Tiết 40 sử 7:
LÊ THÁNH TÔNG
Hoàng đế Lê Thánh Tông (20 tháng 7 năm Nhâm Tuất 1442 – 30 tháng 1 năm Đinh Tỵ 1497), húy Lê Tư Thành, còn có húy khác là Lê Hạo , là vua thứ năm của Lê sơ trong Lịch sử Việt Nam, và là con thứ 4 của vua Lê Thái Tông và bà tiệp dư Ngô Thị Ngọc Dao. Ông còn là em của vua Lê Nhân Tông và Lê Nghi Dân. Trong lúc trị vì, ông đã đưa ra nhiều cải cách trong hệ thống quân sự, hành chính, kinh tế, giáo dục và luật pháp. Ông cũng đã mở mang bờ cõi nước Đại Việt bằng cách đánh chiếm kinh đô của vương quốc Chiêm Thành, sát nhập một phần lãnh thổ Chiêm Thành vào Đại Việt; đồng thời có cuộc hành quân về phía Tây đất nước. Ông trị vì từ năm 1460 đến 1497 và được nhiều nhà sử học đánh giá là một trong những vị vua anh minh trong lịch sử Việt Nam. Ông cũng được coi là nhà văn hóa và là người coi trọng người hiền tài. Thụy hiệu do vua Lê Hiến Tông đặt là Sùng Thiên Quảng Vận Cao Minh Quang Chính Chí Đức Đại Công Thánh Văn Thần Vũ Đạt Hiếu Thuần Hoàng Đế.
Lên ngôi
Khi bà tiệp dư Ngô Thị Ngọc Dao có thai Lê Tư Thành, bà đã bị bà phi Nguyễn Thị Anh mưu hại. Nguyễn Trãi và người thứ thiếp là Nguyễn Thị Lộ đã cứu giúp Ngọc Dao và đưa đi lánh nạn. Lê Tư Thành được sinh ra ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất 1442, ở chùa Huy Văn (ngày nay thuộc quận Đống Đa, Hà Nội).
Lê Tư Thành vốn không phải là người sẽ kế vị, theo chính danh. Từ nhỏ, ông được giáo dục ở Quốc Tử Giám, giống như người anh cùng cha khác mẹ là Lê Nhân Tông (Lê Bang Cơ - con bà Nguyễn Thị Anh) đang làm vua Đại Việt.
Năm 1459, người anh cả cùng cha khác mẹ của Nhân Tông là Lê Nghi Dân tiến hành đảo chính và sát hại Lê Nhân Tông. Nghi Dân lên ngôi. Tư Thành không bị hoàng huynh sát hại trong vụ này mà được cải phong làm Cung vương.
Chín tháng sau, một cuộc đảo chính thứ hai do Nguyễn Xí và Đinh Liệt cầm đầu đã giết chết Lê Nghi Dân. Nguyễn Xí và Định Liệt là hai tướng thân cận của Lê Thái Tổ vẫn còn sống sót sau các biến cố chính trị kể từ khi Lê Thái Tổ qua đời. Ban đầu, các đại thần định mời anh thứ 2 của Tư Thành là Lê Khắc Xương (em Nghi Dân, anh Bang Cơ) lên ngôi nhưng Khắc Xương từ chối không muốn nhận ngôi báu. Họ đề nghị Lê Tư Thành ra làm vua và ông đã chấp thuận.
Ngày 8 tháng 6, năm Canh Thìn 1460, Lê Tư Thành lên ngôi, lấy niên hiệu là Quang Thuận. Năm đó, tân vương chỉ mới 18 tuổi. Ông chỉ định Nguyễn Xí và Đinh Liệt vào các chức quan cao nhất của triều đình, nắm giữ binh quyền.
Cải cách
Quân sự
Hoàng đế Lê Thánh Tông ra sắc chỉ đầu tiên là chỉnh đốn lại quân đội, đôn đốc và thực hiện các bước để tăng cường các khả năng chiến đấu của các vệ quân năm đạo. Ông thường thân chinh đi tuần phòng ở các vùng biên ải xa xôi cùng với binh lính và là tấm gương tốt cho các quan phụ trách võ bị. Dấu tích trong một lần tuần tra tại khu vực cửa biển và vùng biển Hạ Long là một bài thơ đề trên vách núi đá mà sau này dân Đại Việt gọi tên là núi Bài Thơ ở thành phố Hạ Long ngày nay.
Việc canh phòng và khuyến khích các quan lại ở biên cương thường cảnh giác với các âm mưu xâm nhập và xử lý kịp thời các sự việc lãnh thổ với bên ngoài ở thời ông là rất chặt chẽ và cẩn thận nên triều đình nhà Minh rất tôn trọng và có phần e ngại. Trong sử Việt còn nhắc đến việc Lê Thánh Tông ra sắc chỉ phải cảnh giác với lực lượng nội gián là các gia nô người Ngô (số người nhà Minh tự nguyện xin được ở lại sau khi bị bắt làm tù binh trong cuộc chiến trước đây của Lê Lợi).
Theo các sử gia, thì vũ khí quân sự dưới thời Lê Thánh Tông đã có những tiến bộ vượt bậc, do tiếp thu các kỹ thuật chế tạo súng hỏa công cá nhân từ phương Tây và với số vũ khí thu được trước đây trong cuộc kháng chiến với nhà Minh, kết hợp kỹ thuật vũ khí của Đại Việt thời nhà Hồ đã tạo thành một bộ vũ khí đa dạng và hùng mạnh
Lê Thánh Tông rất chú ý đến việc tích trữ lương thảo ở các vùng biên cương để sử dụng cho quân lương khi cần thiết. Một nghệ thuật làm lương khô thời Lê Thánh Tông được sử sách ghi lại là một kỹ thuật đặc biệt của Đại Việt, đó là đồ (hấp) thóc chín và sấy khô. Loại lương khô này có thể cất giữ vài năm không
nguon VI OLET