VẺ ĐẸP CỦA HÌNH TƯỢNG NGƯỜI BÀ
TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN HỌC
“Ngó lên nuột lạt mái nhà
Bao nhiêu nuột lạt nhớ ông bà bấy nhiêu”
(Ca dao)
Trong gia đình, ông bà luôn được tôn kính nhất. Hình tượng “Bà tôi đưa tôi ra đầu làng/Một mình bà đội cả trời nắng to...” Trong ca khúc “Bà tôi” của nhạc sĩ Nguyễn Vĩnh Tiến đã từng xúc động biết bao tâm hồn yêu “Bài hát Việt”.
Bà chính là cội nguồn của yêu thương, là hiện thân của quê hương thiêng liêng và yêu dấu ! Chính vì thế, hình tượng Bà hiện lên trong văn học tuy không nhiều lắm và cũng không tập trung thành để tài nổi bật như hình tượng Người mẹ nhưng những trang viết về Người Bà vẫn để lại ấn tượng sâu sắc và đẹp đẽ trong lòng mỗi chúng ta.
Với thế giới trẻ thơ, Bà là người tốt nhất, giàu yêu thương nhất, để lại ấn tượng khó phai mờ nhất. Đặc biệt là đối với trẻ thơ bất hạnh thì “Có lẽ tất cả các bà đều rất tốt, bà tớ ngày trước cũng rất tốt...” (Thời thơ ấu - M.gơ-rơ-ki)
Còn nhớ trong tác phẩm “Cô bé bán diêm” của An-dec-xen (Văn học Đan Mạch), khi cô bé bán diêm rơi vào tình cảnh khốn cùng nhất, em bị cả xã hội quay lưng lại, bỏ rơi em trong cái đêm giao thừa mưa tuyết giá lạnh và đói khát. Cô bé đã chết nhưng trên gương mặt em “ Vẫn có đôi môi đang mỉm cười” Bởi vì vào giây phút đau khổ nhất, tuyệt vọng nhất em đã nghĩ đến người bà yêu quý của em.. “em quẹt que diêm vào tường, một ánh sáng xanh và em bé nhìn thấy rõ ràng bà đang mỉm cười với em.
- Bà ơi ! em bé reo lên cho cháu đi với ! cháu biết rằng diêm tắt thì bà cũng biến đi như lò sưởi, ngỗng quay và cây nôen ban nãy xin bà đừng bỏ cháu ở nơi này ;Trước kia khi bà chưa về với thượng đế chí nhân, bà cháu ta đã từng sung sướng biết bao dạo ấy bà đã từng nói nếu cháu ngoan ngoãn cháu sẽ được gặp lại bà, bà ơi ! (...) thế là em quẹt tất cả những que diêm còn lại trong bao. Em muốn níu bà em lại ! diêm nối nhau chiếu sáng như giữa ban ngày chưa bao giờ em thấy bà to lớn và đẹp lão như thế này. Bà cụ cầm lấy tay em rồi hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi, chẳng còn đói rét buồn đau nào đe dọa họ nữa...”
Với thế giới trẻ thơ, Người bà không chỉ giàu yêu thưong mà còn là kho tri thức vô cùng phong phú dồi dào. Thế giới cổ tích trong những câu chuyện bà kể vẫn mãi là sự kỳ lạ và hấp dẫn ... “Tôi kể lại những chuyện bà tôi kể và nếu quên chỗ nào, tôi bảo chúng đợi rồi chạy về nhà hỏi lại bà tôi” (Thời thơ ấu -M.gơ-rơ-ki).
Thế giới cổ tích từ lời bà kể với những cô Tiên, ông Bụt, Người hiền...tượng trưng cho những điều tốt đẹp đã làm cho trẻ thơ say mê, háo hức, góp phần hình thành nhân cách tâm hồn từ thuở ấu thơ. Nữ sĩ Xuân Quỳnh đã viết:
“Biết trẻ con khao khát
Chuyện đời xưa đời sau
Chẳng biết là từ đâu
Mà bà về ở đó
Kể cho bao chuyện cổ
Chuyện con Cóc nàng Tiên
Chuyện cô Tấm ở hiền
Thằng Lí Thông ở ác
(Truyện cổ tích về loài người)
Để rồi, khi lớn lên ấn tượng về bà sẽ mãi sâu sắc trong lòng người cháu.
Nhà thơ Bằng Việt đã mang theo hình ảnh đẹp của bà suốt cả khoảng thời gian du học ở nước ngoài như mang theo hơi ấm của bếp lửa tình yêu thương sâu sắc về gia đình, về quê hương đất nước:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nằng mưa”
Hình tượng Bà đã tỏa sáng cả bài thơ là hình tượng về sự tảo tần chịu thương chịu khó suốt đời hy sinh cho con, cho cháu và cho tổ quốc:
”Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế”
Bà đã thay bố mẹ chăm sóc dạy bảo cháu nên người
“Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm bà chăm cháu học”
Bà đã làm tròn nhiệm vụ ở hậu phương để bố mẹ cháu ở tiền phương yên tâm đánh giặc. Hình tương người bà quả thật đẹp đẽ: vừa gần gũi bình dị vừa rất đỗi lớn lao phi thường. Nhà thơ đã không kìm nén được xúc động của lòng mình khi nghĩ đến bà:
“Ôi kì lạ và thiêng liêng - Bếp lửa!”.
Nếu như hình tượng Bếp lửa là vẻ đẹp hình tượng Người bà trong lòng nhà thơ Bằng Việt những năm xa tổ quốc thì với nhà thơ Xuân Quỳnh hình tượng Người bà hiện lên qua âm thanh “Tiếng gà trưa” lại trở thành điểm tựa tinh thần quý giá của người cháu trên đường hành quân xa ra chiến trường đánh giặc
“Trên đường hành quân xa
Dừng chân bên xóm nhỏ
Tiếng gà ai nhảy ổ
“Cục...cục tác cục ta”
Nghe xao động nắng trưa
Nghe bàn chân đỡ mỏi
Nghe gọi về tuổi thơ”
Và cứ thế, kí ức hiện về qua hình tượng ”Tiếng gà trưa” gắn liền với tình thương của bà dành cho đứa cháu mồ côi:
“Mong trời đừng sương muối
Để cuối năm bán gà
Cháu được quần áo mới”
tiếp thêm sức mạnh cho tác giả:
“Tiếng gà trưa
Mang bao nhiêu hạnh phúc
Đêm cháu về nằm mơ
Giấc ngủ hồng sắc trứng”
Điểm qua hình tượng Người Bà trong một số tác phẩm, chúng ta thấy rằng: Văn học đã có những hình tượng khá đậm nét ngợi ca hình tượng Người bà. Qua những trang viết giàu yêu thương và cảm phục ấy hình tượng Người bà hiện lên vừa gần gũi, giản dị, sâu lắng mà cũng rất đỗi lớn lao và cao quý. Bởi chính bằng tình yêu thương nồng ấm, bằng sự tảo tần chi chút, bằng đức hy sinh vô bờ bến, Người Bà không chỉ là biểu trưng cho tình cảm gia đình mà còn là ngọn lửa nhen lên trong lòng mỗi chúng ta những tình cảm thiêng liêng vĩ đại:
“Cháu chiến đấu hôm nay
Vì lòng yêu tổ quốc
Vì xóm làng thân thuộc
Bà ơi cũng vì bà..."
(“Tiếng gà trưa” - Xuân Quỳnh)
Huế, ngày 26 tháng 3 năm 2008
Hà Châu Anh