ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN

MÔN HỌC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Họ và tên học viên: DIỆP HUỲNH NGỌC HƯƠNG

Lớp: H605

 

NỘI DUNG

GHI CHÚ

CÂU 1. Đồng chí hãy phân tích một yếu tố tạo ra nguồn lực phát triển thành phố Hồ Chí Minh và liên hệ thực tiễn địa phương, cơ quan đơn vị công tác?

A.   CHỦ ĐỀ: Nguồn lực phát triển của Thành phố Hồ Chí Minh

B.    TRỌNG TÂM VÀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:

    Yếu tố tạo ra nguồn lực phát triển Thành phố Hồ Chí Minh.

-      Hơn 300 năm xây dựng và trưởng thành, thành phố HCM đã từng bước thay da đổi thịt, mang tầm vóc của một thành phố có nền kinh tế phát triển nhất cả nước, là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa lớn. để có được vị thế như ngày hôm nay, thành phố HCM hội tụ 6 yếu tố quan trọng đối với sự phát triển của thành phố trong đó yếu tố nổi bật tạo ra nguồn lực phát triển Sài Gòn – TP HCM chính là: Con người – Nguồn nhân lực. Đây chính là yếu tố thuận lợi, tiềm năng, là thế mạnh tác động đến sự phát triển của Thành phố HCM.

a. Đăc điểm: Tp.HCM là đô thị có nguồn nhân lực tập trung, dồi dào, phong phú, đa dạng và chất lượng cao. Lực lượng lao động của Thành phố bao gồm cả lao động phổ thông và lao động có trình độ chuyên môn tay nghề cao, lao động chất xám chiếm tỉ lệ rất lớn trong cả nước. Đây là sức mạnh phát triển , là nguồn vốn quý báu của Thành phố Hồ Chí Minh.

-      Con người - nguồn nhân lực Thành phố Hồ Chí Minh có sức cạnh tranh rất lớn so với các đô thị, tỉnh - thành trong cả nước. Do đó, con người - nguồn nhân lực Thành phố có tính siêng năng, cần cù, thông minh, năng động sáng tạo. Trong quá trình làm việc không ngừng học tập để vươn lên.

-      Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm đào tạo, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao, lao động chuyên môn tay nghề giỏi… bởi một hệ thống giáo dục – đào tạo với mạng lưới đại học, cao đẳng, dạy nghề quy mô về số lượng, hiện đại về chất lượng và trang bị cơ sở vật chất hiện đại.

-      Sài Gòn – TP Hồ Chí Minh có dân số, dân cư trên hàng chục triệu dân; Trong đó, có khoảng trên 10 triệu dân thuộc TP HCM và khoảng trên 3 triệu dân đang nhập cư. Tỷ lệ dân số Sài Gòn – TP HCM chiếm 10% dân số cả nước.

-      Dân số Sài Gòn – TP HCM thuộc dân số vàng do độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ 70% (Từ 16 - 17 tuổi đến dưới 60 tuổi); GDP thành phố phát triển là nhờ vào độ tuổi này. Tốc độ tăng dân số nhanh.

-      Chất lượng dân số lao động Sài Gòn – TP Hồ Chí Minh cao.

-      Có Năng suất, năng lực lao động cao, tạo ra sản phẩm cho cả nước. Phần lớn được đào tạo chuyên ngành từ các Trường Trung học, Cao đẳng, Đại học ....; Đội ngũ cán bộ - công nhân kỹ thuật có trình độ chuyên môn, tay nghề cao chiếm tỷ lệ 40% cả nước;

-      Kỹ năng, thao tác điều hành, điều khiển trong quá trình lao động

-      Có tác phong lao động, ý thức tổ chức kỹ luật.

b.Ví trí, vai trò: Nguồn nhân lực Sài Gòn – TP Hồ Chí Minh giữ vai trò, vị trí quyết định, thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững, liên tục, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực khác nhau cho Sài Gòn – TP Hồ Chí Minh, Nam bộ và cả nước; là tài sản vô giá, động lực phát triển của Thành phố ta.

-      Con người là nhân tố quan trọng nhất trong việc cải tạo môi trường, biến đất hoang thành đồng ruộng , thành đất ở, đất xây dựng

-      Với dân số đông tạo cho thành phố trở thành nơi tiêu thụ lớn, thúc đẩy sự phát triển kinh tế để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ

-      Con người – nguồn nhân lực thành phố  được xem là tài sản quý giá, tài sản vô giá mà thành phố ta có được. Từ đó cho thấy thành phố HCM phát triển được  là từ nguồn nhân lực mà thôi.

-      Chất lượng nguồn nhân lực không chỉ có vai trò quyết định đối với phát triển kinh tế, mà chất lượng nguồn nhân lực càng cao thì sẽ dẫn đến ý thức xã hội càng phát triển, mối quan hệ giữa người với người tốt hơn và thúc đẩy sự phát triển nhanh của xã hội. Chính vì vậy cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng đã chỉ rõ: Con người là nguồn lực quan trọng nhất, là nguồn lực của mọi nguồn lực, quyết định sự hưng thịnh của đất nước. Do đó việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực luôn là quốc sách của Việt Nam qua nhiều thời kỳ. Tại TP.HCM, Chương trình nâng cao nguồn nhân lực giai đoạn 2011-2015 được xác định là 1 trong 6 chương trình đột phá.

* Những giải pháp phát triển nguồn lực con người:

-      Các biện pháp cần làm để thúc đẩy và phát triển nguồn nhân lực của Tp.HCM

+ Đẩy mạnh đầu tư, phát triển giáo dục đào tạo:

-      Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho các hoạt động giáo dục: Nâng cấp trang thiết bị, dụng cụ thí nghiệm, trang bị đầy đủ các dụng cụ học tập cải thiện và xây dựng hệ thống trường lớp đạt chuẩn từ cấp mầm non đến bậc Đại học. Đây là một trong những nội dung quan trọng của tiến trình đổi mới giáo dục nâng cao chất lượng đào tạo.

-      Đội ngũ giáo viên: Chất lượng giáo viên phải đạt chuẩn, phải tương xứng với yêu cầu về chất lượng, kỹ năng sư phạm, phương pháp giảng dạy kịp đổi mới, thường xuyên học tập nâng cao trình độ chuyên môn từ cấp mầm non đến các cấp phổ thông, đại học và coi đó là trách nhiệm bản thân. Thầy cô giáo phải là người có lòng yêu nghề, tâm huyết với sự nghiệp giáo dục; có trình độ cao, có phẩm chất đạo đức tốt, nếp sống giản dị, khiêm tốn luôn biết tôn trọng lợi ích tập thể và quốc gia. Cơ cấu giáo viên cân đối giữa các môn học, bậc học, vùng , miền. Nâng dần chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ nhà giáo để đáp ứng yêu cầu và truyền đạt lý thuyết, có khả năng phát triển tư duy, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành của người học. Tránh tình trạng giáo viên dạy kiêm nhiệm không đúng chuyên môn đào tạo, không đảm bảo chất lượng giáo dục.

-      Tăng số lượng giáo viên có khả năng sử dụng thành thạo ngoại ngữ, tin học

-      Công tác đào tạo giáo viên phải thật sự gắn kết với nhu cầu sử dụng của từng địa phương, vùng, miền. Công tác quy hoạch, phát triển đội ngũ giáo viên cần được các cấp quản lý quan tâm đúng mức. Nhất là chế độ, chính sách dành cho đội ngũ giáo viên phải hợp lý để tạo động lực đủ mạnh phát huy tiềm năng của đội ngũ giáo viên, giảng viên.

-      Chương trình và nội dung mới phải sát thực tế, đáp ứng nhu cầu của XH, sát với thực tiễn sử dụng lao động của DN. Đây cũng là một trong những yếu tố đặc biệt quan trọng quyết định chất lượng giáo dục và đào tạo.

-      Đào tạo cả các cấp học từ thấp lên cao: Từ tiểu học, Phổ thông Cơ sở, Phổ thông Trung học, Trung cấp nghề, Cao đẳng, Đại học và sau Đại học; Đào tạo những ngành còn yếu và thiếu nhân lực.

+ Nghiên cứu, tiếp thu các biện pháp, các chương trình đào tạo tiên tiến của nước ngoài để ứng dụng vào giáo dục Việt Nam. Đào tạo quốc tế, cử nhân lực con người đi du học ở nước ngoài thuộc các ngành mũi nhọn. Kết hợp đào tạo trong nước với quốc tế

+ Đào tạo con người phải đào tạo một cách toàn diện, đáp ứng trên nhiều mặt nhất là hai mặt chính chuyên môn và đạo đức phải có phẩm chất, chính trị đạo đức tốt.

+ Xây dựng chế độ chính sách, cơ chế đãi ngộ cho nguồn nhân lực phù hợp, hợp lý, công bằng, bình đẳng, tiến bộ khoa học và cách mạng để phát huy nguồn nhân lực chất lượng cao: Đời sống, lương bổng, nơi ăn, chốn ở, an sinh xã hội…

+ Xây dựng chế độ tiền lương phù hợp với giá cả thị trường

+ Mức lương, thưởng phải xứng đáng với trình độ và công sức của người lao động

+ Bố trí công việc phù hợp với ngành nghề đào tạo

+ Phải có cơ chế thu hút người tài từ khắp nơi, thu hút Việt kiều về đầu tư

+ Xây nhà trọ, cư xá cho công nhân

+ Tạo môi trường, điều kiện làm việc ổn định, bền vững, phải có môi trường điều kiện làm việc tốt, an toàn , thân thiện và chuyên nghiệp là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên hiệu quả làm việc.

-      Nghiên cứu các giải pháp nâng cao hiệu quả chính sách bảo hiểm thất nghiệp.

C.   LIÊN HỆ BẢN THÂN – CƠ QUAN ĐƠN VỊ:

-      Bản thân tôi là một giáo viên dạy ở trường MNSC 4. Tôi luôn chấp hành các quy chế, nội quy của trường – ngành.

-      Tích cực tham gia các đợt sinh hoạt chính trị tư tưởng do Quận và Thành phố phát động.

-      Tiếp tục thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”

-      Phối hợp với cha mẹ học sinh cùng quan tâm đến việc chăm sóc giáo dục trẻ cũng như về kỹ năng sống cho trẻ…

-      Có ý thức tổ chức kỷ luật, thể hiện long yêu nghề, tinh thần đoàn kết, quan hệ ứng xử mực thước với trẻ, phụ huynh, đồng nghiệp, không vi phạm pháp luật, đạo đức nhà giáo.

-      Không ngừng tự học nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ, chính trị, nghệ thuật sư phạm…đáp ứng yêu cầu chuẩn nghề nghiệp của nhà giáo để nêu gương cho học sinh.

-      Đổi mới phương pháp giảng dạy, ứng dụng CNTT vào bài giảng, linh hoạt xử lý tốt các tình huống sư phạm, nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục đào tạo.

* Một số giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho đơn vị

-      Tiếp tục nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, lý luận chính trị cho Cán bộ công chức, tham gia đầy đủ các lớp tập huấn nghiệp vụ. Chú trọng đổi mới tư duy nghiên cứu giảng dạy, bồi dưỡng kỹ năng sử dụng, ứng dụng các công cụ hỗ trợ hiện đại trong giảng dạy.

-      Tạo điều kiện thuận lợi cho CBCC theo học các lớp sau đại học, cử các nguồn nhân lực đã có thâm niên công tác lâu năm đi học các lớp nghiệp vụ để tạo nguồn, bổ sung thêm cho đội ngũ của đơn vị

-      Tạo điều kiện cho CBCC tham gia các khóa học thêm về anh văn, vi tính

 

-      Tiếp tục đổi mới công tác thi đua khen thưởng theo hướng thiết thực, hiệu quả, tránh hình thức. Có những chế độ đãi ngộ, khen thưởng cho những CBCC hoàn thành tốt nhiệm vụ.

-      Triển khai có hiệu quả bồi dưỡng thường xuyên giáo viên mầm non, phổ thong và giáo dục thường xuyên nhằm nâng cao năng lực nghề nghiệp của đội ngũ theo yêu cầu chuẩn nghề nghiệp giáo viên các cấp.

-      Thường xuyên đào tạo, quán triệt đến các nguồn nhân lực quản lý về phẩm chất, đạo đức lối sống tốt, trong sáng của cán bộ quản lý nói riêng và của toàn thể CBCC trong đơn vị nói chung.

-      Luôn quan tâm đến điều kiện làm việc, đời sống của cán bộ công chức, không ngừng cải thiện trang thiết bị làm việc, giữ gìn vệ sinh môi trường, công sở văn minh sạch đẹp.

 

 

CÂU 2. Quá trình mở đất, lập chính quyền của người Việt Nam trên đất Sài Gòn diễn ra như thế nào? Đồng chí có suy nghĩ, nhận định như thế nào về vấn đề này?

A.   CHỦ ĐỀ: Lịch sử Sài Gòn TP.HCM.

B.    TRỌNG TÂM VÀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:

1.   Quá trình mở đất, lập chính quyền của người Việt Nam trên đất Sài Gòn

    Sài Gòn Cuối thế kỷ 16 - Người Việt đến khai hoang, lập ấp

-      Từ thế kỉ XVI, do sự can thiệp của Xiêm, triều đình Chân Lạp bị chia rẽ sâu sắc và dần bước vào thời kì suy vong, hầu như không có điều kiện quan tâm đến vùng đất còn ngập nước ở phía đông. Cảnh quan ở đây chỉ là ‘những đám rừng hoang vu đầy cỏ rậm, …” và trên thực tế đã không đủ sức quản lý vùng đất này. Trong bối cảnh đó nhiều cư dân Việt đầu tiên được xem là cư dân bản địa của vùng đất Đồng Nai – Bến Nghé có thể là những tộc người: Mạ, Stiêng, M’nông, Chro,…từ đất Thuận Quảng đã vào vùng Mô Xoài, Đồng Nai – Bén Nghé (miền Đông Nam Bộ) khai khẩn đất hoang, lập nghiệp và lập làng sinh sống xen kẽ với cư dân bản địa.

-      Những người Việt này bao gồm tầng lớp bình dân là những nông dân không có ruộng đất, bị bóc lột, tiểu thương, thủ công nghiệp, phu kéo xe, những tù nhân, quân lính khốn khó bỏ quê hương đi tìm vùng đất mới. Và quan lại là những ông quan thất sủng, không còn đất dụng võ từ vùng đất Đàng Trong và một bộ phận dân cư từ Đàng Ngoài vượt biển ra đi và đặt chân lên đất Đồng Nai - Bến Nghé tiến hành những bước đầu tiên trong công cuộc khai hoang, lập làng ở vùng Mô Xoài (Bà Rịa – Vũng Tàu ngày nay).

-      Cho đến nửa cuối thế kỷ XVII, hoạt động chuyển cư tới vùng đất này đã trở thành một “làn sóng mạnh mẽ”. Từ một vùng đất rộng bao la dưới sự cai quản lỏng lẻo của chính quyền Chân Lạp, với bàn tay của những lưu dân người Việt, vùng đồng bằng phương Nam được “tái khai phá, tái định cư” trở nên trù phú, đầy sức sống. Động cơ, mục đích của người Việt đi dân vào Sài Gòn là vì kinh tế, họ tìm vùng đất mới để làm ăn, sinh sống, tạo dựng cơ nghiệp mới. Họ lập phường, lập chợ: sống trên sông, họp chợ trên sông, chợ Bến tàu - ngày nay là chợ Bến Thành, chợ xóm chiếu (Quận 4) chuyên bán chiếu,…. Từ đó dân cư đông đúc, phố chợ phát triển, giao thương hàng hóa.

    Sài Gòn trong qua trình chuẩn bị lập phủ Gia định (Đầu thế kỷ 17)

-      Vai trò của lưu dân người Việt: Những người lưu dân Việt tiên phong đi trước khai phá, mở mang, làm biến đổi kinh tế - xã hội, tạo ra những tiền đề quan trọng cho các chúa Nguyễn sau này đến lập chính quyền, mở mang bờ cõi đất nước.

+ Kinh tế: phát triển các ngành nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương mại 

+ Xã hội: hình thành thôn ấp, làng xã, phố phường.

Đây là 2 yếu tố chính quyết định quá trình lập chính quyền, đơn vị hành chính

- Vai trò của phong kiến họ Nguyễn: Đến sau, khôn khéo lập quan hệ ngoại giao với Triều đình Chân Lạp. Từ đầu thế kỷ XVII trở đi, các chúa Nguyễn từng bước chuẩn bị những cơ sở, điều kiển để chuẩn bị lập phủ Gia Định, xác lập đặt chủ quyền trên vùng đất Đồng Nai - Bến Nghé.

+ Năm 1620, vua Chân Lạp là Chey Chetta II (Campuchia) xin cưới con gái chúa Nguyễn Phúc Nguyên là công chúa Ngọc Vạn. Vua Chey Chetta II phong Ngọc Vạn làm hoàng hậu Somdach. Đối với Chân Lạp, việc kết thân với chúa Nguyễn là để dựa vào lực lượng quân sự của người Việt lúc này đang rất mạnh nhằm làm giảm sức ép từ phía Xiêm La. Với chúa Nguyễn, quan hệ hữu hảo này tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt, vốn đã có mặt từ trước, được tự do khai khẩn đất hoang và làm ăn sinh sống lập hãng xưởng và buôn bán trên đất Thuỷ Chân Lạp và tăng cường ảnh hưởng của họ Nguyễn với triều đình Oudong  thúc đẩy nhanh lập chính quyền.

+ Năm 1623, được sự đồng ý của vua Chân Lạp, chúa Nguyễn lập Trạm thuế thương chính ở Pray Kor (Sài Gòn ngày nay (gần Cầu Kho)) được lập ngay trên Gò Tân Khai nhìn xuống sông Bến Nghé, đây chính là con đường giao thông thủy huyết mạch, chính thức yêu cầu triều đình Chân Lạp để cho dân Việt mở rộng địa bàn khai phá trên những vùng đất thưa dân và quản lý. Vào thời điểm đó cư dân việt đã có mặt ở hầu khắp miền Đông Nam Bộ và Sài Gòn.

+ Đến năm 1679, chúa Nguyễn Phúc Tần đã lập đồn dinh Tân Mỹ ở ngã tư Cống Quỳnh - Nguyễn Trãi. Đây thực chất là một hình thức chính quyền bán chính thức để bảo vệ, tổ chức, quản lý lưu dân người Việt. Cuối năm 1679, chúa Nguyễn cho một nhóm người Hoa do Trần Thượng Xuyên dẫn đầu đến tỵ nạn, họ khai phá ở vùng đất Cù lao Phố, xây dựng thương cảng đầu tiên của vùng đất phương Nam. Nhóm người này mau chóng Việt hóa và họ có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển của Sài Gòn.

-      Như vậy, gần trọn thế kỷ 17, sau khi những người Việt đầu tiên đến khai hoang, lập ấp, với chính sách khai khẩn đất hoang tích cực của chúa Nguyễn làm cho Đồng Nai nhanh chóng trở thành vùng đất trù phú. Sài Gòn dần tự khẳng định mình về vị trí trung tâm, là một thị trấn, một đầu mối giao thông, một địa điểm chiến lược khá quan trọng với các cơ quan quân sự, hành chính, có kho Quản Thảo, đồn thu thuế, phố chợ buôn bán, …

    Thời kỳ lập chính quyền: Cuối thế kỷ 17

-      Có thể nói, “làng nước đi trước” dường như là đặc điểm chung cho công cuộc khẩn hoang vùng đất Nam bộ. Sự kiện năm 1698 đã chính thức xác lập bộ máy hành chính của các chúa Nguyễn để cai quản vùng Đồng Nai - Gia Định. Năm 1698 chính thức được lấy làm năm “khai sinh” của Đồng Nai, Sài Gòn với tư cách là cương vực, là đơn vị hành chính thuộc quốc gia Đại Việt.

-      Mùa xuân năm Mậu Dần (2/1698) theo lệnh Chúa Nguyễn Phúc Chu cử Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược. Ông thiết lập hệ thống quản lý hành chính, tổ chức việc khai thác đất đai và ổn định trật tự xã hội. Ông “Lấy đất Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lập xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn. Mỗi dinh đặt ra chức Lưu thủ, Cai b và Ký lục để giữ và chăm dân”.

-      Sài Gòn trở thành trung tâm hành chính, thương mại của cả vùng. Lỵ sở của Phủ Gia Định của huyện Tân Bình đều đóng tại Phiên Trấn – Sài Gòn. Trấn phủ dinh Phiên Trấn cũng là tri huyện Tân Bình, tri phủ Gia Định. Nguyễn Hữu Cảnh cũng tiến hành phân chia các đơn vị hành chính cấp cơ sở như tổng, thôn, phường, ấp, điểm, lân…

+ Ông tiến hành đăng bộ đinh, điền đưa việc quản lý hành chính vào nề nếp chính quy, chấm dứt thời kỳ tự phát, tự quản của lưu dân.

+ Tổ chức chiêu mộ người ở miền Trung vào mở mang, khai thác vùng đất mới…, cho phép mở mang thương mại, khuyến khích làm giàu, làm ăn lớn.

+ Về quân sự, Chúa Nguyễn cho đắp chiến luỹ kết hợp với các con sông để bố phòng nhằm bảo vệ Sài Gòn. Đối với người Hoa Minh Hương, Chúa Nguyễn cũng thực hiện một số chính sách đồng hoá tương đối hợp tình, hợp lý.

+ Sau khi lập Phủ Gia Định, Sài Gòn trở thành một trung tâm chính trị - hành chính, trung tâm kinh tế thương mại của cả vùng, một chiến luỹ quân sự, có nhiều phố chợ buôn bán, một bến cảng xuất nhập khẩu lớn, gắn bó mật thiết với sự phát triển của toàn vùng đất phương Nam.

2.   Suy nghĩ, nhận định về vấn đề mở đất, lập chính quyền của người Việt Nam trên đất Sài Gòn

-      Vùng đất Nam Bộ vốn là một địa bàn giao tiếp và đã từng có nhiều lớp cư dân đến khai phá. Vào khoảng đầu công nguyên, cư dân vùng đất này đã xây dựng nên nhà nước Phù Nam. Trong thời kỳ phát triển nhất vào khoảng thế kỷ V-VI, Phù Nam đã mở rộng ảnh hưởng và trở thành một đế chế rộng lớn với nhiều thuộc quốc phân bố ở phía nam bán đảo Đông Dương và bán đảo Malaca. Vào thế kỷ VII đế chế Phù Nam tan rã, nước Chân Lạp của người Khmer, vốn là một trong những thuộc quốc của Phù Nam ở vùng Tongle Sap đã tấn công đánh chiếm vùng hạ lưu sông Mêkông (tương đương với vùng đất Nam Bộ ngày nay).

-      Tuy nhiên, trong suốt thời gian gần 10 thế kỷ vùng đất Nam Bộ không được cai quản chặt chẽ và gần như bị bỏ hoang. Từ cuối thế kỷ XVI và đặc biệt là đầu thế kỷ XVII, dưới sự bảo hộ của các chúa Nguyễn người Việt đã từng bước khai phá vùng đất này. Người Việt đã nhanh chóng hoà đồng với các cộng đồng cư dân tại chỗ và những cư dân mới đến (người Hoa) cùng nhau mở mang, phát triển Nam Bộ thành một vùng đất trù phú. Cũng từ đây người Việt là cư dân chủ thể và thực sự quản vùng đất này. Từ đó đến nay chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam đã được khẳng định không chỉ bằng thực tế lịch sử mà còn trên các văn bản có giá trị pháp lý được cộng đồng quốc tế thừa nhận.

-      Trong suốt ba thế kỷ với biết bao thăng trầm của lịch sử, nhiều thế hệ người Việt Nam (với ý nghĩa cộng đồng đa dân tộc) đã đổ biết bao công sức để xây dựng và bảo vệ vùng đất Nam Bộ không đơn thuần chỉ là vấn đề lãnh thổ mà cao hơn thế, còn là vùng đất của những giá trị thiêng liêng.

C.   LIÊN HỆ BẢN THÂN – CƠ QUAN ĐƠN VỊ:

-      Vùng đất Sài gòn trước đây là vùng đất hoang sơ, nhiều tranh chấp, trải qua quá trình khai hoang, đấu tranh giành chính quyền và qua tìm hiểu, phân tích quá trình mở đất và lập chính quyền của người Việt Nam trên đất Sài Gòn, chúng ta  thấy TP.HCM là một trung tâm lớn về mọi mặt của cả miền Nam nói riêng và của cả nước Việt Nam nói chung, chúng ta càng cảm thấy tự hào về ý thức, ý trí tinh thần vượt qua bao khó khăn, thử thách, sáng tạo của cha ông đã đổ bao xương máu để gầy dựng và bảo vệ mảnh đất này. Sự quyết tâm khai phá của ông cha ta thời xưa đi xa để lập nghiệp dù phải vượt qua bao nhiêu khó khăn, gian khổ để khai phá những vùng đất rừng thiêng nước độc, quá trình di cư của người Việt vào Sài Gòn đã tạo ra đặc trưng riêng biệt của người Việt Nam. Chính những điều kiện tự nhiên ở đây đã làm cho người Sài Gòn có khả năng tiếp thu những cái hay về văn hóa - kinh tế của các dân tộc.

-      Chúng ta cũng thấy được sự quan tâm của các lưu dân người Việt đến từ nhiều vùng miền trên cả nước, của biết bao nhiêu người miền Nam  đến với vùng đất “lành” Sài Gòn – Tp.HCM, đã đóng góp những thành quả lao động để xây dụng nền một thành phố HCM đứng đầu về kinh tế, là trung tâm chính trị lớn của quốc gia.

-      Là người con của vùng đất Sài Gòn – TP HCM, đối với bản thân là một nhà giáo tôi thấy rõ trách nhiệm của mình trong việc bảo tồn và phát huy những gì mà ông cha ta để lại, để góp phần xây dựng và phát triển thành phố Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung tôi luôn cố gắng hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, luôn trung thực, gương mẫu và hoàn thiện bản thân hằng ngày, việc định hướng nhân cách cho trẻ là việc làm hết sức quan trọng và càn thiết. Hiểu vấn đề đó nên tôi luôn trau dồi thêm kiến thức cho bản thân, đề ra phương pháp học tập, tiếp thu những kiến thức về mọi mặt, hiểu biết, chắt lọc tinh hoa những thông tin cần và đúng để nâng cao năng lực chuyên môn ra sức phấn đấu nhiều hơn, vươn lên trong thời kỳ đất nước đổi mới, thời kỳ Công nghiệp hoá – Hiện đại hoá đất nước.

+ Thực hiện việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

+ Tích cực tham gia các họat động do cơ quan, công đoàn phát động, luôn quan tâm và giúp đỡ hỗ trợ lẫn nhau trong công việc và cuộc sống cùng các bạn đồng nghiệp trong trường.

+ Chỉ có học tập, trau dồi kiến thức, nâng cao năng lực chuyên môn, lý luận chính trị vững vàng mới có một tinh thần vượt trội trong thực tế, cùng đồng nghiệp tích cực trao đổi học tập nhằm mục tiêu góp phần nhỏ bé của mình vào cơ quan nói riêng và cả thành phố nói chung phát triển vượt bật, có khả năng đóng góp cho Thành phố ngày càng xứng đáng hơn với vị trí vai trò trung tâm, đầu tàu, là động lực thúc đẩy nhanh đất nước sớm trở thành một nước công nghiệp hiện đại, sánh vai cùng với các cường quốc trên thế giới..

 

 

CÂU 3. Đồng chí hãy phân tích, đánh giá một đặc điểm nổi bật của Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh? Liên hệ thực tiễn với Đảng bộ địa phương, cơ quan, đơn vị công tác?

A.   CHỦ ĐỀ: Lịch sử Đảng Bộ Thành phố Hồ Chí Minh.

B.    TRỌNG TÂM VÀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:

    Đặc điểm lịch sử Đảng bộ Tp.HCM

Trong lịch sử Đảng Bộ TPHCM từ năm 1930 đến nay (84 năm) đã trải qua 03 thời kỳ với 12 điểm nổi bật trong vai trò lãnh đạo cách mạng của mình:

a/ Thời kỳ 1: 15 năm Đảng bộ thành phố lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền cách mạng ( 1930-1945) có 04 điểm nổi bật:

-      Điểm nổi bật 1: Đảng bộ thành phố được thành lập vào tháng 03/1930

-      Điểm nổi bật 2: Đảng bộ thành phố là cơ sở, chỗ dựa cho Trung ương Đảng

-      Điểm nổi bật 3: Đảng bộ thành phố và nhân dân thành phố giữ vai trò hạt nhân chính trị, trung tâm của cả nước

-      Điểm nổi bật 4: Đảng bộ thành phố góp phần thắng lợi của Cách mạng tháng Tám ở Sài Gòn Nam bộ

b/ Thời kỳ 2: Thời kỳ tham gia sự nghiệp chiến tranh cách mạng chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ ( 1945- 1975) có 04 điểm nổi bật:

-      Điểm nổi bật 1: Đảng bộ thành phố lãnh đạo nhân dân đi trước, mở đầu cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ hai

- Điểm nổi bật 2: Hoàn thành vai trò là “ chiến trường phối hợp” với chiến trường chính ở Việt Bắc để đánh tan thực dân Pháp

- Điểm nổi bật 3: Đảng bộ thành phố lãnh đạo nhân dân hoàn thành vai trò “ chiến trường chiến lược”, địa bàn trọng điểm quyết định thành bại trên cả chiến trường miền Nam

- Điểm nổi bật 4: Về sau cùng với đại thắng mùa xuân 30/4/1975 với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử

c/ Thời kỳ 3: 40 năm xây dựng đổi mới, phát triển ( từ 1975 đến nay) có 04 điểm nổi bật:

- Điểm nổi bật 1: Thành phố luôn giữ vững ổn định chính trị, trật tự xã hội

- Điểm nổi bật 2: Thành phố là trung tâm kinh tế hàng đầu đất nước, đầu tư kinh tế quốc gia

- Điểm nổi bật 3: Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân

- Điểm nổi bật 4: Xây dựng củng cố hệ thống chính trị vững mạnh, hoàn thiện

 * Qua 12 điểm nổi bật trên của Đảng Bộ thành phố tôi phân tích điểm nổi bật: Đảng bộ thành phố là cơ sở, chỗ dựa cho Trung ương Đảng

 - Sài Gòn là một trung tâm lớn, là đô thị lớn phát triển, là nơi tập trung đông dân cư, là thủ phủ của Liên bang Đông Dương, là “ hòn ngọc Viễn Đông”

 - Sài Gòn có điều kiện hoạt động Cách mạng hiệu quả mà những nơi khác không có được vì Sài Gòn có những điều kiện hết sức thuận lợi đó là:

    + Có Đảng bộ thành phố: đảng bộ thành phố là một đảng bộ lớn, số đảng viên đông, tổ chức cơ sở đảng phát triển mạnh, có tinh thần. Hoạt động ở một đảng bộ lớn như thế này thì Trung ương Đảng có được sự che chở. Đảng bộ thành phố luôn trung thành tuyệt đối về mặt chính trị với Đảng cho nên cán bộ đảng viên của Đảng bộ Thành phố có tinh thần, ý chí đấu tranh cách mạng kiên cường, bất khuất, anh dũng, một lòng một dạ sắt son với Trung ương Đảng, sẵn sàng hy sinh tất cả để bảo vệ đảng. Đây là một phẩm chất chính trị cao quý của Đảng bộ thành phố.

   + Có dân: nhân dân thành phố Sài Gòn có lòng yêu nước được thể hiện từ buổi đầu mở đất lập chính quyền khi quân Xiêm La đến ngăn cản, xâm phạm chủ quyền nhân dân Sài Gòn đã đứng lên giành chính quyền. Trong thời Pháp đến đô hộ nhân dân Sài Gòn đã có nhiều cuộc khởi nghĩa diễn ra để chống Pháp góp phần thắng lợi cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Người dân Sài Gòn có lòng yêu Đảng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng (Sài Gòn là nơi có các chi bộ Đảng ra đời sớm nhất có 03 tổ chức Đảng ra đời đầu tiên tại Sài Gòn trong đó có khoảng 20 Chi bộ và 150 đảng viên, ngày nay Đảng bộ thành phố có khoảng 3.000 chi bộ và 180.000 đảng viên).  Lòng dân luôn hướng về Đảng, Sài Gòn tập trung đông đảo dân cư chủ yếu dân Sài gòn là dân lưu dân (dân tứ xứ) từ khắp cả nước nên Trung ương đảng lấy được lòng dân của thành phố là có được lòng dân của cả nước

- Sài gòn là một thành phố trung tâm: có điều kiện kinh tế, điều kiện giao thông thuận lợi: có đường bộ, đường sắt, đường thủy, hàng hải… là đầu mối cửa ngõ giao thương quốc tế.

- Vị trí và vai trò của thành phố rất thuận lợi cho thông tin liên lạc: Trung ương đảng dễ dàng nắm được những thông tin của tình hình thế giới, nắm bắt được nhanh chóng âm mưu, kế hoạch của thực dân Pháp để triển khai chỉ đạo Cách mạng kịp thời.

   Trong nhiều năm, Trung ương Đảng đã chọn thành phố Sài Gòn làm địa bàn hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng của cả nước. Trung ương Đảng đã tổ chức 05 hội nghị Trung ương ở Sài Gòn. Trong đó quan trọng nhất là hội nghị Trung ương lần thứ 6 (diễn ra từ ngày 6-8/11/1939) đảng ta quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng sang thời kỳ tổng khởi nghĩa giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, cho nên Sài Gòn là trung tâm, là “lò lửa” đấu tranh Cách mạng của Đảng. Có 05 đồng chí tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng đầu tiên đã sống và làm việc tại thành phố là:  Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ và Trường Chinh.

   Sài Gòn là nơi trưởng thành và rèn luyện của nhiều nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước.

C.   LIÊN HỆ BẢN THÂN – CƠ QUAN ĐƠN VỊ:

Trải qua 80 mùa xuân, Đảng Cộng sản Việt Nam - một tổ chức lãnh đạo duy nhất đã giương cao ngọn cờ và lý tưởng độc lập tự do, ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Tám mươi mùa xuân ấy, đi qua mọi thác ghềnh, gian khổ, con đường của Đảng đã lựa chọn là con đường vinh quang với biết bao kỳ tích, thành tựu: chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu và Đảng đã lãnh đạo toàn dân, đưa đất nước vươn tới kỷ nguyên xây dựng, phát triển, sánh vai với bè bạn năm châu.

Nói đến sức sống của Đảng Cộng sản Việt Nam trong 80 năm qua, phải nói đến những đóng góp không nhỏ của Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh vào sự nghiệp chung của đất nước. Với vai trò lãnh đạo một thành phố đông dân, lớn nhất nước, Đảng bộ thành phố HCM đã luôn gìn giữ, phát huy truyền thống, kinh nghiệm quý báu của Đảng bộ thành phố trong kháng chiến, để rồi các thế hệ lãnh đạo thành phố cứ tiếp nối kinh nghiệm, bản lĩnh và sự sáng tạo, thể hiện được vai trò tiên phong bằng đường lối lãnh đạo đúng đắn, kịp thời, hợp lòng dân. Có thể nói, hơn hai mươi năm đổi mới đất nước, chưa bao giờ người dân thành phố cũng như những người có dịp đến thăm thành phố mang tên Bác, chứng kiến một sự đổi thay, phát triển nhanh vượt bậc về mọi mặt như trong những năm gần đây. Tại nhiều cuộc gặp gỡ với các bạn bè quốc tế, chúng tôi thường nghe họ bày tỏ sự thán phục về tốc độ phát triển nhanh chóng của thành phố Hồ Chí Minh.

Thành phố anh hùng mang tên Bác có được những đánh giá ấy, là bởi Đảng bộ thành phố luôn đưa ra những Nghị quyết đầy sáng tạo, mang tính đột phá. Không riêng một khu vực nào, tất cả 24 quận, huyện của thành phố hôm nay đều có những bước tiến dài. Cơ sở hạ tầng đô thị không ngừng được cải thiện, xây dựng mới theo hướng hiện đại hơn. Sự hình thành nhiều khu Công nghiệp, cụm Công nghiệp đã tạo nên hình ảnh phát triển và năng động cho thành phố Hồ Chí Minh. Đặc biệt, sự xuất hiện của Khu công nghệ cao đã đưa nền công nghiệp thành phố phát triển theo hướng chuyên sâu và hiện đại. Bên cạnh đó, những khu đô thị mới như: khu đô thị Thủ Thiêm, khu đô thị Nam Sài Gòn đã cho thấy sức vươn mình đổi thay của thành phố mang tên Bác. Không bao lâu nữa, những cụm đô thị vệ tinh cũng sẽ được hình thành ở quận 2, quận 9, Hóc Môn, Củ Chi - những vùng đất mà cách đây chỉ hơn một thập kỷ, còn là những vùng đất thuần nông.

Chỉ một vài năm trở lại đây, thành phố vui mừng khánh thành nhiều cây cầu tạo sự liên thông mạnh mẽ giữa các quận nội thành với khu vực vùng ven, như: Cầu Thủ Thiêm, cầu Phú Mỹ, cầu Calmet, cầu Nguyễn Văn Cừ... Mới đây, Đại lộ Đông Tây đưa vào sử dụng vào cuối năm 2009 đã giúp người dân đi lại thuận tiện hơn. Và sắp tới, hệ thống tàu điện ngầm Metro cũng là bước đột phá mới về giải quyết vấn đề giao thông cho thành phố.

Từ năm 2007, khi nước ta gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, trong bối cảnh đó, Đảng bộ thành phố luôn đồng hành cùng các doanh nghiệp bằng những cơ chế, chính sách mới, kích thích các doanh nghiệp phát triển. Có thể thấy rằng: thành phố ứng phó tốt với khủng hoảng kinh tế toàn cầu, là từ đường lối lãnh đạo của Đảng, từ sự kiên định và bản lĩnh, từ những Nghị quyết của Đảng bộ thành phố có tính đột phá. Tốc độ tăng trưởng GDP trong năm 2009 đạt trên 8% là một con số đáng tự hào trong bối cảnh nhiều nền kinh tế lớn trên thế giới phải chịu mức tăng trưởng âm.

Không chỉ riêng những cán bộ Đảng viên, mà ngay cả những người dân bình thường cũng vô cùng phấn khởi bởi những thành quả mà Đảng bộ TP đã đem lại. Song song với phát triển kinh tế, Tp HCM luôn đưa ra những quyết sách về an sinh xã hội và đã trở thành điển hình cho các địa phương của cả nước, như các phong trào: xây dựng nhà tình nghĩa, nhà tình thương, xóa đói giảm nghèo. Những năm gần đây, trung bình mỗi năm thành phố giải quyết việc làm cho trên 200.000 người. Chuẩn nghèo của thành phố đã được nâng từ 6 triệu lên 12 triệu/ người/năm, và cơ bản, thành phố đã xóa được các hộ nghèo theo tiêu chí cũ. Có thể nói, mọi tầng lớp nhân dân thành phố đều được thụ hưởng những thành quả từ NQ Đảng bộ TP đề ra.

Phát triển về mọi mặt, một nỗ lực đáng ghi nhận của thành phố trên lĩnh vực môi trường là cải thiện các dòng kênh đen nội đô, đặc biệt là kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè. Uốn mình dọc theo các quận: Bình Thạnh, Phú Nhuận, quận 3, quận Tân Bình, kênh Nhiêu Lộc từng là một dòng kênh đen đặc quánh, với các khu dân cư nghèo lụp xụp hai bên, nhưng chỉ hơn 2 thập kỷ sau, con kênh này đang xanh hơn, trong hơn và hiện dần lên một vẻ đẹp rất riêng của TP.HCM.

Trong quá trình xây dựng phát triển thành phố Hồ Chí Minh, Đảng bộ thành phố luôn duy trì và giữ vững những thành quả của Cách mạng. Các thế hệ lãnh đạo thành phố hôm nay luôn trung thành với lý tưởng Đảng. Qua mỗi nhiệm kỳ, mỗi bài học kinh nghiệm, thành phố lại đón nhận thêm nhiều thành quả mới. Phó Bí Thư Thường trực Thành Ủy Nguyễn Văn Đua cho biết: trong 2 năm 2008 - 2009, dù bị ảnh hưởng suy thoái kinh tế, nhưng bằng những quyết sách, sự chỉ đạo sát với thực tiễn và nỗ lực của toàn Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân thành phố, đã giúp thành phố vượt qua khó khăn, giữ vững tốc độ phát triển kinh tế, ổn định đời sống nhân dân. Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Nguyễn Văn Đua nhấn mạnh:

Tám mươi năm, một chặng đường vẻ vang với những thành quả to lớn mà Đảng đã đem lại mùa xuân và hạnh phúc cho nhân dân, trên hết thảy, đó là niềm tự hào, lòng biết ơn của các thế hệ hôm nay và mai sau đối với Đảng cộng sản Việt Nam. Với Đảng bộ TP.HCM, những thành quả Kinh tế xã hội đã đạt được, cũng như tiềm năng, nguồn lực đang khơi thông, đó là những dấu son làm rạng ngời thành phố anh hùng. Phấn đấu "đi trước và về đích trước". Chúng tôi tự hào về thành phố của mình sẽ có một ngày mai phát triển bền vững và giàu đẹp.

Trong xu thế hội nhập và phát triển đất nước, Chi Bộ của trường không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, vai trò quản lý của Chính quyền, phát huy sức mạnh đại đoàn kết của HĐSP nhà trường, luôn quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ CT, không ngừng nâng cao chất lượng GDĐT tại đơn vị, tiếp tục khẳng định là 1 trong những trường tiên tiến xuất sắc hàng đầu của TP, nỗ lực góp phần nâng cao sự nghiệp GD tại địa phương.

-       Xây dựng Đảng: Chi Bộ chú trọng công tác nắm bắt diễn biến tư tưởng, giáo dục nâng cao nhận thức CT cho cán bộ, ĐV, công chức, tiếp tục phát huy thế mạnh và khắc phục hạn chế của cấp Ủy, CBĐV tại đơn vị, chú trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ, kết nạp Đảng cho đoàn viên ưu tú.

-       Xây dựng chính quyền vững về mọi mặt, nâng cao năng lực quản lý tại đơn vị, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, giữ gìn đoàn kết nội bộ, thực hiện tự phê bình và phê bình, mỗi thành viên phải chịu trách nhiệm về công việc được giao.

-       Công tác vận động quần chúng, nhân dân: phát huy sức mạnh đoàn kết và xây dựng lực lượng nòng cốt làm tốt công tác tuyên truyền.

-       Đối với công tác giảng dạy của giáo viên: Chi bộ đẩy mạnh công tác giáo dục tư tưởng CT, GV phải đủ phẩm chất CT và năng lực chuyên môn. Chú trọng công tác nâng cao ý thức tự học, tự rèn luyện, nâng cao trình độ CT và trình độ CM từ đó GV mới có thể phát huy tính sang tạo kết hợp phương pháp giảng dạy theo hướng mới của mình

 

 

CÂU 4. Đồng chí hãy phân tích một tính cách văn hóa nổi trội của con người Sài Gòn – thành phố Hồ Chí Minh mà mình tâm đắc? Cho biết suy nghĩ của đồng chí về thực trạng đời sống văn hóa của người dân thành phố Hồ Chí Minh hiện nay?

A.   CHỦ ĐỀ: Văn hóa con người Sài Gòn TP.HCM.

B.    TRỌNG TÂM VÀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:

1. Văn hóa, phẩm chất con người Sài Gòn - Tp.HCM được thể hiện qua 06 tính cách:

Con người Sài Gòn Tp. HCM có một số tính cách văn hóa nổi trội  như:

        Yêu nước nồng nàn, kiên cường chống ngoại xâm là tính cách văn hóa, tính cách con người, là truyền thống tốt đẹp của người dân Sài gòn -Thành phố Hồ Chí Minh.

  Tính linh hoạt, năng động, sáng tạo.

  Tính trọng nghĩa, khinh tài.

  Tính phóng khoáng, hiếu khách.

  Tính cách dung hợp, hài hòa.

  Tính thực tế.

* Trong 06 tính cách văn hóa phẩm chất con người Sài Gòn - Tp.HCM thì tính cách Yêu nước nồng nàn, kiên cường chống ngoại xâm là tính cách văn hóa nổi bật nhất của con người Sài Gòn - Tp.HCM

Tính yêu nước, kiên cường chống ngoại xâm của người Sài Gòn-TPHCM không phải là một lời động viên chính trị mà là một tính cách VH. Đó là tính cách đặc trưng nhất, là linh hồn của VH, con người SG-TPHCM. Đó là điều ổn định vững chắc, in sâu trong ý thức, trong tình cảm, trong lối sống của con người SG-TP.HCM. Nó được chứng minh trong suốt chiều dài lch sử ra đời và phát triển của TP. Cũng dễ hiểu khi ta xem xét tính cách VH SG là VH VN, văn hóa “đồng bào”. Nếu như một nghìn năm Bắc thuộc rồi “ta vẫn là ta”, thì vào vùng đất mới những người con của Vua Hùng đã bao dung, hoà hợp người Minh Hương, “đồng hoá người Minh Hương”, văn hoá Pháp hay văn hoá Mỹ không thể lung lay được con cháu Vua Hùng. Sài Gòn là nơi mấy trăm năm đương đầu với các thế lực ngoại xâm nên ý thức dân tộc, tinh thần yêu nước trở thành cái vốn có, trở thành chỗ đứng của họ để xử sự mọi chuyện trên đời: Ủng hộ Tây Sơn chống quân Xiêm ở Rạch Gầm Xoài Mút mặc dù chưa hiểu nhiều về Tây Sơn; có thái độ rõ ràng trước sai lầm của Phan Thanh Giản; khi triều đình bỏ dân thì họ ủng hộ Trương Định Nguyên Soái Bình Tây; khi Pháp tái chiếm Sài Gòn thì “ Nam Bộ kháng chiến”; nước nhà tạm thời bị chia cắt thì từ phong trào dân chủ đến tiến hành chiến tranh đến cùng để thống nhất nước nhà… Chế độ trực trị 85 năm dành cho Nam Kỳ không ngăn nổi cuộc CMT8 năm 1945 tuyên cáo nước Việt Nam thống nhất. Những người đấu tranh đổ máu chống cái quái thai “Nam Kỳ quốc” năm 1946 chính là cư dân thành phố, cư dân Nam Bộ. Những người hiên ngang bảo vệ CNXH ở Miền Bắc, chống chia rẽ Bắc Nam qua cuộc di cư cưỡng bức ồ ạt 1954 cũng là cư dân thành phố, cư dân Nam Bộ.

Tính cách yêu nước nồng nàn, kiên cường chống ngoại xâm của người dân Thành phố xuất phát và gắn liền với ý thức tình cảm hướng về cội nguồn, tri ân tổ tiên, uống nước nhớ nguồn (trên địa bàn thành phố đến nay không dưới 10 đền thờ Hùng Vương đủ các quy mô lớn nhỏ được xây dựng qua các thời kỳ, quanh năm người dân khăn đóng áo dài đến cúng lễ). Tình đồng bào, ý thức dân tộc, hướng về cội nguồn, tinh thần yêu nước là cơ sở cho chủ nghĩa anh hùng chống ngoại xâm. Đó cũng là tính cách văn hoá nổi bật nhất của người Sài Gòn - Tp. HCM.

Trải qua lịch sử được vun đắp bổ sung rèn luyện để trở thành truyền thống nổi bật nhất của nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đó là truyền thống anh hùng. Tp. HCM được tặng danh hiệu Thành phố anh hùng vào tháng 4/2005 trước thềm Đảng bộ Thành phố lần thứ 8 nhân kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Thành phố.

Tính linh hoạt, năng động, sáng tạo.

Sài Gòn là nơi giao lưu văn hoá mọi miền, giao lưu và chọn lọc. Sài Gòn tiếp thu lưu giữ những điều hợp lý, vận dụng để thay đổi những điều không còn hợp lý và sự thay đổi đó diễn ra rất nhanh chóng. Nó được khẳng định, bổ sung, nhân lên gấp bội trong điều kiện hàng trăm năm kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường phát triển nhất nước.

-           Trong lĩnh vực chống giặc ngoại xâm, người Sài Gòn – thành phố Hồ Chí Minh nhạy cảm trong đánh giá kẻ thù và kiên quyết chống lại chúng; sáng tạo nhiều hình thức, phương pháp đấu tranh phù hợp.

Ngày nay, trong xây dựng đất nước công nghiệp hóa-hiện đại hóa, người Sài Gòn – thành phố Hồ Chí Minh đã sáng tạo nhiều phong trào xã hội đi đầu trong cả nước.

Trong xây dựng đất nước, công nghiệp hóa hiện đại hóa, người Sài gòn đã sáng tạo nhiều phong trào xã hội đi đầu trong cả nước như xóa đói giảm nghèo, xây nhà tình nghĩa, tình thương, khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo, phong trào “ 3 giảm”. Người Sài gòn không khi nào chịu chấp nhận những gì mà tự nhiên có, tự nhiên cho, mặc dù tự nhiên ở đây rất hào phóng, người Sài gòn luôn vươn tới, luôn tìm cái mới, nhạy bén trong hoạt động, sáng tạo trong tư duy, biết thay đổi nếp sống, dám nghĩ, dám làm, sớm hình thành tác phong công nghiệp.

Phương hướng phát triển: 

1 Những điều kiện mới:

Việc xây dựng văn hóa, con người ở thành phố HCM phải tiếp nối, kế thừa, phát huy những truyền thống tốt đẹp, những tinh hoa văn hóa dân tộc, tính cách văn hóa, con người thành phố:

Người Sài gòn phải phù hợp với kinh tế tri thức, xã hội thông tin, phù hợp với kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thời kỳ xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN mở rộng dân chủ , thành phố cần xây dựng nếp sống văn hóa, con người mới để tiến tới đời sống văn minh, hiện đại.

Xây dựng văn hóa, con người thành phố trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, vốn quan hệ rộng mở với khu vực và thế giới nhưng trong thời gian tới sự quan hệ rộng mở đó xét về quy mô nó tăng lên nhiều lần, xét về nội dung thì phong phú đa dạng hơn nhiều.

2 Phương hướng phát triển VH, CN TpHCM : Phát triển theo hướng văn minh, hiện đại, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và các giá trị tinh thần mang nét đặc trưng của nhân dân thành phố. Nâng cao chất lượng phong trào “ Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa trên địa bàn dân cư. Đẩy mạnh vận động, nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng và có những giải pháp hữu hiệu để tạo ra bước chuyển căn bản trong việc cưới, tang, lễ hội theo hướng văn minh, tiết kiệm chống phô trương, lãng phí, bài trừ mê tín dị đoan. Xây dựng ý thức giữ gìn môi trường và văn minh nơi công cộng

Giáo dục truyền thống yêu nước, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc, danh dự của người việt nam, công dân thành phố mang tên bác. Duy trì thường xuyên cuộc vận động tu dưỡng đạo đức, lối sống, xây dựng văn hóa trong lãnh đạo, quản lý và kinh tế.

Hoàn thiện quy hoạch, huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng thiết chế văn hóa. Đầu tư có trọng điểm và nâng cao hiệu quả hoạt động Văn hóa – nghệ thuật, tăng cường hoạt động giao lưu văn hóa, tích cực đấu tranh và ngăn chặn có hiệu quả sự xâm nhập của văn hóa ngoại lai, độc hại.

Thành phố cần đầu tư để nâng cao hiệu quả hoạt động văn hóa nghệ thuật, tổ chức nghiên cứu những đặc trưng văn hóa truyền thống thành phố, giới thiệu các di sản, các sản phẩm văn hóa thành phố với bạn bè trong và ngoài nước.

C.   LIÊN HỆ BẢN THÂN – CƠ QUAN ĐƠN VỊ:

Thực trạng  đời sống VH con người Tp hiện nay: Cùng với sự chuyển đổi về kinh tế, về đời sống vật chất được cải thiện, đời sống văn hoá ở Tp. HCM trong thời gian qua cũng có nhiều biến đổi theo chiều hướng tích cực. Điều dễ nhận ra là cái ăn, cái ở, cái mặc... tại thành phố thay đổi hầu như hàng ngày, theo chiều hướng “đi lên”. Nhà cửa rộng hơn, cao hơn, tiện nghi hơn. Cái mặc đẹp hơn... Cái ăn thì thật phong phú. Những khái niệm mới, những thiết chế mới như: văn hoá mới, con người mới, xã hội mới, người tốt việc tốt, khu phố văn hoá, nhà văn hoá, nhà truyền thống, câu lạc bộ, nhà bảo tàng, công viên, khu vui chơi giải trí, câu lạc bộ ông bà cháu… ra đời.

Vấn đề giao lưu và hội nhập văn hoá từ bên ngoài đã đánh dấu sự phát triển về mọi mặt của Thành phố. Dọc theo chiều dài lịch sử, nếu như trong thời kỳ bao cấp, nước ta thực hiện chính sách bế quan tỏa cảng không có điều kiện giao lưu, học hỏi với các quốc gia khác khiến cho nền kinh tế của chúng ta chậm phát triển, mọi mặt của đời sống xã hội còn nhiều hạn chế thì ngày nay kể từ khi Đảng và nhà nước chủ trương thực hiện chính sách mở cửa, cho phép giao lưu kinh tế, văn hóa, xã hội với các nước trên thế giới. Nhờ đó mà nền kinh tế của ta đã có nhiều khởi sắc mới. Đặc biệt là từ khi Việt Nam gia nhập WTO (ngày 11/01/2007) đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho chúng ta hội nhập kinh tế với thế giới. (từ Bắc Mỹ, Bắc Âu, Châu Âu, Đông Nam Á) để làm giàu thêm VH của thành phố, VH thành phố HCM là VH “mở”. Và một thành tựu đáng kể là Việt Nam được xếp vào danh mục các nước đang trên đà phát triển.

Những khái niệm mới, những thiết chế mới như: văn hoá mới, con người mới, xã hội mới, người tốt việc tốt, khu phố văn hoá, nhà văn hoá, nhà truyền thống, câu lạc bộ, nhà bảo tàng, công viên, khu vui chơi giải trí, câu lạc bộ ông bà cháu… ra đời đẩy lùi những bar rượu, hộp đêm, vũ trường, sòng bạc, … trước đây.

Các giá trị văn hóa xưa vẫn được người dân còn lưu giữ và bảo tồn như các kiến trúc xưa: nhà thờ Đức Bà, chợ Bến Thành, bưu điện Thành phố...

Tuy nhiên, nhìn từ 1 khía cạnh khác, tình trạng phi quy chuẩn về đạo đức và lối sống còn tác động xấu đến trật tự và môi trường đô thị ở thành phố, gây mất mỹ quan đô thị cũng như làm xấu đi hình ảnh tươi đẹp của Thành phố trong mắt bạn bè quốc tế: 1 bộ phận người dân khi tham gia lưu thông còn chạy xe lấn đường, đua xe lạng lách, vượt đèn đỏ; treo dán quảng cáo trên các trụ đèn, cột điện; ăn mặc hở hang không phù hợp, có những bài hát dùng những ca từ phản cảm…

Tiềm năng đồng hóa văn hóa của Thành phố là rất lớn nhưng hiện tượng một bộ phận dân cư mà đặc biệt là giới trẻ trong đó có cả tầng lớp học sinh, sinh viên thành phố có lối sống lệch lạc, sống thiếu lý tưởng, giảm sút niềm tin, thiếu ý thức chấp hành pháp luật; có lối sống thực dụng, đua đòi, lãng phí, có biểu hiện tiêu cực trong đạo đức, lối sống, cá biệt có một số thanh niên sa vào tệ nạn xã hội, tội phạm, truy cập các trang Web độc hại, Chát Nude, đua xe, quan hệ tình dục ở lứa tuổi thanh niên, học sinh-sinh viên…đang có chiều hướng gia tăng.

+ Cơ quan: Quan hệ với đồng nghiệp chưa thật sự thân thiện, hòa đồng, bằng mặt không bằng lòng, còn đố kỵ nhau trong công việc

+ Địa phương: Ở khu phố, không đoàn kết, chiếm dụng khuôn viên giải trì cho trẻ em làm nơi kinh doanh café, nước uống, bỏ rác trước nhà hàng xóm, mở nhac, hát karaoke gây ôn ào ảnh hưởng đến hàng xóm,…

Chính vì vậy, Nghị quyết 20 của Bộ Chính trị chỉ rõ hướng phát triển văn hoá, con người Thành phố một cách cụ thể: “Phát triển, nâng cao chất lượng và quản lý tốt các hoạt động văn hoá quần chúng; xây dựng nếp sống văn hoá trên địa bàn dân cư, các sinh hoạt vui chơi, giải trí lành mạnh, quan tâm nâng cao mức hưởng thụ văn hoá của người lao động thu nhập thấp; đầu tư phát triển các hoạt động sáng tạo văn hoá, nghệ thuật chuyên nghiệp trình độ cao; phát triển đi đôi với chỉ đạo và quản lý chặt chẽ các hoạt động phát thanh, truyền hình, Internet, báo chí, xuất bản…”.

Với trách nhiệm là người cán bộ công chức, thực hiện tốt quy định của pháp luật, tuân thủ nghiêm luật giao thông khi đi đường, giữ gìn cảnh quan đô thị, bảo vệ môi trường xung quanh. Thân thiện, hòa đồng, giúp đỡ người dân tại khu phố, góp ý xây dựng địa phương, tổ dân phố, trở thành khu phố văn hóa, gia đình văn hóa; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và các giá trị tinh thần mang nét đặc trưng của nhân dân thành phố; tích cực dấu tranh tệ nạn xã hội tại địa phương cư trú

 

 

CÂU 5. Đồng chí hãy phân tích, chứng minh vai trò, vị trí của nền kinh tế thành phố Hồ Chí Minh đối với sự phát triển kinh tế Nam bộ và cả nước

A.   CHỦ ĐỀ: Kinh tế TpHCM

B.    TRỌNG TÂM VÀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:

    Đặc điểm kinh tế TP HCM:

Là trung tâm lớn nhất nước, nằm trong khu kinh tế trọng điểm phía nam

Sớm phát triển kinh tế thị trường, kinh tế hàng hóa khi mà nhiều nơi còn nặng kinh tế tự cung tự cấp kiểu phong kiến, luôn năng động đi trước cả nước về đổi mới, về xây dựng nền kinh tế thị trượng theo định hướng XHCN.

nguon VI OLET