồi vào 
bàn đàm phán tại Hội nghị Pa-ri, mở ra giai đoạn "vừa đánh vừa đàm". Nhằm thực 
hiện phương hướng chiến lược mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ "Đánh cho Mỹ 
cút, đánh cho ngụy nhào" và để biến phương hướng chiến lược đó thành hiện thực, 
đồng thời với việc tiếp tục đẩy mạnh tiến công quân sự, trong quá trình đàm phán 
chúng ta chủ trương thiết lập tại miền Nam một chính quyền liên hiệp ba thành 
phần, xem đó là một bộ phận trong giải pháp cả gói buộc phía Mỹ phải chấp nhận 
rút hết quân ra khỏi cuộc chiến, chấm dứt sự dính líu quân sự của Mỹ ở Việt Nam.
8
2.2.2 Kết hợp chặt chẽ và nhịp nhàng giữa đấu tranh chính trị với 
đấu tranh quân sự.
Kết hợp chặt chẽ và nhịp nhàng giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự, 
chúng ta đã triển khai và phát triển thế trận chiến tranh nhân dân trên ba vùng chiến 
lược là rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị, thực hành chiến lược tiến công 
địch cả về chính trị, quân sự và ngoại giao; đánh địch bằng phương thức kết hợp 
giữa chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy, chiến tranh nhân dân địa phương 
với chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực hợp thành. Quy mô, nhịp độ của đòn 
tiến công quân sự cũng như thời cơ và chọn hướng tiến công là những nội dung 
quan trọng trong nghệ thuật đánh thắng địch về quân sự. Trong giai đoạn địch thực 
hiện chiến lược "chiến tranh đặc biệt", về quân sự, ta đề ra phương châm đấu tranh 
"hai chân" "ba mũi" "ba vùng", nỗ lực đánh bại các thủ đoạn "thiết xa vận", "trực 
thăng vận", "phượng hoàng vồ mồi", "trên đe dưới búa" của địch; tổ chức nhiều trận 
đánh và tiến đến là một số chiến dịch tiêu diệt từng chiến đoàn quân đội Sài Gòn, 
phá vỡ từng khu vực phòng thủ của chúng, góp phần đánh thắng chiến lược "chiến 
tranh đặc biệt".
Khi địch buộc phải thực hiện chiến lược "chiến tranh cục bộ" (1965-1968), Đảng ta 
đã phân tích rất kỹ những điểm mạnh, yếu của cả ta và địch, chỉ đạo tìm cách đánh 
Mỹ, trên cơ sở đó, quyết tâm ghìm chặt Mỹ và lãnh đạo toàn quân, toàn dân phát 
huy sức mạnh tổng hợp đánh bại từng cố gắng chiến lược của đế quốc Mỹ, đánh bại 
chúng trên chiến trường chính miền Nam. Sau thắng lợi đánh bại cuộc phản công 
chiến lược lần thứ nhất của quân Mỹ (mùa khô 1965-1966), Quân ủy Trung ương 
quyết định mở Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị, tạo hướng tiến công chiến lược 
mới vào nơi yếu của địch trên chiến trường, buộc địch phải tiếp tục phân tán binh 
lực lên vùng rừng núi, là nơi ta có điều kiện thực hiện tiêu diệt và ghìm chân một bộ 
phận quan trọng lực lượng cơ động chiến lược của địch, làm đảo lộn thế bố trí chiến 
lược của chúng trên toàn bộ chiến trường miền Nam, ngăn chặn không để địch mở 
cuộc tiến công trên bộ ra khu vực nam Quân khu 4. Đầu năm 1968, bằng cuộc tiến 
công Tết Mậu Thân, ta đã giáng cho địch một đòn chí mạng, buộc giới lãnh đạo Mỹ 
phải đơn phương xuống thang chiến tranh, ngừng ném bom miền Bắc, ngồi vào bàn 
đàm phán, mở ra giai đoạn "vừa đánh vừa đàm".
9
Chiến lược "chiến tranh cục bộ" bị thất bại, đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược 
"Việt Nam hóa chiến tranh", tìm cách rút bớt một bộ phận quan trọng quân Mỹ 
nhưng vẫn duy trì chế độ thực dân mới của chúng ở miền Nam; tiến hành ngoại giao 
xảo quyệt nhằm cô lập cách mạng Việt Nam và Đông Dương; mở rộng chiến tranh 
đặc biệt ở Lào và xâm lược Cam-pu-chia, đồng thời đẩy mạnh đánh phá bằng không 
quân ra miền Bắc. Đảng ta đã chỉ đạo nhanh chóng khôi phục thế trận ở miền Nam, 
phối hợp chiến trường ba nước Đông Dương, mở các chiến dịch phản công đánh bại 
âm mưu và hành động mở rộng chiến tranh của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải lui về 
phòng ngự chiến lược. Nhằm làm chuyển biến căn bản cục diện chiến trường, mở ra 
khả năng giành thắng lợi quyết định, Đảng ta chỉ đạo mở cuộc tiến công chiến lược 
trên toàn chiến trường miền Nam; đánh trả thắng lợi các cuộc đánh phá của không 
quân Mỹ ra miền Bắc, mà đỉnh cao là đánh bại cuộc tập kích đường không chiến 
lược bằng máy bay B52 của chúng vào tháng 12-1972. Thắng lợi của ta đã buộc Mỹ 
phải ký kết Hiệp định Pa-ri về lập lại hòa bình ở Việt Nam, rút hết quân về nước.
10
Phần 2: Bài học kinh nghiệm cho ngày nay.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đã để lại cho đảng ta nhiều bài 
học kinh nghiệm có giá trị thực tế sâu sắc cho ngày nay.
2.1 Kinh tế 
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây 
dựng và hoàn thiện; chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế 
hoá thành luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; môi trường 
đầu tư, kinh doanh được cải thiện; các yếu tố thị trường và các loại thị trường tiếp 
tục hình thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có bước phát triển mạnh. 
Việc kiện toàn các tổng công ty, thí điểm thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước 
đạt một số kết quả. Giai đoạn 2006 - 2010, doanh nghiệp nước ta tăng hơn 2,3 lần 
về số doanh nghiệp và 7,3 lần về số vốn so với 5 năm trước. Doanh nghiệp cổ phần 
trở thành hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến.
2.2 Quốc phòng, an ninh, đối ngoại được tăng cường.
Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ xã hội chủ nghĩa, an ninh 
chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững. Thế trận quốc phòng toàn dân và thế 
trận an ninh nhân dân được củng cố; tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng 
cường, nhất là trên các địa bàn chiến lược, xung yếu, phức tạp. Công tác giáo dục, 
bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh được triển khai rộng rãi. Sự phối hợp 
quốc phòng, an ninh, đối ngoại được chú trọng hơn.
Quân đội nhân dân và Công an nhân dân tiếp tục được củng cố, xây dựng theo 
hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, thực sự là lực lượng 
tin cậy của Đảng, nhà nước và nhân dân, làm tốt vai trò tham mưu, góp phần chủ 
động phòng ngừa, làm thất bại âm mưu “diễn biến hoà bình”, hoạt động gây rối, bạo 
loạn lật đổ của các thế lực thù địch; đấu tranh ngăn chặn và xử lý có hiệu quả các 
hoạt động cơ hội chính trị, các loại tội phạm hình sự, nhất là tội phạm nguy hiểm, 
có tổ chức, tội phạm ma tuý, tội phạm có yếu tố nước ngoài, tội phạm lợi dụng công 
nghệ cao, sử dụng vũ khí nóng, chống người thi hành công vụ, tham gia tích cực, có 
hiệu quả vào các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, hoạt động cứu hộ, cứu 
nạn, phòng, chống và khắc phục thiên tai.
11
Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu, góp phần tạo ra thế 
và lực mới của đất nước. Phát triển quan hệ với các nước láng giềng, thiết lập và 
nâng cấp quan hệ với nhiều đối tác quan trọng. Hoàn thành phân giới cắm mốc trên 
đất liền với Trung Quốc, tăng dày hệ thống mốc biên giới với Lào, hoàn thành một 
bước phân giới cắm mốc trên đất liền với Campuchia, bước đầu đàm phán phân 
định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc và thúc đẩy phân định biển 
phía Tây Nam với các nước liên quan. Quan hệ với các đảng cộng sản và công 
nhân, đảng cánh tả, đảng cầm quyền và một số đảng khác; hoạt động đối ngoại nhân 
dân tiếp tục được mở rộng. Công tác về người Việt Nam ở nước ngoài đạt kết quả 
tích cực. Thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, đối thoại cởi mở, thẳng thắn về tự 
do, dân chủ, nhân quyền.
Nước ta đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), ký kết hiệp định thương 
mại tự do song phương và đa phương với một số đối tác quan trọng mở rộng và 
tăng cường quan hệ hợp tác với các đối tác, góp phần quan trọng vào việc tạo dựng 
và mở rộng thị trường hàng hoá, dịch vụ và đầu tư của Việt Nam, thu hút đầu tư 
trực tiếp nước ngoài, tranh thủ vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và các nguồn 
tài trợ quốc tế khác.
2.3 Dân chủ xã hội chủ nghĩa có tiến bộ, sức mạnh đại đoàn kết toàn 
dân tộc được củng cố.
Đảng và Nhà nước tiếp tục đề ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm phát huy hơn 
nữa quyền làm chủ, bảo đảm lợi ích của nhân dân, vai trò giám sát của nhân dân đối 
với hoạt động của các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, cán bộ, đảng viên, công 
chức, viên chức. Công tác dân vận của hệ thống chính trị có nhiều đổi mới cả về nội 
dung và hình thức. Các cấp uỷ đảng, chính quyền lắng nghe, tăng cường đối thoại 
với các tầng lớp nhân dân, tôn trọng các loại ý kiến khác nhau. Dân chủ trong Đảng, 
trong các tổ chức và xã hội được mở rộng, nâng cao quyền làm chủ của nhân dân 
được phát huy tốt hơn. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xử lý 
các hành vi vi phạm pháp luật được coi trọng.
Khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai 
cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục được mở rộng 
và tăng cường trên cơ sở thống nhất về mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công 
bằng, dân chủ, văn minh.Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân phát 
12
huy tốt hơn vai trò tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố, mở 
rộng tổ chức, phát triển đoàn viên, hội viên, tổ chức nhiều phong trào thi đua, nhiều 
cuộc vận động có hiệu quả thiết thực cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi 
ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, 
góp phần tích cực vào những thành tựu của đất nước.
2.4 Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tăng cường, đạt một số 
kết quả tích cực
Công tác lý luận đã chủ động nghiên cứu nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn của công 
cuộc đổi mới, diễn biến mới của tình hình thế giới; giá trị khoa học, cách mạng của 
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tập trung vào tổng kết và bổ sung, 
phát triển Cương lĩnh, xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 
và các văn kiện khác trình Đại hội XI của Đảng.
Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng có đổi mới. Coi trọng hơn nhiệm 
vụ xây dựng đạo đức trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; tập trung chỉ đạo có kết 
quả bước đầu cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí 
Minh”, gắn với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, chủ động hơn trong đấu tranh 
chống “diễn biến hoà bình”, bác bỏ các quan điểm sai trái, luận điệu tuyên truyền 
của các thế lực thù địch. Các hoạt động thông tin, báo chí, xuất bản được quan tâm 
lãnh đạo, chỉ đạo chú trọng ngăn ngừa, khắc phục những lệch lạc, nhất là biểu hiện 
xa rời tôn chỉ, mục đích. Công tác thông tin đối ngoại được đẩy mạnh. Đa số cán 
bộ, đảng viên và nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, vào công cuộc 
đổi mới và triển vọng phát triển của đất nước. Tư tưởng tích cực vẫn là xu hướng 
chủ đạo trong đời sống xã hội.
Việc củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, chất 
lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên đạt được một số kết quả; chú trọng hơn xây dựng, 
củng cố tổ chức cơ sở đảng ở những vùng, lĩnh vực trọng yếu, có nhiều khó khăn.
13
Kết luận
Cuộc kháng chiến chống Mỹ đi qua, nhưng nhưng ý nghĩa và bài học kinh 
nghiệm của nó thì mãi mãi tồn tại cho đến ngày nay và mai sau. Chính vì thế chúng 
tôi làm bài thảo luận này mong một phần nào đó khơi dậy lại truyền thống yêu nước 
của dân tộc. Từ đó chúng ta thấy được tầm quan trọng của Đảng trong cuộc kháng 
chiến chống Mỹ cứu nước. Sự lãnh đão đúng đắn, kịp thời và sáng tạo của Đảng đã 
giúp chúng ta có được độc lập, tự do hiện nay. 
Là sinh viên những chủ nhân tương lai của đất nước không những có trách 
nhiệm với gia đình mà còn phải có trách nhiệm đối với toàn xã hội. Thực hiện đúng 
các chủ trương chính sách mà đảng đề ra. Kiên quyết bài trừ những nguồn tin xấu 
nhằm phá hoại đảng.

 

 

Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước (1954 – 1975)

1. Nguyên nhân thắng lợi

– Có sự lãnh đạo của Đảng, với đường lối chính trị, quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo; với tư tưởng chiến lược tiến công, phương pháp đấu tranh linh hoạt, kết hợp đấu tranh quân sự – chính trị – ngoại giao.

– Nhân dân giàu lòng yêu nước, đoàn kết nhất trí, lao động cần cù, chiến đấu dũng cảm vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, xây dựng và bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất.

– Có hậu phương miền Bắc, đáp ứng kịp thời các yêu cầu của cuộc chiến đấu ở hai miền.

– Có sự đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau của ba dân tộc ở Đông Dương; sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa, các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình trên thế giới, kể cả nhân dân Mĩ.

2. Ý nghĩa lịch sử

– Kết thúc thắng lợi 21 năm chiến đấu chống Mĩ, cứu nước và 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, chấm dứt ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc, hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ nhân dân trong cả nước, thống nhất Tổ quốc.

– Mở ra kỉ nguyên mới của lịch sử dân tộc – kỉ nguyên đất nước độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội.

– Tác động mạnh đến tình hình nước Mĩ và thế giới, là nguồn cổ vũ to lớn đối với phong trào giải phóng dân tộc thế giới.

– “Mãi mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.

 

Đường li cách mng ca ĐCS Vit Nam (phn 3-2)

 

II. Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thống nhất tổ quốc (1954 - 1975)

1. Giai đoạn 1954 - 1964

a. Bối cảnh lịch sử của cách mạng Việt Nam sau tháng 7/1954

Sau Hiệp định Giơnevơ, cách mạng Việt Nam vừa có những thuận lợi mới, vừa đứng trước nhiều khó khăn, phức tạp.

- Thuận lợi: Hệ thống xã hội chủ nghĩa tiếp tục lớn mạnh cả về kinh tế, quân sự, khoa học - kỹ thuật, nhất là của Liên Xô; phong trào giải phóng dân tộc tiếp tục phát triển ở Châu Á, Châu Phi và khu vực Mỹ La Tinh, phong trào hoà bình dân chủ lên cao ở các nước tư bản; miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, làm căn cứ địa chung cho cả nước; thế và lực của cách mạng đã lớn mạnh hơn sau chín năm kháng chiến; có ý chí độc lập thống nhất Tổ quốc của nhân dân từ Bắc chí Nam.

- Khó khăn: Đế quốc Mỹ có tiềm lực kinh tế, quân sự hùng mạnh, âm mưu làm bá chủ thế giới với các chiến lược toàn cầu phản cách mạng; thế giới bước vào thời kỳ chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang giữa hai phe xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa; xuất hiện sự bất đồng trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, nhất là giữa Liên Xô và Trung Quốc; đất nước ta bị chia làm hai miền, kinh tế miền Bắc nghèo nàn, lạc hậu, miền Nam trở thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ và đế quốc Mỹ trở thành kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta.

Đảng lãnh đạo đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai miền khác nhau là đặc điểm lớn nhất của cách mạng Việt Nam sau tháng 7/1954. Đặc điểm bao trùm và các thuận lợi khó khăn nêu trên là cơ sở để Đảng ta phân tích, hoạch định đường lối chiến lược chung cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.

b. Quá trình hình thành, nội dung và ý nghĩa của đường lối

b1. Quá trình hình thành và nội dung đường lối

- Tháng 9/1954 bộ chính trị ra nghị quyết về tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách mới của Đảng. Nghị quyết đã chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của tình hình trong lúc cách mạng Việt Nam bước vào một giai đoạn mới là: từ chiến tranh chuyển sang hoà bình; nước nhà tạm chia làm hai miền; từ nông thôn chuyển vào thành thị; từ phân tán chuyển đến tập trung.

- Tại HNTƯ lần thứ bảy (3/1955) và lần thứ tám (8/1955) trung ương Đảng nhận định: muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất hoàn thành độc lập và dân chủ, điều cốt lõi là phải ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam.

- Tháng 12/1957, tại HNTƯ lần thứ 13, đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng được xác định: "Mục tiêu và nhiệm vụ cách mạng của toàn đảng, toàn dân ta hiện nay là: củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Tiếp tục đấu tranh để thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp hoà bình.

- Tháng 1/1959 HNTƯ lần thứ 15 họp bàn về cách mạng miền Nam. Sau nhiều lần họp và thảo luận, Ban chấp hành trung ương đã ra nghị quyết về cách mạng miền Nam.

 Nội dung HNTƯ 15.

+ Hội nghị xác định tính chất xã hội miền Nam sau 1954 là xã hội thuộc địa kiểu mới và nửa phong kiến.

+ Mâu thuẫn cơ bản của xã hội miền Nam là mâu thuẫn giữa nhân dân ta ở miền Nam với đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai của chúng. Mâu thuẫn giữa nhân dân miền Nam mà chủ yếu là nông dân với địa chủ phong kiến. Trong hai mâu thuẫn trên, thì mâu thuẫn chủ yếu ở miền Nam là mâu thuẫn giữa nhân dân ta ở miền Nam với đế quốc mỹ xâm lược cùng tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm - tay sai của đế quốc Mỹ, đại diện cho bọn địa chủ phong kiến và tư sản mại bản thân Mỹ phản động nhất.

+ Nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam:

       Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.

       Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.

Hai nhiệm vụ chiến lược đó tuy tính chất khác nhau, nhưng quan hệ hữu cơ với nhau nhằm phương hướng chung là giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà, tạo điều kiện thuận lợi để đưa cả nước Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội.

+ Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là: đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm, thành lập một chính quyền liên hiệp dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc và các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Nam á và trên thế giới.

+ Con đường phát triển cơ bản của cách mạng miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Đó là con đường lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân.

+ Phương pháp cách mạng: Cần có sách lược lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù phân hoá cao độ đế quốc Mỹ và tay sai của chúng. Sử dụng, kết hợp những hình thức đấu tranh hợp pháp, nửa hợp pháp, phối hợp chặt chẽ phong trào ở đô thị với phong trào nông thôn và vùng căn cứ. Cần kiên quyết giữ vững đường lối hoà bình thống nhất nước nhà. Đồng thời hội nghị dự báo đế quốc Mỹ là tên đế quốc hiếu chiến nhất cho nên trong bất kỳ điều kiện nào, cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam có khả năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ và thắng lợi nhất định thuộc về ta.

+ Về mặt trận: Hội nghị chủ trương cần có mặt trận dân tộc thống nhất riêng ở miền Nam có tính chất, nhiệm vụ và thành phần thích hợp nhằm tập hợp tất cả các lực lượng chống đế quốc và tay sai.

+ Về vai trò của Đảng bộ miền Nam: Hội nghị chỉ rõ sự tồn tại và trưởng thành của Đảng bộ miền Nam dưới chế độ độc tài phát xít là một yếu tố quyết định thắng lợi phong trào cách mạng miền Nam. Phải củng cố Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đề cao công tác bí mật, triệt để khả năng hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp để che dấu lực lượng đề phòng sự xâm nhập phá hoại của bọn gián điệp và những phần tử đầu hàng, phản bội chui vào phá hoại Đảng.

Nghị quyết hội Nghị lần thứ 15 có ý nghĩa lịch sử to lớn, chẳng những đã mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, mà còn thể hiện rõ bản lĩnh độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta trong những năm tháng khó khăn của cách mạng.

Quá trình đề ra và chỉ đạo thực hiện các nghị quyết, chủ trương nói trên chính là quá trình hình thành đường lối chiến lược chung cho cách mạng cả nước, được hoàn chỉnh tại Đại hội lần thứ III của Đảng.

- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (9-1960) tại Hà Nội đã xác định:

+ Nhiệm vụ chung: "Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hoà bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới".

+ Nhiệm vụ chiến lược: Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có hai nhiệm vụ chiến lược:

       Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.

       Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.

+ Mục tiêu chiến lược: "Nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và nhiệm vụ cách mạng ở miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, mỗi nhiệm vụ nhằm giải quyết yêu cầu cụ thể của mỗi miền trong hoàn cảnh nước nhà tạm bị chia cắt. Hai nhiệm vụ đó lại nhằm giải quyết mâu thuẫn chung của cả nước giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng, thực hiện mục tiêu chung trước mắt là hoà bình thống nhất Tổ quốc".

+ Mối quan hệ của cách mạng hai miền: Do cùng thực hiện một mục tiêu chung nên "Hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau".

+ Vị trí, tác dụng:

       Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và bảo vệ căn cứ địa của cả nước, hậu thuẫn cho cách mạng miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội về sau, nên giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất cả nước.

       Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.

+ Con đường thống nhất đất nước: Trong khi tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng, Đảng kiên trì con đường hoà bình thống nhất theo tinh thần Hiệp nghị Giơnevơ, sẵn sàng thực hiện hiệp thương tổng tuyển cử hoà bình thống nhất Việt Nam, vì đó là con đường tránh được sự hao tổn xương máu cho dân tộc ta và phù hợp với xu hướng chung của thế giới. "Nhưng chúng ta phải luôn luôn nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đối phó với mọi tình thế. Nếu đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng liều lĩnh gây ra chiến tranh hòng xâm lược miền Bắc, thì nhân dân cả nước ta sẽ kiên quyết đứng dậy đánh bại chúng, hoàn thành độc lập và thống nhất Tổ quốc".

+ Triển vọng của cách mạng Việt Nam: Cuộc đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất nước nhà là một quá trình đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và lâu dài chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng ở miền Nam. Thắng lợi cuối cùng nhất định thuộc về nhân dân ta, Nam Bắc nhất định sum họp một nhà, cả nước sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội.

b2. Ý nghĩa của đường lối

Đường lối tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng do Đại hội lần thứ III của Đảng đề ra có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức to lớn.

- Đường lối đó thể hiện tư tưởng chiến lược của Đảng: giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vừa phù hợp với miền Bắc vừa phù hợp với miền Nam, vừa phù hợp với cả nước Việt Nam và phù hợp với tình hình quốc tế, nên đã huy động và kết hợp được sức mạnh của hậu phương và tiền tuyến, sức mạnh cả nước và sức mạnh của ba dòng thác cách mạng trên thế giới, tranh thủ được sự đồng tình giúp đỡ của cả Liên Xô và Trung Quốc. Do đó đã tạo ra được sức mạnh tổng hợp để dân tộc ta đủ sức đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

- Đặt trong bối cảnh Việt Nam và quốc tế lúc bấy giờ, đường lối chung của cách mạng Việt Nam đã thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng ta trong việc giải quyết những vấn đề không có tiền lệ lịch sử, vừa đúng với thực tiễn Việt Nam, vừa phù hợp với lợi ích của nhân loại và xu thế của thời đại.

- Đường lối chiến lược chung cho cả nước và đường lối cách mạng ở mỗi miền là cơ sở để Đảng chỉ đạo quân dân ta phấn đấu giành được những thành tựu to lớn trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thắng lợi chống các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ và tay sai ở miền Nam.

2. Giai đoạn 1965 - 1975

a. Bối cảnh lịch sử

Từ đầu năm 1965, để cứu vãn nguy cơ sụp đổ của chế độ Sài Gòn và sự phá sản của chiến lược "Chiến tranh đặc biệt", đế quốc Mỹ ào ạt đưa quân Mỹ và quân các nước chư hầu vào miền Nam, tiến hành cuộc "Chiến tranh cục bộ" với quy mô lớn; đồng thời dùng không quân, hải quân tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc. Trước tình hình đó, Đảng ta đã quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên phạm vi toàn quốc.

- Thuận lợi: khi bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cách mạng thế giới đang ở thế tiến công. Ở miền Bắc, kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đã đạt và vượt các mục tiêu về kinh tế, văn hoá. Sự chi viện sức người, sức của của miền Bắc cho cách mạng miền Nam được đẩy mạnh cả theo đường bộ và đường biển.

Ở miền Nam, vượt qua những khó khăn trong những năm 1961 - 1962, từ năm 1963, cuộc đấu tranh của quân dân ta đã có bước phát triển mới. Ba công cụ của "Chiến tranh đặc biệt" (ngụy quân, ngụy quyền, ấp chiến lược và đô thị) đều bị quân dân ta tấn công liên tục. Đến đầu năm 1965, chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ được triển khai đến mức cao nhất đã cơ bản bị phá sản.

- Khó khăn: Sự bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc càng trở nên gay gắt và không có lợi cho cách mạng Việt Nam. Việc đế quốc Mỹ mở cuộc "Chiến tranh cục bộ", ồ ạt đưa quân đội viễn chinh Mỹ và các nước chư hầu vào trực tiếp xâm lược miền Nam đã làm cho tương quan lực lượng trở nên bất lợi cho ta.

Tình hình đó đặt ra yêu cầu mới cho Đảng ta trong việc xác định quyết tâm và đề ra đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nhằm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

b. Quá trình hình thành, nội dung và ý nghĩa của đường lối

b1. Quá trình hình thành và nội dung đường lối

Khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" ở miền Nam, các hội nghị của Bộ Chính trị đầu năm 1961 và đầu năm 1962 đã nêu chủ trương giữ vững và phát triển thế tiến công mà ta đã giành được sau cuộc "đồng khởi" năm 1960, đưa cách mạng miền Nam từ khởi nghĩa từng phần phát triển thành chiến tranh cách mạng trên quy mô toàn miền. Bộ Chính trị chủ trương kết hợp khởi nghĩa của quần chúng với chiến tranh cách mạng, giữ vững và đẩy mạnh đấu tranh chính trị, đồng thời phát triển đấu tranh vũ trang nhanh lên một bước mới, ngang tầm với đấu tranh chính trị. Thực hành kết hợp đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị song song, đẩy mạnh đánh địch bằng ba mũi giáp công: quân sự, chính trị, binh vận. Vận dụng phương châm đấu tranh phù hợp với đặc điểm từng vùng chiến lược: rừng núi, đồng bằng, thành thị.

- Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ chín (tháng 11 - 1963), ngoài việc xác định đúng đắn quan điểm quốc tế, hướng hoạt động đối ngoại vào việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để đánh Mỹ và thắng Mỹ, còn quyết định nhiều vấn đề quan trọng về cách mạng miền Nam. Hội nghị tiếp tục khẳng định đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang đi đôi, cả hai đều có vai trò quyết định cơ bản, đồng thời nhấn mạnh yêu cầu mới của đấu tranh vũ trang. Đối với miền Bắc, Hội nghị tiếp tục xác định trách nhiệm là căn cứ địa, hậu phương đối với cách mạng miền Nam, đồng thời nâng cao cảnh giác, triển khai mọi mặt sẵn sàng đối phó với âm mưu đánh phá của địch.

- Trước hành động gây "Chiến tranh cục bộ" ở miền Nam, tiến hành chiến tranh phá hoại ra miền Bắc của đế quốc Mỹ, Hội nghị Trung ương lần thứ 11 (tháng 3 - 1965) và lần thứ 12 (tháng 12 - 1965) đã tập trung đánh giá tình hình và đề ra đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên cả nước.

+ Về nhận định tình hình và chủ trương chiến lược: Trung ương Đảng cho rằng cuộc "Chiến tranh cục bộ" mà Mỹ đang tiến hành ở miền Nam vẫn là một cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới, buộc phải thực thi trong thế thua, thế thất bại và bị động, cho nên nó chứa đựng đầy mâu thuẫn về chiến lược. Từ sự phân tích và nhận định đó, trung ương Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trong toàn quốc, coi chống Mỹ cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc từ Nam chí Bắc.

+ Quyết tâm và mục tiêu chiến lược: Nêu cao khẩu hiệu "Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược", "kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào, để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà".

+ Phương châm chỉ đạo chiến lược: Tiếp tục và đẩy mạnh cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc, thực hiện kháng chiến lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh càng mạnh và cố gắng đến mức độ cao, tập trung lực lượng của cả hai miền để mở những cuộc tiến công lớn, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam.

+ Tư tưởng chỉ đạo và phương châm đấu tranh ở miền Nam: Giữ vững và phát triển thế tiến công, kiên quyết tiến công và liên tục tiến công. "Tiếp tục kiên trì phương châm đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị, triệt để vận dụng ba mũi giáp công", đánh địch trên cả ba vùng chiến lược. Trong giai đoạn hiện nay, đấu tranh quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp và giữ một vị trí ngày càng quan trọng.

+Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc: Chuyển hướng xây dựng kinh tế, bảo đảm tiếp tục xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc phòng trong điều kiện có chiến tranh, tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ để bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, động viên sức người sức của ở mức cao nhất để chi viện cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, đồng thời tích cực chuẩn bị đề phòng để đánh bại địch trong trường hợp chúng liều lĩnh mở rộng "Chiến tranh cục bộ" ra cả nước.

+ Nhiệm vụ và mối quan hệ giữa cuộc chiến đấu ở hai miền: Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ của nhân dân cả nước, miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn. Bảo vệ miền Bắc là nhiệm vụ của cả nước, vì miền Bắc xã hội chủ nghĩa là hậu phương vững chắc trong cuộc chiến tranh chống Mỹ. Phải đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc và ra sức tăng cường lực lượng miền Bắc về mọi mặt nhằm đảm bảo chi viện đắc lực cho miền Nam càng đánh càng mạnh. Hai nhiệm vụ trên đây không tách rời nhau, mà mật thiết gắn bó nhau. Khẩu hiệu chung của nhân dân cả nước lúc này là "Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược".

b2.Ý nghĩa của đường lối

Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng được đề ra tại các Hội nghị Trung ương lần thứ 11 và 12 có ý nghĩa hết sức quan trọng:

- Thể hiện quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ, tinh thần cách mạng tiến công, tinh thần độc lập tự chủ, sự kiên trì mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, phản ánh đúng đắn ý chí, nguyện vọng chung của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta.

- Thể hiện tư tưởng nắm vững, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiếp tục tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng trong hoàn cảnh cả nước có chiến tranh ở mức độ khác nhau, phù hợp với thực tế đất nước và bối cảnh quốc tế.

- Đó là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính được phát triển trong hoàn cảnh mới, tạo nên sức mạnh mới để dân tộc ta đủ sức đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

3. Kết quả, ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm

a. Kết quả và ý nghĩa lịch sử

a1. Kết quả

- Ở miền Bắc, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, sau 21 năm nỗ lực phấn đấu, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt được những thành tựu đáng tự hào. Một chế độ xã hội mới, chế độ xã hội chủ nghĩa bước đầu được hình thành. Dù chiến tranh ác liệt, bị tổn thất nặng nề về vật chất, thiệt hại lớn về người, song không có nạn đói, dịch bệnh và sự rối loạn xã hội. Văn hoá, xã hội, y tế, giáo dục không những được duy trì mà còn có sự phát triển mạnh. Sản xuất nông nghiệp phát triển, công nghiệp địa phương được tăng cường.

Quân dân miền Bắc đã đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, điển hình là trận "Điện Biên Phủ trên không" trên bầu trời Hà Nội, Hải Phòng từ 18 đến 30/12/1972 (bắn rơi 81 máy bay Mỹ, có 34 B52, bắt 43 giặc lái Mỹ).

Miền Bắc không chỉ chia lửa với các chiến trường mà còn hoàn thành xuất sắc vai trò căn cứ địa của cách mạng cả nước và nhiệm vụ hậu phương lớn đối với chiến trường miền Nam.

- Ở miền Nam, với sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Đảng, quân ta đã vượt lên mọi gian khổ hy sinh, bền bỉ và anh dũng chiến đấu, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Trong giai đoạn 1954 - 1960 đã đánh bại "Chiến tranh đơn phương" của Mĩ - Ngụy, đưa cách mạng từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công, giai đoạn 1961 - 1965 đã giữ vững và phát triển thế tiến công, đánh bại chiến lược "Chiến tranh đặt biệt" của Mỹ, giai đoạn 1965 - 1968 đã đánh bại chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ và chư hầu, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Pari; giai đoạn 1969 - 1975 đã đánh bại chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" của Mỹ và tay sai mà đỉnh cao là Đại thắng Mùa Xuân 1975 với Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đập tan toàn bộ chính quyền địch, buộc chúng phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, giải phóng hoàn toàn miền Nam.

a2. Ý nghĩa lịch sử

- Ý nghĩa lịch sử đối với nước ta là đã kết thúc thắng lợi 21 năm chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược, 30 năm chiến tranh cách mạng giải phóng dân tộc , chấm dứt hơn một thế kỷ chống chủ nghĩa thực dân kiểu cũ và chủ nghĩa thực dân kiểu mới, giải phóng miền Nam, đưa lại độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ đất nước; hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ trên phạm vi cả nước, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc ta, kỷ nguyên cả nước hoà bình, thống nhất, cùng chung một nhiệm vụ chiến lược, đi lên chủ nghĩa xã hội; tăng thêm sức mạnh vật chất, tinh thần, thế và lực cho cách mạng và dân tộc Việt Nam, để lại niềm tự hào sâu sắc và những kinh nghiệm quý cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước giai đoạn sau; góp phần quan trọng vào việc nâng cao uy tín của Đảng và dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế.

- Ý nghĩa đối với cách mạng thế giới là đã đập tan cuộc phản kích lớn nhất của chủ nghĩa đế quốc vào chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới kể từ sau cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai, bảo vệ vững chắc tiền đồn phía Đông Nam Á của chủ nghĩa xã hội; làm phá sản các chiến lược chiến tranh xâm lược của đế quốc mỹ, gây tổn thất to lớn và tác động sâu sắc đến nội tình nước Mỹ trước mắt và lâu dài; góp phần làm suy yếu chủ nghĩa đế quốc, phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của chúng ở khu vực Đông Nam Á, mở ra sự sụp đổ không thể tránh khỏi của chủ nghĩa thực dân mới, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh vì mục tiêu độc lập dân tộc, dân chủ tự do và hoà bình phát triển của nhân dân thế giới.

Đánh giá thắng lợi lịch sử của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (tháng 12/1976) khẳng định: "Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc".

b. Nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm

b1.Nguyên nhân thắng lợi

Thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước là kết quả tổng hợp của nhiều nguyên nhân, trong đó quan trọng nhất là:

- Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, người đại biểu trung thành cho những lợi ích sống còn của cả dân tộc Việt Nam, một Đảng có đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, sáng tạo.

- Cuộc chiến đấu đầy gian khổ hy sinh của nhân dân và quân đội cả nước, đặc biệt là của cán bộ, chiến sĩ và hàng chục triệu đồng bào yêu nước ở miền Nam ngày đêm đối mặt với quân thù, xứng đáng với danh hiệu "Thành đồng Tổ quốc".

- Công cuộc xây dựng và bảo vệ hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa của đồng bào và chiến sĩ miền Bắc, một hậu phương vừa chiến đấu vừa xây dựng, hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ của hậu phương lớn, hết lòng hết sức chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

- Tình đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia và sự ủng hộ, sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, sự ủng hộ nhiệt tình của chính phủ và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ.

b2. Bài học kinh nghiệm

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã để lại cho Đảng ta nhiều bài học kinh nghiệm có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc.

Một là, đề ra và thực hiện đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội nhằm huy động sức mạnh toàn dân đánh Mỹ, cả nước đánh Mỹ. Đường lối đó thể hiện ý chí và nguyện vọng thiết tha của nhân dân miền Bắc, nhân dân miền Nam, của cả dân tộc Việt Nam, phù hợp với các trào lưu của cách mạng thế giới, nên đã động viên đến mức cao nhất lực lượng của toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh của tiền tuyến lớn với hậu phương lớn, kết hợp sức mạnh của nhân dân ta với sức mạnh của thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp để chiến đấu và chiến thắng giặc Mỹ xâm lược.

Hai là, tin tưởng vào sức mạnh của dân tộc, kiên định tư tưởng chiến lược tiến công, quyết đánh và quyết thắng đế quốc Mỹ xâm lược. Tư tưởng đó là một nhân tố hết sức quan trọng để hoạch định đúng đắn đường lối, chủ trương, biện pháp đánh Mỹ, nhân tố đưa cuộc chiến đấu của dân tộc ta đi tới thắng lợi.

Ba là, thực hiện chiến tranh nhân dân, tìm ra phương pháp đấu tranh đúng đắn, sáng tạo. Để chống lại kẻ địch xâm lược hùng mạnh, phải thực hiện chiến tranh nhân dân. Đồng thời phải chú trọng tổng kết thực tiễn để tìm ra phương pháp đấu tranh, phương pháp chiến đấu đúng đắn, linh hoạt, sáng tạo.

Bốn là, trên cơ sở đường lối, chủ trương chiến lược chung đúng đắn phải có công tác tổ chức thực hiện giỏi, năng động, sáng tạo của các cấp bộ đảng trong quân đội, của các ngành, các địa phương, thực hiện phương châm giành thắng lợi từng bước để đi đến thắng lợi hoàn toàn.

Năm là, phải hết sức coi trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng cách mạng ở cả hậu phương và tiền tuyến; phải thực hiện liên minh ba nước Đông Dương và tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ ngày càng to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa, của nhân dân và chính phủ các nước yêu chuộng hoà bình và công lý trên thế giới.

 

 

 

 

 

nguon VI OLET