Phục Hưng

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Xin xem các mục từ khác có tên tương tự ở Phục Hưng (định hướng).

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/d/d5/David_von_Michelangelo.jpg/220px-David_von_Michelangelo.jpg

http://bits.wikimedia.org/skins-1.18/common/images/magnify-clip.png

Tác phẩm David của Michelangelo, (Galleria dell'Accademia, Florence) là một ví dụ cho đỉnh cao nghệ thuật Phục Hưng

Phục Hưng (tiếng Ý: Rinascimento, từ ri- "lần nữa" và nascere "được sinh ra")[1] là một phong trào văn hóa trải dài thế kỷ 14 đến thế kỷ 17, khởi đầu tại Florence (Ý) vào hậu kỳ Trung Cổ và sau đó lan rộng ra phần còn lại của châu Âu. Thuật ngữ này cũng được dùng một cách không rõ ràng để chỉ thời kỳ lịch sử, mặc dù những thay đổi của Phục Hưng không đồng đều ở khắp châu Âu, đây là cách sử dụng thông dụng của thuật ngữ.

Thuật ngữ Rinascenza (tái sinh) được nhà sử học Giorgio Vasari dùng ban đầu vào năm 1550 để chỉ sự hồi sinh và phát triển rực rỡ các hoạt động nghệ thuật và khoa học bắt đầu tại Ý vào thế kỷ 13. Sau đó, thuật ngữ Renaissance được Jules Michelet dùng trong tiếng Pháp và nhà sử họcThụy Sĩ Jacob Burckhardt phát triển (khoảng những năm 1860). Tái sinh ở đây có hai nghĩa: một là sự khám phá lại các sách vở cổ điển và đem ứng dụng vào trong khoa học và nghệ thuật; hai là để chỉ kết quả của các hoạt động văn hóa đó mang lại sự hồi sinh cho văn hóa châu Âu nói chung. Như vậy Phục Hưng có thể hiểu theo hai cách chính tuy khác biệt nhưng đều có ý nghĩa là sự tái sinh của nền giáo dục cổ điển Tây phương thông qua sách vở, tài liệu kinh điển của phương Tây và hồi sinh của văn hóa châu Âu nói chung.

Từ Hán-Việt viết hoa Phục hưng, hay Phục Hưng, là thuật ngữ tương đương với khái niệm này.

Mục lục

  [ẩn] 

[sửa]Hồi sinh tinh thần của thời kỳ Cổ đại

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/2/22/Da_Vinci_Vitruve_Luc_Viatour.jpg/256px-Da_Vinci_Vitruve_Luc_Viatour.jpg

http://bits.wikimedia.org/skins-1.18/common/images/magnify-clip.png

Người Vitruvius theo Leonardo da Vinci, một ví dụ tiêu biểu về sự pha trộn giữa nghệ thuật và khoa học vào thời Phục Hưng.

Thời kỳ Phục Hưng được gọi như thế vì đặc tính cơ bản của thời kỳ này là sự hồi sinh của tinh thần thời kỳ Cổ đại. Chủ nghĩa Nhân văn chính là phong trào tinh thần cơ bản của thời kỳ này. Việc hồi sinh thể hiện ở chỗ nhiều yếu tố của tư tưởng thời kỳ Cổ đại được tái khám phá và sống lại (văn học, tượng đài kỷ niệm, tác phẩm điêu khắc, triết học,...).

Tiên đề cho tư tưởng mới của thời kỳ Phục Hưng là những ý tưởng tự tin của các nhà thơ người Ý của thế kỷ 14 như Francesco Petrarca, người thông qua các nghiên cứu rộng lớn về các nhà văn thời kỳ Cổ đại và với Chủ nghĩa Cá nhân của ông đã cổ động cho niềm tin về giá trị của sự đào tạo nhân văn và ủng hộ cho việc nghiêm cứu về ngôn ngữ, văn học, lịch sử  triết học bên ngoài quan hệ với tôn giáo.

Ảnh hưởng của những học giả nói tiếng Hy Lạp cũng rất đáng kể. Một số học giả đến Ýtrong thế kỷ 13 và thế kỷ 14 từ Đế quốc Đông La Mã. Đặc biệt là sau khi người Thổ Nhĩ Kỳchinh phục kinh đô Constantinopolis vào năm 1453 thì càng có nhiều học giả đến Venezia(tiếng Anh: Venice) và những thành phố Ý khác, những người đã mang theo kiến thức về nền văn hóa thời Cổ đại đã được lưu trữ gần 1.000 năm trong Đế quốc Đông La Mã sau khiĐế quốc Tây La Mã suy tàn. Cho đến năm 1400 các tác gia Homer, Herodotos, Platon Aristoteles vẫn còn được rất nhiều người nhắc đến trong Đế quốc Đông La Mã. Một vài năm trước khi Đế quốc Đông La Mã sụp đổ, Giovanni Aurispa đã đến kinh đô Constantinopolis và mang về Ý trên 200 bản viết tay các tác phẩm văn học ngoại đạo.

Trong một nghĩa rộng người ta hiểu Phục Hưng là sự hồi sinh của thời kỳ Cổ đại với các ảnh hưởng của thời kỳ này đến khoa học, văn học, xã hội, cuộc sống của những tầng lớp thượng lưu và sự phát triển của con người đi đến tự do cá nhân ngược lại với chế độ đẳng cấp của thời kỳ Trung cổ. Trong nghĩa hẹp hơn Phục Hưng là một thời kỳ của lịch sử nghệ thuật.

Tên gọi trong tiếng Ý, rinascita, theo nghĩa cho khái niệm của một thời kỳ, đã có từ Giorgio Vasari, người đã viết một trong những tác phẩm miêu tả các nhà nghệ thuật Phục Hưng quan trọng nhất. Vasari chia sự phát triển của nghệ thuật ra làm 3 thời kỳ:

  1.   Thời kỳ rực rỡ của Cổ đại Hy Lạp – La Mã
  2.   Thời kỳ suy tàn trung gian bắt đầu thời kỳ Trung Cổ
  3.   Thời kỳ hồi sinh các nghệ thuật và tinh thần Cổ đại trong thời kỳ Trung cổ từ khoảng năm 1250.

Vì thế mà các nhà điêu khắc, kiến trúc sư và họa sĩ người Ý, trong số đó có Arnolfo di Cambio, Nicolò Pisano, Cimabue hay Giotto di Bondone, ngay từ nửa sau của thế kỷ 13, "trong những thời kỳ đen tối nhất, đã chỉ ra cho những người tài giỏi đi sau con đường dẫn đến hoàn mỹ".

[sửa]Nghệ thuật

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/5/57/Lady_with_an_Ermine.jpg/220px-Lady_with_an_Ermine.jpg

http://bits.wikimedia.org/skins-1.18/common/images/magnify-clip.png

Leonardo da Vinci, Người đàn bà và con chồn- Bảo tàng Czartoryski, Kraków, Ba Lan

Filippo Brunelleschi, Lorenzo Ghiberti  Donatello là những người mở đường cho hướng đi mới trong nghệ thuật có tiền thân là Nicola Pisano, Giotto di Bondone và những nghệ sĩ khác. Nói chung, ở Ý thời gian khoảng từ 1420 đến 1600 được gọi là thời kỳ Phục Hưng, trong châu Âucòn lại là thời gian từ 1500 đến 1600.

Bên cạnh sự mô phỏng theo nghệ thuật Cổ đại là việc nghiên cứu thiên nhiên tích cực hơn, một khía cạnh quan trọng trong lịch sử phát triển của nghệ thuật Phục Hưng. Ngay trước Vasari, nhiều nhà thơ như Boccaccio đã khen ngợi họa sĩ Giotto có thể vẽ lại sự vật giống như trong tự nhiên mà không có ai trước ông đạt được. Xu hướng tạo hình sự vật và con người theo tự nhiên từ đấy là một trong những ý muốn chính của các nghệ sĩ. Thế nhưng phải đến thế kỷ 15 thì các nghệ sĩ mới đạt được đến một cách miêu tả theo tự nhiên gần như hoàn hảo. Vì thế mà các sử gia về nghệ thuật thường giới hạn khái niệm Phục Hưng cho các miêu tả nghệ thuật trong thế kỷ 15 và thế kỷ 16.

Gắn liền với yêu cầu tự nhiên trong nghệ thuật là sự tôn vinh thời kỳ Cổ đại của các nghệ sĩ. Người ta ngưỡng mộ các tác phẩm nghệ thuật thời Cổ đại như là các thí dụ điển hình trong việc miêu tả theo tự nhiên và vì thế là các thí dụ đáng được mô phỏng theo trong lúc tự diễn đạt tự nhiên. Ngoài ra nhà lý thuyết về kiến trúc người Ý, Leone Battista Alberti, còn đòi hỏi các nhà nghệ thuật "không những ngang bằng với các danh nhân thời kỳ Cổ đại mà còn phải cố gắng vượt lên trên họ". Tức là nghệ thuật không những phải diễn đạt lại một cách trung thực thực tế mà còn phải cố gắng cải thiện và làm hoàn hảo tấm gương của tự nhiên.

Bên cạnh xác định mới về quan hệ của nghệ thuật đối với tự nhiên và việc ngưỡng mộ thời kỳ Cổ đại, thời kỳ Phục Hưng cũng đặt câu hỏi về bản chất của cái đẹp. Các nghệ sĩ cố gắng diễn tả một con người đẹp toàn hảo. Kích thước và tỉ lệ lý tưởng đều đóng một vai trò trong việc diễn tả cơ thể con người trong hội họa  điêu khắc cũng như trong phác thảo kiến trúc. Với cách phối cảnh cổ điển các nghệ sĩ đã phát triển một phương pháp để diễn tả sự rút ngắn trong chiều sâu không gian với tính chính xác của toán học.

Thông thường người ta chia thời kỳ lịch sử nghệ thuật Phục Hưng, đặc biệt là Phục Hưng Ý, ra làm 3 giai đoạn

  1.   Sơ Phục Hưng (tiếng Anh: Early Renaissance)
  2.   Thịnh Phục Hưng (tiếng Anh: High Renaissance)
  3.   Hậu Phục Hưng hay Mannerism

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/e/ea/Raffael_051.jpg/220px-Raffael_051.jpg

http://bits.wikimedia.org/skins-1.18/common/images/magnify-clip.png

Raffaello - Sistine Madonna

Giai đoạn đầu của thời kỳ Phục Hưng (từ khoảng 1420 đến 1490/1500) khởi điểm từ thành phốFirenze (tiếng Anh: Florence) với những bức tượng của Donatello, tranh phù điêu đồng củaGhiberti, bích họa của Masaccio và các công trình xây dựng của Filippo Bruelleschi. Thời gian từ khoảng 1490/1500 cho đến 1520 là đỉnh cao của thời kỳ Phục Hưng. Trung tâm của thời kỳ vươn đến hoàn mỹ và hài hòa cao độ này là thành phố Roma của giáo hoàng. Đây là thời gian của phác thảo kiến trúc cho nhà thờ thánh Peter ở Roma của Bramante, các bức họa nổi tiếng nhất củaLeonardo da Vinci, của Raffaello, các bức tượng và bích họa của Michelangelo cũng như các tác phẩm khắc đồng của Albrecht Dürer. Sau đó là thời kỳ Hậu Phục Hưng hay Mannerism với đặc trưng là có nhiều xu hướng nghệ thuật khác nhau. Mannerism có khuynh hướng cường điệu hóa kho tàng hình dáng của Phục Hưng (thí dụ như diễn tả cơ thể con người được kéo dài ra và uốn cong trong một cử động mạnh). Giai đoạn cuối của thời kỳ Hậu Phục Hưng dần dần chuyển sang phong cách Baroque.

Thế nhưng thời kỳ Phục Hưng không diễn ra theo một khuôn mẫu hoàn toàn giống nhau trên khắp châu Âu. Trong khi tinh thần Phục Hưng bắt đầu rất sớm và đặc biệt nở rộ ở Ý, có ảnh hưởng đều khắp trong hội họa, điêu khắc và kiến trúc thì mãi đến khoảng năm 1500 hay sau đó thời kỳ Phục Hưng mới bắt đầu ở phía Bắc của châu Âu và cũng chỉ chiếm ưu thế một phần, đồng thời mang nhiều tính cách dân tộc. Trong các quốc gia khác ngoài Ý kiến trúc và điêu khắc chịu ảnh hưởng nhiều hơn là hội họa. Tại Pháp  Đức phong cách cổ đại được hòa trộn với nhiều yếu tố dân tộc, nổi bật trong thời kỳ đầu của Phục Hưng hơn là trong thời kỳ Hậu Phục Hưng, thời kỳ mà hình dáng được thể hiện đầy đặn và mạnh mẽ hơn, chuyển đến cường điệu hóa của phong cách Baroque. Phong cách Phục Hưng tạiHà Lan, Ba Lan, Anh  Tây Ban Nha cũng mang sắc thái dân tộc.

Mona Lisa

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Bài này viết về bức họa Mona Lisa. Đối với các định nghĩa khác, xem Mona Lisa (định hướng).

Mona Lisa, by Leonardo da Vinci, from C2RMF retouched.jpg

Mona Lisa


tiếng Italia: La Gioconda, tiếng Pháp: La Joconde

Leonardo da Vinci, khoảng 1503–1506

Sơn dầu trên gỗ dương, 77 × 53 cm, 30 × 21 in

Bảo tàng Louvre, Paris

Mona Lisa (cũng được gọi là La Gioconda hay La Joconde) là một bức chân dung thế kỷ 16 được vẽ bằng sơn dầu trên một tấm gỗ dương tại Florence bởi Leonardo da Vincitrong thời kì Phục Hưng Italia. Tác phẩm thuộc sở hữu của Chính phủ Pháp và hiện được trưng bày tại bảo tàng Louvre  Paris, Pháp với tên gọi Chân dung Lisa Gherardini, vợ của Francesco del Giocondo.[1] Có lẽ nó là bức tranh nổi tiếng và mang tính hình tượng nhất trên thế giới.

Bức tranh là một bức chân dung nửa người và thể hiện một phụ nữ có những nét thể hiện trên khuôn mặt thường được miêu tả là bí ẩn.[2][3] Sự mơ hồ trong nét thể hiện của người mẫu, sự lạ thường của thành phần nửa khuôn mặt, và sự huyền ảo của các kiểu mẫu hình thức và không khí hư ảo là những tính chất mới lạ góp phần vào sức mê hoặc của bức tranh.[1] Có lẽ nó là bức tranh nổi tiếng nhất từng bị đánh cắp và được thu hồi về bảo tàng Louvre. Ít tác phẩm nghệ thuật khác từng là chủ đề của nhiều sự chăm sóc kỹ lưỡng, nghiên cứu, thần thoại hoá và bắt chước tới như vậy.[4] Một sự nghiên cứu và vẽ thử bằng chì than và graphite về Mona Lisa được cho là của Leonardo có trong Bộ sưu tập Hyde, tại Glens Falls, NY.[5]

Mục lục

  [ẩn] 

[sửa]Bối cảnh

Bài chi tiết: Leonardo da Vinci

http://bits.wikimedia.org/skins-1.18/common/images/magnify-clip.png

Tự hoạ của Leonardo da Vinci, vẽ bằng phấn đỏ trong khoảng 1512 và 1515

Da Vinci bắt đầu vẽ Mona Lisa năm 1503, trong Thời Phục hưng Italia và, theo Vasari, "sau khi ông đã bỏ bẵng nó trong bốn năm, không hoàn thành…."[6] Ông được cho là đã tiếp tục bức vẽ trong ba năm sau khi đã rời sang Pháp và hoàn thành nó một thời gian ngắn trước khi mất năm 1519.[7] Da Vinci đã mang bức tranh từ Italia tới Pháp năm 1516 khi Vua François I mời nghệ sĩ tới làm việc tại Clos Lucé gần lâu đài của nhà vua tại Amboise. Có thể nhất là qua những người thừa kế của trợ lý của da Vinci là Salai,[8] nhà vua đã mua bức tranh với giá 4,000 écu và giữ nó tại Château Fontainebleau, nơi nó ở lại cho tới khi được trao cho Louis XIV. Louis XIV đưa bức tranh tới Cung điện Versailles. Sau cuộc Cách mạng Pháp, nó được đưa tới Louvre. Napoleon I chuyển nó tới phòng ngủ trong Cung điện Tuileries; sau đó nó quay trở lại Louvre. Trong thời kỳ Chiến tranh Pháp-Phổ (1870–1871) nó được chuyển từ Louvre tới một nơi cất giấu nào đó tại Pháp.[cần dẫn nguồn]

Mãi tới giữa thế kỷ 19 Mona Lisa mới bắt đầu nổi tiếng khi các nghệ sĩ của phong trào Biểu tượng bắt đầu ca ngợi nó, và gắn nó với những ý tưởng của họ về sự bí ẩn của phụ nữ. Nhà phê bình Walter Pater, trong tiểu luận năm 1867 của mình về da Vinci, đã thể hiện quan điểm này bằng cách miêu tả nhân vật trong bức tranh như một kiểu hiện thân bí ẩn của nữ tính vĩnh cửu, người "già hơn những hòn đá mà bà ngồi lên" và người "đã chết nhiều lần và biết được những bí ẩn của nấm mồ."
 

[sửa]Chủ đề và tên gọi

Bài chi tiết: Lisa del Giocondo

Mona Lisa là tên của Lisa del Giocondo,[9][10] một thành viên của gia đình Gherardini tại Florence  Tuscany và vợ của một thương nhân tơ lụa giàu có người Florence là Francesco del Giocondo.[8] Bức tranh được đặt hàng cho ngôi nhà mới của họ và để kỷ niệm ngày sinh của đứa con trai thứ hai, Andrea.[11]

Danh tính của người mẫu đã được xác định chắc chắn tại Đại học Heidelberg năm 2005 bởi một chuyên gia thư viện người đã khám phá ra một đoạn ghi chú năm 1503 ngoài lề một cuốn sách do Agostino Vespucci viết.[12] Các học giả theo nhiều cách suy nghĩ, xác định ít nhất bốn bức tranh khác nhau là Mona Lisa[13][14][15] và nhiều người là đối tượng của nó. Mẹ của Da Vinci, Caterina, trong một ký ức xa, Isabella của Naples hay Aragon,[16] Cecilia Gallerani,[17] Costanza d'Avalos—người cũng được gọi là "merry one" hay La Gioconda,[15] Isabella d'Este, Pacifica Brandano hay Brandino, Isabela Gualanda, Caterina Sforza, tất cả đều đã được chính da Vinci đặt tên cho người mẫu.[7][18]Danh tính nhân vật ngày nay được cho là Lisa, vốn luôn là một quan điểm truyền thống.[12]

http://bits.wikimedia.org/skins-1.18/common/images/magnify-clip.png

Một ghi chú ngoài lề trang sách của Agostino Vespucci từ tháng 10 năm 1503 trong một cuốn sách ở thư viện Đại học Heidelberg xác định Lisa del Giocondo là nguyên mẫu của Mona Lisa.

Tên bức tranh xuất phát từ một đoạn miêu tả của Giorgio Vasari trong cuốn tiểu sử da Vinci của ông xuất bản năm 1550, 31 năm sau khi nghệ sĩ qua đời. "Leonardo đã nhận vẽ, cho Francesco del Giocondo, bức chân dung Mona Lisa, vợ ông…Trong tiếng Italia, ma donna có nghĩa quý bà của tôi. Nó đã trở thành madonna, và cách viết gọn mona. Monavì thế là một cách đề cập lịch sự, tương tự như Ma’am, Madam, hay my lady trong tiếng Anh. Trong tiếng Italia hiện đại, hình thức ngắn của madonna thường được đánh vần là Monna, vì thế cái tên thỉnh thoảng được đọc là Monna Lisa, hiếm trong tiếng Anh và phổ thông hơn trong các ngôn ngữ Romance như tiếng Pháp và tiếng Italia. Khi ông mất năm 1525, trợ lý của da Vinci là Salai sở hữu bức tranh và gọi tên nó trong các giấy tờ riêng của mình là la Gioconda, nghệ sĩ đã di chúc để lại bức tranh này cho Salai. Theo nghĩa tiếng Italia là vui vẻ, hạnh phúc hay vui tươi, Gioconda là một tên hiệu của người mẫu, một sự chơi chữ theo hình thức giống cái của tên người chồng bà là Giocondo và tính tình của bà.[8][20] Trong tiếng Pháp, cái tên La Joconde cũng có nghĩa kép như vậy.

Bí ẩn nụ cười Mona Lisa Bức tranh nàng Mona Lisa của Leonardo da Vinci đã tạo cảm hứng cho rất nhiều nhà phân tích, từ nghệ thuật tới khoa học, từ phân tích quang học tới phân tích tâm lý học, hình thành hình ảnh "nụ cười Mona Lisa" trong văn học, đại diện cho một cái gì đó rất bí ẩn. Khuôn mặt nàng Mona Lisa trong tranh khiến người ta không thể đoán định rằng nàng có đang cười hay không. Nhìn riêng đôi mắt, bạn sẽ thấy ánh lên rất nhiều ý vui, ý lạc quan, yêu đời. Nhưng nhìn thấp xuống khoé miệng, đôi môi, ta lại thấy nàng nghiêm nghị đến kỳ lạ. Trong cái miệng đó, ta lại thấy rõ sự hồi hộp, lo lắng trong cái nhếch mép cười. Bộ mặt Mona vừa cười, vừa nghiêm nghị đã trở thành đề tài bàn cãi trong rất nhiều các cuộc khẩu chiến  bút chiến.

Nhà sinh học thần kinh Margaret Livingstone cho rằng đó là do bản thân cảm xúc thị giác người xem: "Mỗi khi nhìn, bạn nhìn những chấm riêng rẽ, nhưng thị giác ngoại biên thì tập hợp chúng lại với nhau và trộn lẫn màu sắc, vì thế bạn chuyển động mắt chung quanh và tạo nên những thay đổi trong khi nhìn".

Christopher Tyler và Leonid Kontsevich của Viện nghiên cứu mắt Smith-Kettlewell ở San Francisco (Hoa Kỳ) đã điều chỉnh một bức ảnh kỹ thuật số được chụp lại từ bức tranh này, bằng cách bổ sung vào đó các nhiễu loạn thị giác – giống như những vết nhiễu trên một kênh tivi kém. Sau đó, họ yêu cầu 12 người quan sát đánh giá cảm xúc của nhân vật trên tranh, phân theo 4 bậc, từ buồn rầu tới hạnh phúc. Kết luận: hệ thống thị giác của chúng ta bị nhiễu bởi nhiều nguồn, như: số lượng photon ít nhiều đập vào các tế bào cảm nhận ánh sáng trong mắt, hoạt động sai lệch ngẫu nhiên của các sắc tố hấp thụ photon, và sự loé sáng ngẫu nhiên của các nơron có nhiệm vụ mang tín hiệu thị giác tới não. Còn một điều nữa mà bây giờ ta vẫn chưa lý giải được đó là Lisa trong bức tranh không có lông mày và các mật mã trong mắt nàng

[sửa]Ăn trộm và làm hư hại

http://bits.wikimedia.org/skins-1.18/common/images/magnify-clip.png

Bức tường trống tại Salon Carré (Phòng Vuông), Louvre

Bức hoạ Mona Lisa hiện được treo tại Bảo tàng Louvre ở Paris, Pháp. Danh tiếng ngày càng tăng của bức hoạ còn lớn thêm khi nó bị ăn trộm ngày 21 tháng 8 năm 1911.[21] Ngày hôm sau, Louis Béroud, một hoạ sĩ, đi vào Louvre và vào Salon Carré nơi bức tranh Mona Lisa đã được trưng bày trong năm năm. Tuy nhiên, nơi bức tranh Mona Lisa đáng phải có mặt, ông chỉ thấy bốn chiếc móc thép. Béroud liên hệ với người chỉ huy đội canh gác, ông này cho rằng bức tranh đang được đưa đi chụp ảnh hay cho các mục đích marketing. Vài giờ sau, Béroud kiểm tra lại với người chịu trách nhiệm khu vực đó của bảo tàng và sự việc được xác nhận rằng bức Mona Lisa không ở chỗ những nhà nhiếp ảnh. Bảo tàng Louvre bị đóng cửa một tuần để trợ giúp việc điều tra vụ trộm.

Nhà thơ Pháp Guillaume Apollinaire, người từng một lần kêu gọi "đốt cháy" Louvre bị nghi ngờ; ông đã bị bắt và tống giam. Apollinaire đã tìm cách làm dính líu tới người bạn của mình là Pablo Picasso, người cũng bị đưa tới thẩm vấn, nhưng cả hai người sau này đều được chứng minh là không liên quan.[22]

Ở thời điểm đó, bức tranh được cho là đã mất vĩnh viễn, và phải mất hai năm trước khi kẻ trộm thực sự bị phát hiện. Nhân viên bảo tàng Louvre Vincenzo Peruggia đã lấy trộm nó bằng cách xâm nhập toà nhà trong những giờ mở cửa, trốn trong một phòng để đồ và lấy trộm bức tranh rồi giấu nó trong áo khoác đi ra ngoài khi bảo tàng đã đóng cửa.[20] Peruggia là một người Italia yêu nước và ông tin rằng bức tranh của da Vinci phải được đưa quay trở lại trưng bày trong một bảo tàng của Italia. Peruggia cũng có thể có động cơ bởi một người bạn, người bán những bức tranh chép của tác phẩm này, việc mất tranh gốc sẽ làm những bức tranh chép tăng giá vùn vụt. Sau khi đã giữ bức tranh trong căn hộ của mình trong hai năm, Peruggia trở nên mất kiên nhẫn và cuối cùng bị bắt khi tìm cách bán nó cho những vị giám đốc của Uffizi Gallery  Florence; bức tranh được trưng bày trên khắp Italia và được trao trả về Louvre năm 1913. Peruggia được ca ngợi về lòng yêu nước ở Italia và chỉ bị tù vài tháng về tội này.[22]

Trong Thế chiến II, bức tranh một lần nữa bị đưa khỏi Louvre và mang tới nơi an toàn, ban đầu là Château d'Amboise, sau đó là Loc-Dieu Abbey và cuối cùng tới Bảo tàng Ingres  Montauban. Năm 1956, phần dưới của bức tranh đã bị hư hại nghiêm trọng khi một kẻ phá hoại hắt axít vào nó.[23] Ngày 30 tháng 12 cùng năm ấy, một người Bolivia trẻ tuổi tên là Ugo Ungaza Villegas đã phá hoại bức tranh bằng cách ném một hòn đá vào nó. Việc này khiến bức tranh mất một mẩu màu gần khuỷu tay trái, chỗ này sau đó đã được vẽ lại.[24]

Kính chống đạn đã được dùng để bảo vệ bức hoạ Mona Lisa sau những cuộc tấn công sau đó. Tháng 4 năm 1974, một phụ nữ tàn tật, bực tức vì chính sách của bảo tàng với người tàn tật, đã phun sơn đỏ vào bức tranh khi nó đang được trưng bày tại Bảo tàng Quốc gia Tokyo.[25] Ngày 2 tháng 8 năm 2009, một phụ nữ Nga, quẫn trí vì bị từ chối trao quyền công dân Pháp, đã ném một chiếc cốc hay chén trà bằng đất nung, mua tại bảo tàng vào bức tranh ở Louvre, làm vỡ mặt kính.[26][27] Ở cả hai trường hợp trên, bức tranh đều không bị hư hại.

[sửa]Bảo tồn

Bức tranh Mona Lisa đã tồn tại trong hơn 500 năm, và một hội đồng quốc tế nhóm họp năm 1952 đã lưu ý rằng "bức tranh đang ở một tình trạng bảo tồn tốt."[28] Điều này một phần nhờ kết quả của nhiều biện pháp bảo tồn đã được áp dụng với bức tranh. Một cuộc phân tích chi tiết năm 1933 bởi Madame de Gironde cho thấy những nhà bảo tồn ở giai đoạn đầu đã "hành động với sự cẩn trọng lớn."[28] Tuy thế, việc sử dụng véc ni được làm cho bức tranh đã làm nó tối đi thậm chí ngay từ cuối thế kỷ 16, và một cuộc vệ sinh và tái phủ véc ni quá tay năm 1809 đã làm mất một số thành phần trên cùng của lớp sơn, khiến một số phần sơn trên mặt nhân vật bị tẩy mất. Dù có những cuộc xử lý như vậy, Mona Lisa đã được bảo tồn tốt trong suốt lịch sử, và mặc dù sự cong vênh của tấm panel khiến những người quản lý có "một số lo lắng",[29] đội bảo tồn năm 2004-05 vẫn lạc quan về tương lai của tác phẩm.[28]

[sửa]Tấm gỗ dương

Ở một số thời điểm trong lịch sử của mình, bức hoạ Mona Lisa đã bị tháo khỏi khung nguyên thuỷ. Tấm gỗ dương tự nhiên được để cho cong tự nhiên theo thay đổi về độ ẩm, và vì thế, một vết nứt đã bắt đầu phát triển ở gần đỉnh tấm. Vết nứt đã mở rộng xuống đường tóc của nhân vật. Ở giữa thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, một số người đã tìm cách làm ổn định vết nứt bằng cách lắp hai thanh gỗ óc chó hình bướm vào phía sau tấm ở độ sâu khoảng 1/3 tấm. Công việc này đã được thực hiện một cách có tay nghề, và đã thành công trong việc ổn định vết nứt. Trong một khoảng thời gian từ năm 1888 tới năm 1905, hay có lẽ ở một thời điểm nào đó khi bức tranh bị lấy cắp, thanh gỗ phía trên đã rơi ra. Một nhà bảo tồn sau đó đã dán và bồi đoạn rỗng và vết nứt bằng vải. Khung gỗ sồi co giãn (được thêm vào năm 1951) và các thanh chéo (1970) giúp tấm gỗ không bị cong thêm nữa. Một thanh hình cánh bướm giúp tấm gỗ không nứt thêm nữa.

Bức tranh hiện được giữ ở những điều kiện không khí được kiểm soát chặt chẽ trong hộp kính chống đạn. Độ ẩm được duy trì ở mức 50% ±10%, và nhiệt độ được duy trì trong khoảng 18 tới 21 °C. Để bù trừ cho những sự thay đổi do độ ẩm, hộp được bổ sung thêm một đệm bằng silica gel được xử lý để cung cấp 55% độ ẩm tương đối.[28]

[sửa]Khung

Bởi tấm gỗ dương của bức tranh Mona Lisa nở ra và co lại theo thay đổi độ ẩm, bức tranh đã bị cong một chút. Để bù cho sự cong vênh mà bức tranh phải trải qua trong thời gian lưu trữ trong Thế chiến II, và để chuẩn bị cho việc trưng bày bức tranh để kỷ niệm ngày sinh lần thứ 500 của Da Vinci, bức hoạ Mona Lisa năm 1951 được lắp một khung gỗ sồi co giãn với các tấm chéo gỗ sồi. Khung co giãn này, được dùng thêm cho khung trang trí được miêu tả phía dưới, tạo áp lực trên tấm gỗ để giữ nó không cong vênh thêm nữa. Năm 1970, các thanh chéo gỗ sồi được đổi thành gỗ thích sau khi mọi người phát hiện ra rằng gỗ sồi dễ bị côn trùng làm hư hại. Năm 2004-2005, một đội nghiên cứu và bảo tồn đã thay thế các thanh gỗ thích bằng gỗ ngô đồng, và một thanh chéo kim loại nữa được thêm vào để đo độ cong của tấm gỗ dương một cách khoa học. Bức hoạ Mona Lisa đã từng có nhiều khung trang trí trong lịch sử tồn tại của mình, tuỳ theo những thay đổi trong phong cách thẩm mĩ trong nhiều thế kỷ. Năm 1906, nữ bá tước Béarn đã lắp cho bức tranh chiếc khung hiện thời, một chiếc khung thời Phục hưng thích hợp với giai đoạn lịch sử của bức hoạ. Các cạnh của bức tranh ít nhất đã bị cắt bớt một lần trong lịch sử tồn tại của nó để được lắp vừa vào trong những chiếc khung, nhưng không phần nào của lớp sơn nguyên bản bị cắt đi.[28]

[sửa]Vệ sinh và sửa

http://bits.wikimedia.org/skins-1.18/common/images/magnify-clip.png

Khách tới thăm bảo tàng ngắm bức Mona Lisa qua lớp kính an ninh (trước khi bị bỏ đi năm 2005)

Cuộc vệ sinh, phun véc ni lại và sửa chữa lớn đầu tiên được ghi lại với bức hoạ Mona Lisa diễn ra năm 1809, công việc được Jean-Marie Hooghstoel tiến hành, ông chịu trách nhiệm việc khôi phục các bức tranh cho các phòng tranh của Bảo tàng Napoléon. Công việc gồm làm vệ sinh bằng cồn, sửa lại màu, và phun lại véc ni cho bức tranh. Năm 1906, nhà bảo tồn của Louvre là Eugène Denizard đã thực hiện việc sửa lại màu nước trên những khu vực lớp sơn bị hư hại bởi vết nứt của tấm gỗ dương. Denizard cũng sửa lại các cạnh của bức tranh bằng véc ni, để che đi những phần từng trước kia từng bị che khuất bởi một chiếc khung cũ. Năm 1913, khi bức tranh tái xuất hiện sau khi bị ăn trộm, Denizard một lần nữa được triệu tới để sửa chữa bức Mona Lisa. Denizard được chỉ đạo làm vệ sinh bức tranh nhưng không được dùng dung môi, và thực hiện việc sửa chữa nhỏ với nhiều vết xây xát trên màu nước. Năm 1952, lớp véc ni trên hậu cảnh bức tranh bị phẳng ra. Sau vụ tấn công thứ hai năm 1956, nhà bảo tồn Jean-Gabriel Goulinat được triệu tập để sửa chữa những hư hại ở khuỷu tay trái của Mona Lisa bằng màu nước.[28]

Năm 1977, một sự hư hại do côn trùng mới được phát hiện phía sau tấm gỗ vì việc lắp đặt những thanh chéo để giữ bức tranh không biịcong. Hư hại này đã được xử lý bằng carbon tetrachloride, và sau này bằng cách xử lý ethylene oxide. Năm 1985, chấm này một lần nữa được xử lý bằng carbon tetrachloride như một biện pháp phòng ngừa.[28]

[sửa]Trưng bày

Ngày 6 tháng 4 năm 2005—sau một giai đoạn bảo dưỡng, ghi chép và phân tích—bức tranh được chuyển tới một vị trí mới trong Salle des États (Phòng các Quốc gia) tại Bảo tàng. Nó được trưng bày trong một không gian kín, có điều hoà nhiệt độ, được xây dựng đặc biệt sau một lớp kính chống đạn.[30] Khoảng 6 triệu người tới ngắm bức tranh tại bảo tàng Louvre hàng năm.[7]

[sửa]Danh tiếng

http://bits.wikimedia.org/skins-1.18/common/images/magnify-clip.png

Đám đông trước bức hoạ Mona Lisa tại bảo tàng Louvre

Nhà sử học Donald Sassoon đã sắp xếp sự tăng trưởng danh tiếng của bức tranh. Hồi giữa những năm 1800, Théophile Gautier và các nhà thơ lãng mạn đã có thể viết về Mona Lisa như mộtfemme fatale (người đàn bà gây tai hoạ) bởi Lisa là một người bình thường. Mona Lisa "…là một cuốn sách mở mà trong đó mỗi người có thể đọc thấy điều mình muốn; có thể bởi bà không phải là một hình ảnh tôn giáo; và, có thể, bởi những người có cái nhìn có tính chất văn học chủ yếu là nam giới những người coi bà là hiện thân của nguồn vui bất tận của đàn ông." Trong thế kỷ 20, bức tranh đã bị đánh cắp, một vật thể để sao chép hàng loạt, buôn bán, đả kích và suy đoán, và đã được sao chép lại trong "300 bức tranh và 2,000 quảng cáo".[31] Đối tượng bị miêu tả là điếc, đang để tang,[32] móm, một "gái điếm hạng sang", người tình của nhiều người, một sự phản ánh chứng loạn thần kinh của các nghệ sĩ, và một nạn nhân của bệnh giang mai, nhiễm trùng, liệt, mất cảm giác, cholesterol hay đau răng.[31] Giới học giả cũng như những suy đoán không chuyên đã gắn cái tên Lisa với ít nhất bốn bức hoạ khác nhau[13][15][32] và danh tính của người mẫu cho ít nhất mười người khác nhau.[16][17][18][33]

Khách tham quan nói chung mất khoảng 15 giây để ngắm Mona Lisa.[34] Cho tới thế kỷ 20, Mona Lisa là một trong nhiều tác phẩm và chắc chắn không phải là "bức tranh nổi tiếng nhất"[35] thế giới như hiện tại. Trong số những tác phẩm tại Louvre, năm 1852 giá trị thị trường của nó là 90,000 franc so với các tác phẩm của Raphael có giá lên tới 600,000 franc. Năm 1878, cuốn hướng dẫn Baedeker gọi nó là "tác phẩm được chào đón nhiều nhất của Leonardo tại Louvre". Từ năm 1851 tới năm 1880, các nghệ sĩ tới thăm Louvre đã sao chép Mona Lisa chỉ khoảng bằng một nửa số lần so với các tác phẩm của Bartolomé Esteban Murillo, Antonio da Correggio, Paolo Veronese, Titian, Jean-Baptiste Greuze  Pierre Paul Prud'hon.[31]

Từ tháng 12 năm 1962 tới tháng 3 năm 1963, chính phủ pháp đã cho Hoa Kỳ mượn bức tranh để trưng bày tại Thành phố New York Washington D.C.. Năm 1974, bức tranh được triển lãm tại Tokyo  Moscow.

Trước chuyến đi tháng 3 năm 1962, bức tranh đã được ước định giá, để bảo hiểm, ở mức $100 triệu; cuối cùng bảo hiểm không được mua, thay vào đó mọi người chi thêm tiền cho an ninh.[36] Là một bức tranh đắt giá, chỉ gần đây nó mới bị vượt giá trị, theo giá dollar hiện thời, bởi ba bức tranh khác: bức Portrait of Adele Bloch-Bauer I của Gustav Klimt, được bán với giá $135 triệu, bức Woman III của Willem de Kooning được bán với giá $138 triệu tháng 11 năm 2006, và bức No. 5, 1948 của Jackson Pollock được bán với giá kỷ lục $140 triệu tháng 11 năm 2006. Dù những con số này cao hơn con số định giá năm 1962 của Mona Lisa, việc so sánh chưa tính tới thay đổi về giá bởi lạm phát - $100 triệu năm 1962 tương đương xấp xỉ $700 triệu năm 2009 khi tính bù lạm phát theo Chỉ số Giá Tiêu dùng Mỹ.[37]

[sửa]Suy đoán về bức tranh

Bài chi tiết: Suy đoán về Mona Lisa

Mặc dù người mẫu theo truyền thống đã được xác định là Lisa del Giocondo, nhưng sự thiếu hụt một bằng chứng xác thực từ lâu đã khởi nguồn cho nhiều giả thuyết khác, gồm cả khả năng rằng da Vinci đã sử dụng chính chân dung của mình. Các khía cạnh khác của bức tranh từng là chủ đề suy đoán là kích cỡ gốc của nó, nó có phải bản gốc không, tại sao nó được vẽ, và nhiều lời giải thích bằng cách nào có thể tạo ra một nụ cười bí ẩn như vậy.

[sửa]Di sản

http://bits.wikimedia.org/skins-1.18/common/images/magnify-clip.png

L.H.O.O.Q. của Marcel Duchamp (1919)

Giới nghệ thuật tiên phong đã lưu ý tới sự nổi tiếng không thể bác bỏ của Mona Lisa. Vì vị thế quá nổi bật của bức tranh, những thành viên trường phái Dada  siêu thực thường tạo ra những hình thức chuyển đổi và biếm hoạ. Ngay từ năm 1883, một bức Mona Lisa hút tẩu thuốc đã được trưng bày tại"Incoherents" show ở Paris. Năm 1919, Marcel Duchamp, một trong những thành viên có ảnh hưởng nhất của trường phái Dada, đã tạo ra L.H.O.O.Q., một bức tranh nhại Mona Lisa được làm bằng cách vẽ thêm lên một bức tranh chép rẻ tiền một bộ ria mép và một chòm râu dê, cũng như thêm vào đoạn ghi chú thô lỗ, khi đọc tho trong tiếng Pháp có âm kiểu "Elle a chaud au cul" (dịch nghĩa - "bà ta bị nóng đít". Đây là một cách ám chỉ người phụ nữ trong tranh đang ở tình trạng kích động tình dục và sẵn sàng quan hệ). Đây tạo ra như một trò đùa có chủ định kiểu Freud,[38] ám chỉ tới lời đồn đại về sự đồng tính của da Vinci. Theo Rhonda R. Shearer, bức tranh nhái thực thế là một bản copy dựa một phần trên chính khuôn mặt của Duchamp.[39]

Salvador Dalí, nổi tiếng về tác phẩm siêu thực của mình, đã vẽ Self portrait as Mona Lisa năm 1954.[40]Năm 1963 sau khi bức tranh được đưa tới triển lãm tại Hoa Kỳ, Andy Warhol đã tạo ra những bản in lụacủa nhiều Mona Lisa gọi là Thirty are Better than One (Ba mươi tốt hơn một), giống các tác phẩm của ông với Marilyn Monroe (Twenty-five Colored Marilyns, 1962), Elvis Presley (1964) và Campbell's soup (1961–1962).[41]

Tranh

Medusa · **Sự khổ hình của Chúa Jesus · Truyền tin · *Ginevra de' Benci · *The Madonna of the Carnation · *Benois Madonna · St. Jerome in the Wilderness · Sự tôn sùng của Magi · Đức mẹ đồng trinh trên tảng đá (phiên bản Louvre) · *Lady with an Ermine · *Chân dung một nhạc  · *Madonna Litta · *La belle ferronnière · Bữa tối cuối cùng · *Madonna of the Yarnwinder · Mona Lisa · The Virgin of the Rocks (phiên bản London) · Trận Anghiari · Leda và chim thiên nga · The Virgin and Child with St. Anne · St. John the Baptist · *Bacchus

Leonardo self.jpgĐiêu khắc

Ngựa của Leonardo (chưa được thực hiện)

Works on paper

Vitruvian Man · The Virgin and Child with St Anne and St John the Baptist

Ghi chép 

Codex Atlanticus · Codex Leicester · Codex Trivulzianus · Codex on the Flight of Birds · Một chuyên luận về hội hoạ

Sáng tạo

Leonardo's robot · Viola organista

Những thể hiện văn hoá về Leonardo da Vinci · Khoa họccác phát minh của Leonardo da Vinci · Đời sống nhân của Leonardo da Vinci

nguon VI OLET