II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ
1. Sự cần thiết xây dựng đoàn kết quốc tế
a) Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng
- Mục đích của việc thực hiện đoàn kết quốc tế theo Hồ Chí Minh là gì?
(Là để tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp, đưa cách mạng đi đến thành công).
- Liên quan đến sức mạnh của dân tộc, Hồ Chí Minh thường nói đến những, nhân tố, yếu tố nào?
(Liên quan đến sức mạnh của dân tộc, Hồ Chí Minh thường nói đến truyền thống yêu nước, đoàn kết, nhân ái, tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường, đức tính cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo, ham học hỏi của nhân dân Việt Nam; vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên thuận lợi, nguồn tài nguyên phong phú, dồi dào của đất nước Việt Nam,v.v.. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, những nhân tố, yếu tố này sẽ trở thành sức mạnh to lớn của dân tộc khi chúng được khơi dậy, được hoà hợp với nhau và được phát huy vào sự nghiệp cách mạng chung của dân tộc).
- Sức mạnh thời đại, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, gồm những nhân tố, yếu tố nào? Các sức mạnh đó sẽ được phát huy trong thực tiễn cách mạng nước ta khi nào?
(Sức mạnh thời đại, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, là sức mạnh của phong trào cách mạng vô sản và phong trào cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa; là lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; là xu thế của thời đại từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga; là sức mạnh của ba dòng thác cách mạng; là sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và công nghệ. Các sức mạnh đó sẽ được phát huy vào trong thực tiễn cách mạng nước ta khi chúng ta biết xây dựng khối đoàn kết quốc tế).
- Hồ Chí Minh đã làm gì để xây dựng khối đoàn kết quốc tế giữa nhân dân ta với các lực lượng cách mạng trên thế giới?
(Hồ Chí Minh đã xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Người viết: “Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới. Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân An Nam”; “Cách mệnh trước hết phải có Đảng để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở khắp mọi nơi”. Và Người đã làm tất cả để gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới).
- Hồ Chí Minh đã đánh giá vai trò của đoàn kết quốc tế trong cách mang Việt Nam như thế nào?
(Hồ Chí Minh khẳng định: “Có sức mạnh cả nước một lòng…lại có sự ủng hộ của nhân dân thế giới, chúng ta sẽ có một sức mạnh tổng hợp, cộng với phương pháp cách mạng thích hợp, nhất định cách mạng nước ta sẽ đi đến đích cuối cùng”).
b) Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng
- Thời đại mà Hồ Chí Minh sống và hoạt động có những biến chuyển cơ bản nào? Trong thời đại đó các dân tộc có thể tồn tại biệt lập với nhau không?
(Thời đại mà Hồ Chí Minh sống và hoạt động là thời đại có những biến đổi cực kỳ to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó nổi bật lên hai sự kiện quan trọng nhất làm thay đổ nội dung của thời đại: một là, chủ nghĩa tư bản đã từ giai đoạn tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, đã hình thành hệ thống thuộc địa của chúng; hai là thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga đã mở ra một thời đại mới – thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Trong thời đại đó các dân tộc không thể tồn tại biệt lập, vận mệnh của mỗi dân tộc không thể tách rời vận mệnh chung của loài người).
- Hồ Chí Minh đã nhận thức được yêu cầu đặt ra đối với cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới như thế nào?
(Trong thời đại mới, Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc rằng “công cuộc giải phóng các nước và các dân tộc bị áp bức là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản”, rằng “cần thiết phải có liên minh chiến đấu chặt chẽ giữa các dân tộc thuộc địa với giai cấp vô sản của các nước đế quốc để chống kẻ thù chung”).
- Để xây dựng khối đoàn kết quốc tế, Hồ Chí Minh yêu cầu các Đảng Cộng sản phải làm gì?
(Để xây dựng khối đoàn kết quốc tế, Hồ Chí Minh yêu cầu các Đảng Cộng sản phải chống lại mọi khuynh hướng sai lầm của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa vị kỷ dân tộc; phải giáo dục chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế vô sản cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động nước mình. Người luôn khẳng định: “Tinh thần yêu nước chân chính khác hẳn với tinh thần “vị quốc” của bọn đế quốc phản động. Nó là một bộ phận của tinh thần quốc tế”).
- Hồ Chí Minh đã làm gì để kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng trong cách mạng Việt Nam?
(Kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng trong cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã triệt để phát huy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính, đồng thời Người đã nỗ lực không mệt mỏi để củng cố và tăng cường tình đoàn kết, hữu nghị giữa Việt Nam với các dân tộc khác đang đấu tranh cho mục tiêu chung là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội).
2. Nội dung và hình thức đoàn kết quốc tế
a) Các lực lượng cần đoàn kết
- Nêu các lực lượng chính cần đoàn kết trong tư tưởng đoàn kết quốc tế của chủ tịch Hồ Chí Minh?
(Hồ Chí Minh chủ trương đa dạng hóa trong việc tập hợp lực lượng đoàn kết quốc tế nhưng tập trung vào ba lực lượng chính: phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc; phong trào hòa bình dân chủ thế giới, trước hết là phong trào chống chiến tranh của nhân dân các nước đang xâm lược Việt Nam).
- Hồ Chí Minh đã xây dựng khối đoàn kết với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế như thế nào?
(Hồ Chí Minh cho rằng sự đoàn kết giữa giai cấp vô sản quốc tế là một đảm bảo vững chắc cho thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản. Đánh giá cao vai trò khối đoàn kết của giai cấp vô sản thế giới, tháng 12 năm 1920, tại Đại hội Tua, Hồ Chí Minh đã lên tiếng: “Nhân danh toàn thể loài người, nhân danh tất cả đảng viên xã hội, cả phái hữu lẫn phái tả, chúng tôi kêu gọi các đồng chí hãy cứu chúng tôi”. Tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh tìm thấy con đường giải phóng dân tộc. Đồng thời người cũng tìm thấy một lực lượng ủng hộ mạnh mẽ công cuộc đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa. Đó là phong trào cộng sản và công nhân thế giới, là Liên Xô và sau này là các nước xã hội chủ nghĩa, là Quốc tế thứ III sau này là cục thông tin quốc tế. Từ đó, Người đã phấn đấu không mệt mỏi để xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế).
Dựa trên những cơ sở nào để Hồ Chí Minh xây dựng khối đoàn kết giữa giai cấp vô sản các nước, đoàn kết giữa các đảng cộng sản?
(Dựa trên tính tất yếu vai trò của giai cấp vô sản trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế gới. Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa đế quốc là một lực lượng phản động quốc tế, là kẻ thù chung của nhân dân lao động toàn thế giới. Trong hoàn cảnh đó, chỉ có sức mạnh của sự đoàn kết, nhất trí, sự đồng tình và ủng hộ lẫn nhau của nhân dân lao động thế giới theo tinh thần “bốn phương vô sản đều là anh em” mới có thế chống lại được những âm mưu thâm độc của chủ nghĩa đế quốc thực dân).
- Hồ Chí Minh đã xây dựng khối đoàn kết với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới như thế nào?
(Hồ Chí Minh đã sớm phát hiện ra âm mưu chia rẽ dân tộc, tạo sự biệt lập, đối kháng, thù ghét dân tộc, chủng tộc… của các nước đế quốc nhằm làm suy yếu phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các thuộc địa. Vì vậy, Nguời đã kiến nghị Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản về những biện pháp nhằm “Làm cho các thuộc địa từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”).
- Nêu chủ trương của Hồ Chí Minh trong xây dựng khối đoàn kết với các lực lượng tiến bộ, những người yêu chuộng hòa bình, dân chủ, tự do và công lý trên thế giới?
(Trong xu thế mới của thời đại mới, bên cạnh việc đoàn kết với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Hồ Chí Minh luôn chú ý tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới. Để thực hiện việc này, Người chủ trương gắn cuộc đấu tranh vì độc lập, thống nhất của Việt Nam với mục tiêu bảo vệ hòa bình, dân chủ, tự do, công lý của nhân loại tiến bộ.
Sau khi nước ta giành được độc lập, Người đã nhiều lần tuyên bố: “sẵn sàng làm bạn với mọi nước dân chủ không gây thù oán với một ai”; “Chính sách ngoại giao của Chính phủ thì chỉ có một điều tức là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để giữ gìn hoà bình”).
- Hiện thực xây dựng khối đoàn kết với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, phong trào hòa bình, dân chủ thế giới theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã phát huy hiệu quả to lớn trong cách mạng Việt Nam như thế nào?
b) Hình thức đoàn kết
Để thực hiện đoàn kết quốc tế, Hồ Chí Minh đã đưa ra hình thức đoàn kết cơ bản nào?
(Để xây dựng khối đoàn kết quốc tế, Hồ Chí Minh đã đề xuất hình thức mặt trận. Ngay từ năm 1924, Người đã đưa ra quan điểm thành lập Mặt trận thống nhất của nhân dân chính quốc và thuộc địa chống chủ nghĩa đế quốc. Đối với các dân tộc trên bán đảo Đông Dương, trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, trên cơ sở thành lập Mặt trận độc lập đồng minh cho từng nước, Người chủ trương tiến tới thành lập Đông Dương độc lập đồng minh. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo việc hình thành Mặt trận đoàn kết Việt - Miên - lào. Mở rộng khối đoàn kết ra các nước khác, Hồ Chí Minh cũng đã góp phần đặt cơ sở cho sự ra đời của Mặt trận nhân dân Á- Phi đoàn kết với Việt Nam. Người cũng đã hoạt động không mệt mỏi để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của bạn bè quốc tế và nhân loại tiến bộ, trong đó có cả nhân dân Pháp (trong kháng chiến chống Pháp), nhân dân Mỹ (trong kháng chiến chống Mỹ), hình thành Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược.
Như vậy, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh đã định hướng cho việc hình thành bốn tầng mặt trận: Mặt trận đại đoàn kết dân tộc; Mặt trận đoàn kết Việt - Miên - lào; Mặt trận nhân dân Á- Phi đoàn kết với Việt Nam; Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược. Đây thật sự là sự phát triển rực rỡ nhất và thắng lợi to lớn nhất của tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh).
3. Nguyên tắc đoàn kết quốc tế
a) Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có lý, có tình
- Ý nghĩa của nguyên tắc đoàn kết trên cơ sở thống nhất về mục tiêu và lợi ích, có lý, có tình?
(Cũng như xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, muốn thực hiện được đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng phản động quốc tế, phải tìm ra được điểm tương đồng về mục tiêu và lợi ích giữa các dân tộc, các lực lượng tiến bộ và phong trào cách mạng thế giới. Đây là vấn đề cốt tử, quyết định sự thành bại của việc tập hợp lực lượng, đoàn kết quốc tế).
- Hồ Chí Minh đã quán triệt nguyên tắc này như thế nào trong xây dựng khối đoàn kết với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế?
(Người đã giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thực hiện đoàn kết thống nhất trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình.
Cốt lõi trong xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế theo Hồ Chí Minh là gì?
Là xây dựng khối đoàn kết thống nhất giữa các đảng cộng sản. Người cho rằng việc xây dựng khối đoàn kết này phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, phải quán triệt những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Theo Hồ Chí Minh, “có lý”, “có tình” trong xây dựng khối đoàn kết với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế là như thế nào?
“Có lý” trước hết là tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, phải xuất phát từ lợi ích chung của cách mạng thế giới. Tuy nhiên, việc trung thành với chủ nghĩa Mác - lênin đòi hỏi phải vận dụng sáng tạo, có hiệu quả vào hoạt động thực tế của mỗi nước, mỗi đảng. “Có tình là sự thông cảm, tôn trọng lẫn nhau trên tinh thần, tình cảm của những người cùng chung lý tưởng, cùng chung mục tiêu phấn đấu. Sự ứng xử có tình đòi hỏi lợi ích của mỗi quốc gia, dân tộc, mỗi đảng phải được tôn trọng, song lợi ích đó không được phương hại đến lợi ích chung, lợi ích của đảng khác, của dân tộc khác).
- Hồ Chí Minh đã xác định điểm chung trong xây dựng khối đoàn kết với các dân tộc trên thế giới như thế nào?
(Hồ Chí Minh đã giương cao ngọn cờ độc lập, tự do và quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước láng giềng Lào, Campuchia, Trung Quốc cũng như với các quốc gia, dân tộc trên thế giới, Hồ Chí Minh thực hiện nhất quán quan điểm có tính nguyên tắc: Dân tộc Việt Nam tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và quyền tự quyết của tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới, đồng thời mong muốn các quốc gia, dân tộc trên thế giới quan hệ hợp tác, hữu nghị với Việt Nam trên cơ sở những nguyên tắc đó.
Nêu cao tư tưởng độc lập, tự do và quyền bình đẳng giữa các dân tộc, Hồ Chí Minh trở thành người khởi xướng, cầm cờ và là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình, đồng thời thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau, thực hiện đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới với Việt Nam vì thắng lợi của cách mạng mỗi nước).
- Đối với các lực lượng tiến bộ trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ hòa bình trong công lý.
Nêu đặc điểm của ngọn cờ hòa bình trong tư tưởng Hồ Chí Minh?
Giương cao ngọn cờ hòa bình và đấu tranh bảo vệ hòa bình là tư tưởng nhất quán của Hồ Chí Minh. Nhưng đó không phải là một nền hòa bình trừu tượng, mà là “hòa bình trong độc lập, tự do”, “một nền hòa bình chân chính xây dựng trên công bình và lý tưởng dân chủ”, chống chiến tranh xâm lược vì các quyền dân tộc cơ bản của mỗi quốc gia.
Ngọn cờ hòa bình của Hồ Chí Minh đã có tác dụng như thế nào trong các cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Việt Nam và trong các cuộc đấu tranh vì hòa bình, vì tiến bộ nhân loại?
Trong suốt hai cuộc kháng chiến, quan điểm hòa bình trong công lý, lòng thiết tha hòa bình trong sự tôn trọng độc lập, thống nhất của Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam đã làm rung động trái tim nhân loại. Nó có tác dụng cảm hóa, lôi kéo các lượng tiến bộ trên thế giới đứng về phía nhân dân Việt Nam đòi chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Đánh giá vai trò và những cống hiến của Hồ Chí Minh trong việc tập hợp các lượng tiến bộ trên thế giới, Rômét Chanđra, nguyên chủ tịch Hội đồng hòa bình thế giới cho rằng: “Bất cứ nơi nào chiến đấu cho độc lập, tự do, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu chiến đấu cho hòa bình và công lý, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu, nhân dân chiến đấu cho một thế giới mới, chống lại đói nghèo, ở đó ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao”.
b) Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường
- Tại sao Hồ Chí Minh lại đặt vấn đề đoàn kết phải trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường?
(Trong việc xây dựng khối đoàn kết với các lực lượng cách mạng, tiến bộ trên thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, Hồ Chí Minh xác định sức mạnh dân tộc giữ vai trò quyết định, còn sức mạnh thời đại chỉ phát huy tác dụng thông qua sức mạnh dân tộc. Người nhiều lần khẳng định: Trong đấu tranh cách mạng ta phải “tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”. Người còn viết: “Muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”; “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”. Trong quan hệ quốc tế, Người khẳng định: “Thực lực như cái chiêng ngoại giao như cái tiếng. Chiêng có to thì tiếng mới lớn”).
- Khẳng định sức mạnh dân tộc giữ vai trò quyết định nhưng Hồ Chí Minh có xem nhẹ việc đoàn kết quốc tế, tranh thủ sức mạnh thời đại không?
(Khẳng định sức mạnh dân tộc giữ vai trò quyết định nhưng Hồ Chí Minh không hề xem nhẹ việc đoàn kết quốc tế, tranh thủ sức mạnh thời đại, đặc biệt là tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới).
- Để thực hiện đoàn kết quốc tế, tranh thủ sức mạnh thời đại Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng ta phải làm gì?
(Để thực hiện đoàn kết quốc tế, tranh thủ sức mạnh thời đại, nhất là tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng ta phải có đường lối độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo. Trả lời phỏng vấn một phóng viên nước ngoài, Người nói: “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở ngoài vào”).
- Việc thực hành đường lối độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã mang lại hiệu quả như thế nào trong cách mạng Việt Nam?
KẾT LUẬN (giáo trình)


Chương 6
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ VÀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ
- Hiểu thế nào cho đúng quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ?
- Nêu quan điểm của Hồ Chí Minh về giá trị của dân chủ?
Dân chủ là khát vọng muôn đời của nhân dân; là mục tiêu và động lực của cách mạng; là chuẩn mực và nguyên tắc ứng xử cơ bản trong các quan hệ quốc tế.
2. Dân chủ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội
Theo Hồ Chí Minh, dân chủ trong xã hội Việt Nam được thể hiện trên những lĩnh vực nào? Trong đó, nổi bật nhất là ở lĩnh vực nào? Được biểu hiện như thế nào?
(Theo Hồ Chí Minh, dân chủ trong xã hội Việt Nam được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… Trong đó dân chủ trên lĩnh vực chính trị là nổi bật nhất.
Dân chủ trên lĩnh vực chính trị được biểu hiện tập trung qua tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước. Thể hiện ở chỗ Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Dân chủ trên lĩnh vực chính trị còn được biểu hiện ở phương thức tổ chức xã hội. Thể hiện qua cấu tạo quyền lực của xã hội mà ở đó người dân, cả trực tiếp lẫn gián tiếp qua dân chủ đại diện, là người chủ thật sự của xã hội. Tức là phải xây dựng được một hệ thống chính trị do dân “cử ra” và “do dân tổ chức nên”.
3. Thực hành dân chủ
a) Xây dựng và hoàn thiện chế độ dân chủ rộng rãi
- Hồ Chí Minh đã làm gì để xây dựng và hoàn thiện chế độ dân chủ ở nước ta?
+ Ngay từ năm 1941, trong Chương trình của Mặt trận Việt Minh, Hồ Chí Minh đã thiết kế một chế độ dân chủ cộng hòa cho nước ta sau khi cuộc cách mạng do nhân dân thực hiện thắng lợi.
+ Dân chủ ở nước Việt Nam mới được thể hiện và đảm bảo trong các bản Hiến Pháp do chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì thực hiện. Hiến Pháp năm 1946 và Hiến Pháp năm 1959 đều khẳng định quyền làm chủ của nhân dân, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nhân dân.
- Theo Hồ Chí Minh, chế độ dân chủ ở nước ta phải được thể hiện rộng rãi như thế nào?
Theo Hồ Chí Minh, dân chủ là phải đảo bảo quyền làm chủ của các giai cấp, tầng lớp, các cộng đồng dân tộc trong thể chế chính trị ở nước ta.
b) Xây dựng các tổ chức đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội vững mạnh để đảm bảo dân chủ trong xã hội.
- Trong xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam, theo Hồ Chí Minh Đảng, Nhà nước, Mặt trận có vai trò, vị trí như thế nào?
Trong xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam, theo Hồ Chí Minh Đảng, Nhà nước và Mặt trận phải cấu thành một hệ thống chính trị đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân. Trong đó, Đảng là hạt nhân giữ vai trò lãnh đạo hệ thống chính trị, Nhà nước là trung tâm giữ vai trò quản lý, điều hành, Mặt trận là cơ sở của hệ thống chính trị, giữ vai trò đoàn kết, tập hợp nhân dân thực thi các quyết định lãnh đạo của Đảng, quản lý điều hành của Nhà nước, đồng thời phản ánh tâm tư, nguyện vọng của nhân dân tới Đảng, Nhà nước. Tất cả các tổ chức này đều do nhân dân tổ chức, xây dựng nên, đều hoạt động vì lợi ích của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân.
- Để đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng, Nhà nước và Mặt trận trong mọi hoạt động của mình phải quán triệt những yêu cầu cơ bản gì?
Để đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng, Nhà nước và Mặt trận trong mọi hoạt động của mình phải quán triệt những yêu cầu cơ bản sau:
+ Phải luôn lấy dân làm gốc, hết lòng, hết sức phụng sự nhân dân.
+ Phải hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, phân công, phân nhiệm rõ ràng, phối hợp hành động chặt chẽ.
II. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một Nhà nước của dân, do dân, vì dân
a. Nhà nước của dân
- Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước của dân là Nhà nước như thế nào?
(Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước của dân là Nhà nước được tổ chức sao cho tất cả quyền lực trong nước là của toàn thể nhân dân. Điều 1 Hiến Pháp năm 1946, do Người làm Trưởng ban soạn thảo, đã khẳng định rõ: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”).
- Quyền lực trong nước là của toàn thể nhân dân, theo Hồ Chí Minh, phải được thể hiện ở chỗ nào?
(Quyền lực trong nước là của toàn thể nhân dân, theo Hồ Chí Minh, phải được thể hiện ở chỗ:
+ “Dân làm chủ và dân là chủ”. Dân có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm, đồng thời có nghĩa vụ tuân theo pháp luật.
+ “Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết” (Điều 32 – Hiến pháp 1946.
+ Sau khi giành được chính quyền, dân uỷ quyền cho các đại diện do mình bầu ra. Đồng thời, dân có quyền bãi miễn đại biểu quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân).
- Yêu cầu đối với Nhà nước của dân là gì?
(Yêu cầu đối với Nhà nước của dân là:
+ Phải bằng mọi nỗ lực hình thành được các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của nhân dân.
+ Các vị đại diện của dân, do dân cử ra phải xác định rõ mình chỉ là thừa uỷ quyền của dân, là “công bộc” của dân).
b. Nhà nước do dân
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước do dân là Nhà nước như thế nào?
(Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước do dân là:
- Do dân lựa chọn, bầu ra rừ những đại biểu của mình vào các cơ quan quyền lực của Nhà nước.
- Do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để Nhà nước chi tiêu hoạt động.
- Do dân phê bình, giám sát, xây dựng.
- Khi các cơ quan Nhà nước không đáp ứng được lợi ích và nguyện vọng của nhân dân thì nhân dân sẽ bãi miễn nó.
Hồ Chí Minh khẳng định: “Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”).
c. Nhà nước vì dân
- Hồ Chí Minh quan niệm thế nào là Nhà nước vì dân?
(Theo Hồ Chí Minh, Nhà nước vì dân là Nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, không có đặc quyền, đặc lợi, thực sự trong sạch, cần, kiệm, liêm, chính. Như vậy, theo quan niệm của Hồ Chí Minh, chỉ có một Nhà nước thực sự của dân, do dân tổ chức, xây dựng và kiểm soát trên thực tế mới có thể là Nhà nước vì dân).
- Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, trong Nhà nước vì dân, dân là chủ, là người được phục vụ thì cán bộ nhà nước là gì?
(Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, trong Nhà nước vì dân, dân là chủ, là người được phục vụ thì cán bộ nhà nước, từ chủ tịch trở xuống đều là công bộc của dân, làm đầy tớ cho dân).
- Để làm tốt vai trò của mình, xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân, Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ Nhà nước phải có thái độ như thế nào đối với công việc?
(Để làm tốt vai trò của mình, xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân, Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ nhà nước phải:
+ “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”.
+ Là người đầy tớ phục vụ nhân dân, cán bộ nhà nước phải đồng thời là người lãnh đạo, người hướng dẫn nhân dân).
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước
a. Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước
- Hồ Chí Minh luôn khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta. Người viết: “Nhà nước ta là nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”.
- Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta biểu hiện nổi bật ở những điểm nào?
(Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta biểu hiện nổi bật ở chỗ:
+ Nhà nước do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo
(Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng cách nào?
Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối, chủ trương, định hướng chính sách; lãnh đạo thông qua tổ chức, cá nhân của mình trong Quốc hội, Chính phủ và các nghành, các cấp của Nhà nước; lãnh đạo bằng công tác kiểm tra).
+ Ở tính định hướng đưa đất nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
+ Nguyên tắc tổ chức cơ bản của Nhà nước cũng là nguyên tắc tập trung dân chủ)).
b. Bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân, tính dân tộc của Nhà nước
- Theo Hồ Chí Minh, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta luôn thống nhất, hài hoà với tính nhân dân, tính dân tộc của Nhà nước.
Tại sao trong nhà nước ta, bản chất giai cấp công nhân lại thống nhất với tính nhân dân, tính dân tộc?
(Sở dĩ có sự thống nhất đó vì lợi ích của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích của dân tộc. Giai cấp công nhân nước ta không thể giải phóng được mình nếu không tham gia và đi đầu trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng các tầng lớp nhân dân khác).
- Sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân, tính dân tộc của Nhà nước ta thể hiện ở chỗ nào?
(Sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân, tính dân tộc của Nhà nước ta thể hiện ở chỗ:
+ Nhà nước ta ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của nhiều thế hệ người Việt Nam.
+ Nhà nước ta luôn bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc làm cơ bản.
+ Tổ chức bộ máy của Nhà nước luôn thể hiện tính đại đoàn kết dân tộc).
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một Nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ
a. Một Nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ, trước hết phải là một Nhà nước hợp hiến, hợp pháp
- Thế nào là một Nhà nước hợp hiến, hợp pháp?
(Nhà nước hợp hiến, hợp pháp là một Nhà nước ra đời dựa trên những cơ sở pháp lý có hiệu lực, được quảng đại quần chúng nhân dân trong nước thừa nhận và được cộng đồng quốc tế công nhận).
- Để xây dựng một Nhà nước hợp hiến, hợp pháp trên đất nước ta, Hồ Chí Minh đã làm gì?
(Để xây dựng một Nhà nước hợp hiến, hợp pháp trên đất nước ta, ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Người đã thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào và với thế giới về sự khai sinh của Nhà nước Việt Nam mới; Tiếp đó, ngay tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ (3 – 9 – 1945), Người đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách, trong đó có nhiệm vụ phải tiến hành ngay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu để bầu ra Quốc hội và lập ra Chính phủ chính thức, đồng thời phải sớm ban hành một hiến pháp dân chủ).
b. Một Nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ là một Nhà nước quản lý đất nước bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế
(Điều cốt lõi của một Nhà nước pháp quyền là Nhà nước đó phải quản lý đất nước bằng pháp luật, mọi tổ chức và cá nhân trong Nhà nước đó phải sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật).
- Theo Hồ Chí Minh, trong một Nhà nước dân chủ thì dân chủ và pháp luật có mâu thuẫn với nhau không? Nền pháp luật mà Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng là nền pháp luật gì?
(Theo Hồ Chí Minh, trong một Nhà nước dân chủ thì dân chủ và pháp luật không mâu thuẫn với nhau, mà quan hệ mật thiết với nhau, nương tựa vào nhau. Không thể có dân chủ ngoài pháp luật, pháp luật là “bà đỡ” của dân chủ. Quyền dân chủ của nhân dân phải được thể chế hoá bằng pháp luật, ngược lại hệ thống pháp luật mà chúng ta xây dựng phải bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Như vậy, để thực thi quyền làm chủ của nhân dân, nền pháp luật mà Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng là nền pháp luật xã hội chủ nghĩa).
- Hồ Chí Minh quan tâm đến việc xây dựng nền pháp luật XHCN, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, như thế nào?
(Xây dựng nền pháp luật xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân là mối quan tâm suốt đời của chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong 24 năm ở cương vị đứng đầu Nhà nước, Người đã hai lần đứng đầu Uỷ ban soạn thảo hiến pháp (Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959), đã ký và công bố 16 đạo luật, 613 sắc lệnh và nhiều văn bản dưới luật khác. Một mặt chăm lo hoàn thiện hiến pháp và hệ thống pháp luật, mặt khác, Người rất quan tâm đến việc đưa pháp luật vào đời sống, tạo ra cơ chế đảm bảo cho pháp luật được thi hành, cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi hành đó trong các cơ quan nhà nước và trong nhân dân).
c. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước đủ đức, đủ tài
- Để xây dựng một Nhà nước pháp quyền vững mạnh, Hồ Chí Minh còn quan tâm đến việc xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước có đủ đức và tài.
- Người đã đưa ra những yêu cầu cụ thể về đức và tài đối với cán bộ công chức như thế nào?
(Người đã đưa ra những yêu cầu cụ thể về đức và tài đối với cán bộ công chức như:
+ Tuyệt đối trung thành với cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
+ Am hiểu pháp luật, thành thạo chuyên môn, nghiệp vụ.
+ Có mối liên hệ mật thiết với nhân dân.
+ Dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm về việc mình làm.
+ Phải thường xuyên tự phê bình và phê bình).
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả
a. Đề phòng khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước
- Trong tư duy và hành động của Hồ Chí Minh, việc xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân luôn đi đôi với việc chống lại các căn bệnh làm thoái hoá, biến chất bộ máy Nhà nước.
- Trong quá trình lãnh đạo xây dựng Nhà nước, Người yêu cầu các tổ chức và cá nhân trong bộ máy Nhà nước phải chống lại những căn bệnh nào?
(Trong quá trình lãnh đạo xây dựng Nhà nước, Người yêu cầu các tổ chức và cá nhân trong bộ máy Nhà nước phải chống lại những căn bệnh sau:
+ Đặc quyền, đặc lợi.
+ Tham ô, lãng phí, quan liêu.
+ “Tư túng”, “chia rẽ”, “kiêu ngạo”).
b. Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng
Để xây dựng một nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu quả, Hồ Chí Minh đã kết hợp giáo dục đạo đức với tăng cường pháp luật như thế nào?
(Để xây dựng một nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu quả, Người luôn chú trọng giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, công chức, đặt tiêu chuẩn đạo đức lên hàng đầu trong việc tuyển chọn cán bộ. Nhưng Người cũng không ngừng nâng cao vai trò, sức mạnh của pháp luật, chú trọng ban hành pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống và làm cho nó có hiệu lực trong thực tế).
KẾT LUẬN (Giáo trình)

Chương 7
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA, ĐẠO ĐỨC VÀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI
I. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA
1. Khái niệm văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh
a) Định nghĩa về văn hoá
Văn hoá được Hồ Chí Minh định nghĩa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.
Như vậy, văn hoá đã được hiểu theo nghĩa rộng nhất. Đó là toàn bộ những giá trị vật chất và giá trị tinh thần mà loài người đã sáng tạo ra nhằm đáp ứng nhu cầu sinh tồn, đồng thời cũng là mục đích cuộc sống của con người.
b) Quan điểm về xây dựng một nền văn hóa mới
Cùng với định nghĩa, Hồ Chí Minh còn đưa ra Năm điểm lớn định hướng cho việc xây dựng nền văn hóa dân tộc:
“1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập, tự cường.
2. Xây dựng luân lý: biết hi sinh mình, làm lợi cho quần chúng
3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi nhân dân trong xã hội.
4. Xây dựng chính trị: dân quyền.
5. Xây dựng kinh tế”
Như vậy, từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã quan tâm đến văn hóa, đã thấy rõ, vai trò, vị trí của văn hóa. Ngay sau khi nước ta giành được độc lập, Hồ Chí Minh đã bắt tay vào việc kiến tạo, xây dựng một nền văn hóa mới ở Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về những vấn đề chung của văn hoá
a) Quan điểm về vị trí, vai trò của văn hoá trong đời sống xã hội
- Hồ Chí Minh đã xác định văn hoá là một trong bốn vấn đề chủ yếu của đời sống xã hội. Theo Người, văn hoá cũng quan trọng ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội.
- Người còn chỉ rõ bốn vấn đề đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau không thể tách rời. Chính trị, xã hội có được giải phóng thì văn hoá mới được giải phóng. Xây dựng kinh tế để tạo diều kiện cho việc xây dựng và phát triển văn hoá. Ngược lại, văn hoá phải phục vụ nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế.
b) Quan niệm của Hồ Chí Minh về tính chất của nền văn hoá mới
- Theo Hồ Chí Minh, nền văn hoá mới mà chúng ta chủ trương xây dựng là nền văn hoá có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng.
+ Tính dân tộc của nền văn hóa thể hiện ở đặc tính dân tộc, cốt cách dân tộc của nền văn hóa. Nó là kết quả của sự kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể độc đáo của dân tộc.
+ Tính khoa học của nền văn hóa thể hiện ở sự phù hợp của nền văn hóa dân tộc với sự tiến hóa chung của nền văn hóa nhân loại, ở khả năng đóng góp của văn hóa vào sự nghiệp cải tạo xã hội.
+ Tính đại chúng của nền văn hóa thể hiện ở chỗ nền văn hóa đó do quần chúng nhân dân vun trồng nên, quần chúng nhân dân vừa là chủ thể sáng tạo vừa là chủ thể hưởng thụ những giá trị của nền văn hóa đó.
- Nền văn hóa mà chúng ta đang xây dựng hiện nay là nền văn hóa có tính chất tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Thực chất nền văn hóa này là sự tiếp nối và triển khai tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một nền văn hóa có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng.
Tiên tiến là khoa học, hiện đại, là xã hội chủ nghĩa, là biết tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Đậm đà bản sắc dân tộc là biết kế thừa, phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, phát triển những truyền thống tốt đẹp ấy cho phù hợp với những điều kiện lịch sử mới của dân tộc.
c) Quan niệm của Hồ Chí Minh về chức năng của văn hoá
Theo Hồ Chí Minh, văn hoá có ba chức năng cơ bản:
- Một là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho nhân dân, loại bỏ những sai lầm và thấp hèn có thể có trong tư tưởng, tình cảm của mỗi người.
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng những tư tưởng và tình cảm lớn có ý nghĩa chi phối đời sống tinh thần của mỗi người và của cả dân tộc. Tư tưởng lớn nhất mà Người yêu cầu Đảng và nhân dân ta phải xây dựng là lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Những tình cảm lớn mà Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng cho mỗi người là lòng yêu nước, tình yêu thương con người; yêu cái chân, cái thiện và cái mỹ; yêu tính trung thực, thuỷ chung, chân thành, ghét những thói hư, tật xấu, sa đoạ, biến chất,v.v…
- Hai là, nâng cao dân trí. Đó là nâng cao trình độ hiểu biết, trình độ kiến thức của người dân. Trình độ đó phải từ chỗ không biết chữ đến chỗ biết chữ, từ chỗ biết chữ đến chỗ hiểu biết các lĩnh vực khác cần thiết cho hoạt động cuả mỗi người như kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học kỹ thuật, chuyên môn nghề nghiệp, thực tiễn Việt Nam và thế giới,v.v…
- Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lành mạnh luôn hướng con người vươn tới chân, thiện, mỹ.
Muốn tham gia vào việc tạo ra những giá trị văn hoá, đồng thời biết hưởng thụ một cách đúng đắn những giá trị văn hoá của xã hội, mỗi người không chỉ cần có những tư tưởng đúng đắn, tình cảm cao đẹp, những hiểu biết ngày càng được nâng cao, mà còn phải trau dồi cho mình những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lành mạnh. Văn hóa phải giúp cho con người biến những tư tưởng đúng đắn, tình cảm cao đẹp thành phẩm chất và phong cách của chính mình mới có thể sử dụng được kiến thức để tham gia vào việc tạo ra những giá trị văn hoá cho xã hội và biết hưởng thụ một cách đúng đắn những giá trị văn hoá của xã hội.
Mỗi người phải biết phân biệt cái tốt đẹp, lành mạnh với cái xấu xa, hư hỏng, cái tiến bộ thúc đẩy sự phát triển xã hội với cái lạc hậu cản trở mỗi người và cả dân tộc tiến lên phía trước. Từ đó, mỗi người phải phấn đấu làm cho cái tốt đẹp, lành mạnh ngày càng tăng, cái tiến bộ ngày càng nhiều, cái lỗi thời, lạc hậu ngày càng giảm bớt, cái xấu xa, hư hỏng ngày càng bị loại bỏ khỏi đời sống con người và xã hội.
3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về một số lĩnh vực chính của văn hóa
a. Văn hóa giáo dục
- Để chuẩn bị cho việc xây dựng nền giáo dục của nước Việt Nam mới, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu và có sự nhìn nhận như thế nào đối với nền giáo dục phong kiến và nền giáo dục thực dân?
Để chuẩn bị cho việc xây dựng nền giáo dục của nước Việt Nam mới, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu sâu sắc nền giáo dục phong kiến và nền giáo dục thực dân. Người phê phán tính chất kinh viện, sách vở, xa rời thực tế của nền giáo dục phong kiến, đồng thời cũng rất trân trọng cách giáo dục đạo lý, đạo làm người của nền giáo dục này. Người phê phán tính chất ngu dân, đồi bại, xảo trá, nguy hiểm hơn cả sự dốt nát của nền giáo dục thực dân, nhưng cũng trân trọng cách giáo dục chuyên môn, nghề nghiệp của nền giáo dục này.
- Hồ Chí Minh đã xác định việc xây dựng nền văn hóa giáo dục của nước Việt Nam mới có ý nghĩa như thế nào?
Hồ Chí Minh đã xác định việc xây dựng nền văn hóa giáo dục của nước Việt Nam mới là vấn đề cấp bách, có ý nghĩa chiến lược.
- Nêu những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh trong việc xây dựng nền văn hóa giáo dục của nước Việt Nam mới?
Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh trong việc xây dựng nền văn hóa giáo dục của nước Việt Nam mới là:
+ Mục tiêu của văn hóa giáo dục là để thực hiện cả ba chức năng của văn hóa bằng giáo dục.
+ Nội dung giáo dục phải toàn diện, bao gồm cả văn hóa, chính trị, khoa học kỹ thuật, chuyên môn nghề nghiệp và khả năng thực hành…
Người đã nói với thanh niên: Các cháu phải cố gắng học tập kỹ thuật, văn hóa, chính trị… Nếu không học văn hóa, không có trình độ văn hóa thì không học tập được kỹ thuật, không học tập được kỹ thuật thì không theo kịp nhu cầu kinh tế của nước nhà; nhưng phải chú ý học chính trị, vì nếu chỉ có văn hóa, kỹ thuật mà không có chính trị thì như người nhắm mắt mà đi.
+ Phương châm giáo dục là phải luôn gắn nội dung giáo dục với thực tiễn Việt Nam; học đi đôi với hành, lý luận liên hệ với thực tiễn; phối hợp gia đình - nhà trường - xã hội; thực hiện dân chủ, bình đẳng trong giáo dục; học suốt đời.
+ Phương pháp giáo dục phải xuất phát và bám chắc vào mục tiêu, nội dung giáo dục. Giáo dục là một khoa học nên cách dạy phải phù hợp với nội dung lứa tuổi; dạy từ dễ đến khó; kết hợp học tập với vui chơi có ích, lành mạnh; giáo dục phải dùng phương pháp nêu gương; giáo dục phải gắn với thi đua; phải coi trọng việc tự học,v.v..
b. Văn hóa văn nghệ
- Hồ Chí Minh có cống hiến như thế nào trong việc xây dựng nền văn hóa văn nghệ cách mạng?
Từ người đi tìm đường cứu nước trở thành người dẫn đường cho cả dân tộc đi đến độc lập tự do, Hồ Chí Minh đã khai sinh ra một nền văn nghệ cách mạng. Bản thân Người cũng là chiến sĩ tiên phong trong sáng tạo văn nghệ. Những cống hiến to lớn của Người về sáng tạo văn học, nghệ thuật là một bộ phận rất đặc sắc trong toàn bộ sự nghiệp mà Người để lại cho Đảng, cho dân tộc.
- Nêu những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh trong việc xây dựng nền văn hóa văn nghệ cách mạng?
Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh trong việc xây dựng nền văn hóa văn nghệ cách mạng gồm:
+ Văn nghệ là một mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong đấu tranh cách mạng, trong xây dựng xã hội mới, con người mới.
(Hiểu về luận điểm này như thế nào?)
+ Văn nghệ phải gắn với thực tiễn của đời sống nhân dân. Thực tiễn ấy là lao động sản xuất, chiến đấu, sinh hoạt và xây dựng cuộc sống mới. Văn nghệ vừa phản ánh thực tiễn ấy, vừa hướng cho nhân dân thúc đẩy sự phát triển của thực tiễn ấy theo quy luật của cái đẹp.
(Giải thích rõ hơn về luận điểm này?)
+ Phải có những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với dân tộc và thời đại. Văn nghệ phải phản ánh cho hay, cho chân thật sự nghiệp cách mạng của nhân dân. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, văn nghệ phục vụ quần chúng không phải là hạ thấp nghệ thuật, không phải là cung cấp cho họ những sản phẩm “loại hai”, những món ăn tinh thần được chế biến vội vàng, mà phải là những tác phẩm có tính nghệ thuật cao.
(Thế nào là một tác phẩm có tính nghệ thuật cao, một tác phẩm hay?)
Tính nghệ thuật cao trước hết phải là những tác phẩm hay. Về điều này, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “…Một tác phẩm văn chương không cứ dài mới hay. Khi nào tác phẩm ấy chỉ diễn đạt vừa đủ những điều đáng nói, khi nó được trình bày sao cho ai cũng hiểu được, và khi đọc xong độc giả phải suy ngẫm, thì tác phẩm ấy mới xem như là tác phẩm hay và biên soạn tốt”.
c. Văn hóa đời sống
- Việc xây dựng đời sống văn hóa mới đã được Hồ Chí Minh nêu ra từ khi nào? Nét nổi bật của cuộc vận động này là gì?
Việc xây dựng đời sống mới đã được Hồ Chí Minh nêu ra từ năm 1946, khi vấn đề lối sống, nếp sống, phong cách sống, chất lượng sống… hầu như chưa được bàn đến một cách rộng rãi ở các nước. Nét nổi bật của cuộc vận động này là nó đã nhanh chóng trở thành một phong trào quần chúng sôi nổi ngay từ khi cách mạng mới thành công.
- Khái niệm đời sống mới mà Hồ Chí Minh nêu ra bao gồm những nội dung nào? Các nội dung này quan hệ với nhau như thế nào?
Khái niệm đời sống mới mà Hồ Chí Minh nêu ra bao gồm đạo đức mới, lối sống mới và nếp sống mới. Ba nội dung ấy có quan hệ mật thiết với nhau, trong đó đạo đức đóng vai trò chủ yếu nhất. Đạo đức gắn liền với lối sống và nếp sống, và nói chung lại được thể hiện ra qua lối sống và nếp sống.
- Thế nào là đạo đức mới, lối sống mới và nếp sống mới?
+ Đời sống mới trước hết bao gồm đạo đức mới. Thực chất đó là thực hành đạo đức cách mạng.
+ Về lối sống mới, lối sống mà Hồ Chí Minh xây dựng cho mọi người và thể hiện ngay ở bản thân mình là lối sống có lý tưởng, có đạo đức, lối sống văn minh tiên tiến, kết hợp hài hòa truyền thống tốt đẹp của dân tộc với tinh hoa văn hóa của nhân loại. Lối sống đó thể hiện qua cách ăn, cách mặc, cách ở, cách giao tiếp, cách đi lại, cách làm việc.
Người chỉ rõ: Người ta ai cũng muốn ăn ngon, mặc đẹp, nhưng muốn phải cho đúng thời, đúng hoàn cảnh. Trong lúc nhân dân ta còn thiếu thốn mà một người nào đó muốn riêng hưởng ăn ngon, mặc đẹp, như vậy là không có đạo đức. Trong cách làm việc, Hồ Chí Minh chỉ rõ phong cách làm việc phải bao gồm tác phong quần chúng, tác phong tập thể - dân chủ, tác phong khoa học. Ba loại tác phong đó đều có những nội dung rất cụ thể, phong phú và có quan hệ mật thiết với nhau.
+ Nếp sống mới là lối sống mới đã trở thành thói quen ở mỗi người, thành phong tục tập quán của cả một cộng đồng, trong phạm vi một địa phương hay mở rộng ra cả nước.
Xây dựng nếp sống mới (Nếp sống văn minh) là xây dựng những thói quen và phong tục tập quán tốt đẹp, kế thừa và phát triển những thuần phong mỹ tục lâu đời của dân tộc. Tất nhiên không phải cái gì cũ là bỏ hết, cái gì cũng làm mới. Cũ mà xấu thì bỏ. Cũ mà không xấu nhưng phiền phức thì sửa đổi. Cũ mà tốt thì phát triển thêm. Mới mà hay thì phải làm. Phải bổ sung xây dựng thuần phong mỹ tục trong các vấn đề sinh, giỗ, tết, ma chay, cưới hỏi…; đồng thời phải chống các hủ tục như cờ bạc, hút xách…
- Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, việc xây dựng đời sống mới phải được bắt đầu từ đâu?
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, việc xây dựng đời sống mới phải bắt đầu từ từng người, từng gia đình. Người chỉ rõ: “Do nhiều người nhóm lại mà thành làng. Do nhiều làng nhóm lại mà thành nước. Nếu người này cũng xấu, người kia cũng xấu, thì làng xấu, nước xấu. Nếu mỗi người đều tốt, thì làng tốt, nước mạnh…Nếu mọi người đều cố gắng làm đúng đời sống mới, thì dân tộc nhất định sẽ phú cường”. “Ai cũng làm như thế, thì tự nhiên nước Việt Nam tự trở nên một nước mới, một nước văn minh”.
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
1. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
a) Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò và sức mạnh của đạo đức
- Hồ Chí Minh coi đạo đức có vị trí như thế nào trong mỗi con người?
(Hồ Chí Minh coi đạo đức là “cái gốc” của mỗi con người. Đối với người cách mạng, cái gốc ấy càng quan trọng và cần thiết, cũng giống như gốc của cây, nguồn của sông, của suối.
Người thường nhắc nhở đồng chí và bầu bạn: Đối với mỗi con người sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa; người cách mạng phải có đạo đức cách mạng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang của mình.
Đường Kách mệnh là cuốn sách đầu tiên tuyên truyền trực tiếp chủ nghĩa Mác – Lênin và con đường cứu nước mới cho lớp cán bộ đầu tiên của cách mạng Việt Nam. Nhưng mở đầu cuốn sách lại là bài nói về tư cách một người cách mệnh. Phải chăng Hồ Chí Minh đã nêu lên một quan điểm lớn: Phải có cái đức để đi đến cái trí. Và khi đã có cái trí thì cái đức chính là cái đảm bảo cho người cách mạng giữ vững được chủ nghĩa mà mình đã giác ngộ, đã đi theo).
- Nhấn mạnh vai trò của đạo đức nhưng Hồ Chí Minh có xem nhẹ tài năng không? Theo Người, đức và tài có quan hệ với nhau như thế nào?
(Nhấn mạnh vai trò của đạo đức nhưng Hồ Chí Minh không hề xem nhẹ tài năng. Theo Người, đức và tài phải đi đôi với nhau, kết hợp chặt chẽ với nhau. “Có tài mà không có đức thì là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”).
- Nền đạo đức mà Hồ Chí Minh đặt nền móng xây dựng đã phát huy vai trò như thế nào trong cách mạng Việt Nam?
(Trên thực tế, nền đạo đức mà Hồ Chí Minh đặt nền móng xây dựng đã và đang là vũ khí mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Nhiều cán bộ, đảng viên và nhân dân học tập theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã không quản ngại gian khổ, hi sinh, đem tâm trí, sức lực của mình góp phần vào sự nghiệp cách mạng chung của dân tộc).
b) Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng cơ bản
- Theo Hồ Chí Minh, trong thời đại mới mỗi người Việt Nam phải có những phẩm chất đạo đức cơ bản nào?
(Phải có bốn phẩm chất đạo đức cơ bản: Trung với nước, hiếu với dân; Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; Yêu thương, quý trọng con người; Tinh thần quốc tế trong sáng, thuỷ chung).
Trung với nước, hiếu với dân
- Có phải Hồ Chí Minh là Người đầu tiên đưa ra các khái niệm “trung”, “hiếu” không?
(“Trung”, “hiếu” là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống Việt Nam và phương đông đã được Hồ Chí Minh sử dụng và đưa vào nội dung mới).
- Quan niệm về “trung”, “hiếu” của Hồ Chí Minh khác với quan niệm về “trung”, “hiếu” trong đạo đức truyền thống Việt Nam và phương Đông ở chỗ nào?
(Trong đạo đức truyền thống Việt Nam và phương Đông, “trung” là trung với vua, tức là mọi người trung với một con người; còn “hiếu” là hiếu với cha mẹ. Ngược lại, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, “trung” là trung với nước, trung thành với lợi ích của đất nước, của nhân dân; còn “hiếu” là hiếu với nhân dân, trong đó có cha mẹ mình).
- Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, để thể hiện lòng trung với nước, hiếu với dân, mỗi cán bộ, đảng viên và người dân phải làm gì?
(Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, để thể hiện lòng trung với nước, hiếu với dân, mỗi cán bộ, đảng viên và người dân, trên mọi lĩnh vực công tác và nghề nghiệp, phải làm tốt công việc chuyên môn, hoàn thành tốt quyền và nghĩa vụ công dân của mình, nghiêm chỉnh chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, sống gần gũi, gắn bó với những người xung quanh mình, thân ái, giúp đỡ những người gặp khó khăn, hoạn nạn.
Đối với những người lãnh đạo, Hồ Chí Minh còn yêu cầu phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, lại phải thường xuyên quan tâm đến việc cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí. Thực hiện được những điều đó, nhất định người lãnh đạo sẽ được dân tin, dân yêu, dân kính, nhất định sẽ tạo được sức mạnh to lớn cho cách mạng).

Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
- Hồ Chí Minh đã kế thừa những khái niệm cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư từ đâu và kế thừa như thế nào?
(Hồ Chí Minh đã kế thừa những khái niệm cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư từ đạo đức phương Đông và đạo đức truyền thống Việt Nam. Người đã giữ lại những nội dung tốt đẹp, lọc bỏ những nội dung không còn phù hợp và đưa vào những nội dung mới phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước theo con đường XHCN).
- Hồ Chí Minh đã giải thích các khái niệm cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư như thế nào?
(Hồ Chí Minh đã giải thích:
+ Cần tức là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch và đạt năng suất cao.
Người nhấn mạnh: phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta”.
+ Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân, của nước và của bản thân mình.
+ Liêm tức là trong sạch, không tham lam, không tham tiền tài, danh vọng, địa vị. Liêm tức là “luông tôn trọng giữ gìn của công và của dân”, “Không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân”
+ Chính nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn, thấy việc đúng dù nhỏ cũng làm, thấy điều sai dù nhỏ cũng tránh. Đối với mình, không tự cao tự đại, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa chữa điều giở của bản thân mình. Đối với người, không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới; luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà; không dối trá, lừa lọc. Đối với việc, để việc công lên trên, lên trước việc nhà. Đã phụ trách việc gì thì quyết làm cho kỳ được, không sợ khó khăn, nguy hiểm.
+ Chí công vô tư là không nghĩ đến mình trước, luôn vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào; là đặt lợi ích của cách mạng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Thực hành chí công vô tư cũng có nghĩa là phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân).
- Theo Hồ Chí Minh, các đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư có quan hệ với nhau như thế nào?
(Theo Hồ Chí Minh, các đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư có quan hệ mật thiết với nhau:
+ Người coi cần và kiệm như hai chân của một con người, phải đi đôi với nhau.
+ Người coi cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức của một con người, thiếu một đức thì không thành người.
+ Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư; ngược lại, đã chí công vô tư, một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng, thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính và có được nhiều tính tốt khác).
Yêu thương, quý trọng con người
- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, yêu thương, quý trọng con người có phạm vi như thế nào?
(Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, yêu thương, quý trọng con người là tình cảm rộng lớn giành cho mọi người dân trên trái đất, trước hết là những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức, bóc lột thuộc mọi chủng tộc và màu da).
- Theo Hồ Chí Minh, tình yêu thương, quý trọng con người phải được thể hiện như thế nào?
(Theo Hồ Chí Minh, tình yêu thương, quý trọng con người phải được thể hiện ở:
+ Thể hiện bằng ham muốn tột bậc là làm cho nước được độc lập, dân được tự do, mọi người ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.
+ Thể hiện ở tất cả các mối quan hệ của cuộc sống (Quan hệ với bạn bè, đồng chí, anh em, với mọi người bình thường trong cuộc sống hàng ngày,v.v..).
Tinh thần quốc tế trong sáng
- Theo Hồ Chí Minh, tinh thần quốc tế trong sáng là phẩm chất đạo đức không thể thiếu được đối với mỗi Đảng cách mạng và mỗi người dân. Bản thân Người là một biểu tượng cao đẹp của tinh thần quốc tế trong sáng. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tinh thần quốc tế trong sáng có nội dung như thế nào?
- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tinh thần quốc tế trong sáng có nội dung rộng lớn và sâu sắc. Đó là sự tôn trọng và thương yêu tất cả các dân tộc, nhân dân các nước, chống sự hằn thù, bất bình đẳng dân tộc và sự phân biệt chủng tộc; đó là tình thần đoàn kết với các dân tộc, đoàn kết với nhân dân các nước vì mục tiêu hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
c) Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới
Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức
Trong cuộc sống ta vẫn thường gặp những người nói nhiều làm ít. Những người như vậy sẽ làm mất niềm tin và sự ủng hộ của người khác giành cho mình. Người cán bộ, đảng viên nói nhiều làm ít lại càng nguy hại. Họ không những làm giảm uy tín của bản thân mà còn làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, đến lòng tin của dân vào Đảng.
- Hồ Chí Minh đã giáo dục mọi người nói đi đối với làm, phải nêu gương về đạo đức và chính bản thân người đã thực hiện điều đó một cách nghiêm túc và đầy đủ nhất. Người đã nói, đã hứa việc gì là làm cho kỳ được việc đó, cho dù việc đó là to hay nhỏ, việc quốc gia đại sự hay việc nhỏ nhặt đời thường.
- Hồ Chí Minh hết sức chú trọng đến việc nêu gương đạo đức. Người đã phát hiện ra rằng “Đối với các dân tộc phương Đông, một tấm gương sống có giá trị gấp trăm bài diễn văn tuyên truyền…”. Vì vậy, theo Người, nêu gương phải trở thành một việc làm thường xuyên của mọi Người trong xã hội.
Trong gia đình thì đó là tấm gương của ông, bà, cha, mẹ đối với con cháu, anh, chị đối với em; trong nhà trường thì đó là tấm gương của thầy, cô đối với học trò; trong Đảng, Nhà nước, các đoàn thể thì đó là tấm gương của người lãnh đạo, phụ trách với các đảng viên, nhân viên, đoàn viên; trong xã hội thì đó là tấm gương của người này đối với người khác, mọi người soi vào nhau để học tập ở nhau những điều hay, việc tốt.
Xây đi đôi với chống
- Trong xây dựng đạo đức mới, Hồ Chí Minh chỉ rõ: xây là xây cái đúng, cái tốt, cái đẹp; chống là chống cái sai, cái xấu, cái cũ. Xây và chống phải đi liền với nhau. Muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây.
- Để xây dựng đạo đức mới một cách hiệu quả, Hồ Chí Minh yêu cầu chúng ta:
+ Phải giáo dục những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới cho mọi người.
+ Phải khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh ở mọi người, để mọi người tự giác nhận thức được trách nhiệm đạo đức của mình, tự mình rèn luyện và trau dồi đạo đức hàng ngày.
+ Trong khi xây dựng, bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức mới, phải đồng thời chống lại cái xấu, cái sai, cái vô đạo đức vẫn thường diễn ra.
+ Để xây và chống có kết quả, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi.
Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
Hồ Chí Minh cho rằng: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Do đó, mỗi người phải thường xuyên chăm lo tu dưỡng về đạo đức như việc soi gương, rửa mặt hàng ngày.
Hồ Chí Minh yêu cầu việc tu dưỡng, rèn luyện về đạo đức phải được thực hiện ở mọi nơi, mọi lúc, trong tất cả các hoạt động sống và các mối quan hệ mà người đó tham gia, trên cơ sở của tinh thần tự nguyện, tự giác.
2. Sinh viên học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh (Giáo trình - Tự ghiên cứu).
III. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI
1. Tình yêu thương, lòng tin và khát vọng giải phóng con người của Hồ Chí Minh
a. Nhận thức về con người
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người được nhận thức như thế nào?
- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người thường được xem xét trong các quan hệ xã hội của nó. Người viết: “Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng hơn là cả loài người”.
- Bao giờ Người cũng nói đến con người lịch sử cụ thể. Tuỳ theo từng thời điểm, không gian lịch sử cụ thể, Người dùng khái niệm này hay khái niệm khác để chỉ “con người”.
b. Tình yêu thương con người của Hồ Chí Minh
Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh trước hết biểu hiện ở tấm lòng thương yêu con người, thương yêu nhân dân hết sức bao la sâu sắc.
- Lòng yêu thương con người của Hồ Chí Minh rộng mở cho những ai?
(Lòng yêu thương con người của Hồ Chí Minh rộng mở cho tất thảy mọi người. Đó là tất cả những người Việt Nam yêu nước, không phân biệt già trẻ, gái trai, giàu nghèo, quý tiện…Đó là tất cả những người cùng khổ, không phân biệt chủng tộc và màu da.
Hồ Chí Minh yêu thương đồng bào, đồng chí của mình, không phân biệt một ai, không trừ một ai. Hễ ai là người Việt Nam yêu nước đều có chỗ trong tấm lòng nhân ái của Người. Thấm nhuần chủ nghĩa quốc tế vô sản, tình yêu thương con người của Hồ Chí Minh còn giành cho cả những người nô lệ mất nước, những người cùng khổ trên khắp thế gian; cho những người da đen – nạn nhân của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc; cho những người da trắng bần cùng; cho những người phụ nữ Pháp, Mỹ có chồng, con bị đưa sang Việt Nam làm bia đỡ đạn, cho chính những binh lính pháp, Mỹ chết uổng trong các cuộc chiến tranh xâm lược của bọn đế quốc, thực dân).
- Lòng yêu thương con người của Hồ Chí Minh thể hiện như thế nào trong cuộc đời của Người?
(Lòng yêu thương con người của Hồ Chí Minh trước sau như một. Tình cảm, tư tưởng đó thể hiện sâu sắc, phong phú trong suốt cuộc đời của Người.
Từ khi bắt đầu biết nhận thức về cuộc sống cho đến khi trút hơi thở cuối cùng trái tim Bác luôn thổn thức với niềm đau, nỗi khổ của con người. Trước lúc vĩnh viễn đi xa, trong Di chúc, Người viết: “Đầu tiên là vấn đề con người” và “Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng. Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế”).
- Lòng yêu thương con Người của Hồ Chí Minh có phải là lòng thương hại hay sự động lòng trắc ẩn không?
(Lòng yêu thương con người của Hồ Chí Minh không phải là lòng thương hại của “bề trên” nhìn xuống, cũng không phải là sự động lòng trắc ẩn của người “đứng ngoài” trông vào, mà là sự đồng cảm của những người cùng cảnh ngộ.
Vậy nên, Hồ Chí Minh không đứng ở trên cao nhìn xuống ban ơn, không đứng ở bên ngoài thông cảm, mà đứng ở trong lòng nhân dân, trong lòng nhân loại, đập cùng một nhịp tim, chia cùng một sức sống, mang cùng một hơi thở…với nhân dân, với dân tộc và nhân loại. Tình yêu thương của Người là tình yêu thương của người trong cuộc).
c. Tin vào sức mạnh, phẩm giá và khả năng vươn lên chân, thiện, mỹ của con người
Hồ Chí Minh có niềm tin vào nhân dân như thế nào?
- Ở Hồ Chí Minh, lòng yêu thương con người luôn gắn chặt với niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh, phẩm giá, khả năng vươn lên chân, thiện, mỹ của con người.
- Hồ Chí Minh tin vào sức mạnh vô địch của quần chúng nhân dân. Người viết: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”; “Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
- Người cũng luôn tin vào phẩm giá và khả năng vươn lên chân, thiện, mỹ, của con người, dù nhất thời họ còn thấp bé, lầm lạc. Người chỉ rõ: “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi”.
2. Đối với Hồ Chí Minh, con người vừa là mục tiêu giải phóng vừa là động lực của cách mạng
a. Con người là mục tiêu giải phóng của sự nghiệp cách mạng
Con người là mục tiêu giải phóng trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện như thế nào?
- Tiếp nối dòng chảy của chủ nghĩa nhân văn Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người, xoá bỏ mọi áp bức, bóc lột, bất công, đem lại cho nhân dân mình một cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
- Để thực hiện từng bước mục tiêu giải phóng con người trên đất nước mình, Hồ Chí Minh yêu cầu mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, mọi việc làm của cán bộ, đảng viên và người dân đều phải hướng tới con người, vì con người.
- Bản thân Hồ Chí Minh là một tấm gương mẫu mực về sự tận tuỵ phục vụ nhân dân, quan tâm, chăm lo đến đời sống của mọi người.
b. Con người là động lực của cách mạng
- Theo Hồ Chí Minh muốn gải phóng con người ta phải dựa vào lực lượng nào?
Trong khi khẳng định mục tiêu của cách mạng là giải phóng con người, mang lại tự do hạnh phúc cho con người, Hồ Chí Minh cũng đồng thời khẳng định rằng sự nghiệp giải phóng là do chính bản thân con người thực hiện. Người cho rằng con người là động lực chủ yếu của cả cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Để khơi dậy động lực con người cho sự nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh yêu cầu chúng ta phải có những biện pháp, cách thức như thế nào?
Để khơi dậy động lực con người cho sự nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh yêu cầu chúng ta phải có những biện pháp, cách thức như: phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân; tác động vào nhu cầu, lợi ích của mỗi người, giải quyết tốt các mối quan hệ về lợi ích của con người; tác động vào các động lực chính trị, tinh thần; khoan dung trước tính đa dạng của con người; biết dùng người,v.v..
3. Xây dựng con người là chiến lược hàng đầu của cách mạng
- Tại sao Hồ Chí Minh lại xác định việc xây dựng con người là chiến lược hàng đầu của cách mạng?
Sở dĩ Hồ Chí Minh xác định việc xây dựng con người là chiến lược hàng đầu của cách mạng bởi vì muốn phát huy nguồn lực con người cho sự nghiệp cách mạng thì quan trọng nhất là phải xây dựng con người phát triển về thể chất, thể lực, đạo đức, trí tuệ, kỹ năng đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng. Người khẳng định: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây. Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Người còn viết: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”.
- Theo Hồ Chí Minh để “trồng người”, xây dựng con người phát triển toàn diện biện pháp nào là quan trọng nhất? Tại sao?
Theo Hồ Chí Minh để “trồng người”, xây dựng con người phát triển toàn diện cần phải áp dụng nhiều biện pháp, nhưng giáo dục là biện pháp quan trọng nhất. Bởi, theo Người, “tính người” chủ yếu do giáo dục tạo nên. Người viết: “Óc của những người trẻ tuổi trong sạch như một tấm lụa trắng. Nhuộm xanh thì nó sẽ xanh. Nhuộm đỏ thì nó sẽ đỏ. Vì vậy sự học tập ở trong trường có ảnh hưởng rất lớn đến tương lai của thanh niên”.
KẾT LUẬN (Gáo trình)

nguon VI OLET